Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Mùa nước kiệt và một số bệnh vi khuẩn có liên quan trên Tôm - Cá nuôi doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.86 KB, 18 trang )

Mùa nước kiệt và một số bệnh vi khuẩn có liên
quan trên Tôm - Cá nuôi
Bệnh trên cá: Có thể gặp các bệnh do các dòng vi
khuẩn: Aeromonas hydrophyla, Aeromonas sp.,
Pseudomonas sp., Edwardsiella sp. Bệnh do môi
trường, dinh dưỡng.
Bệnh trên tôm: Thường thấy như đóng rong, đen
mang, đốm nâu, ăn mòn phụ bộ

BỆNH DO NHÓM VI KHUẨN
Vi khuẩn là một trong những tác nhân gây bệnh khá
quan trọng, là trở lực chủ yếu kìm hãm phát triển và
mở rộng sản xuất trong nuôi trồng thủy sản. Hầu hết
các vi khuẩn gây bệnh là một phần của hệ vi sinh vật
bình thường trong môi trường (nước biển, ao, hồ,
sông rạch) và nói chung các vi khuẩn này được xem
là tác nhận gây bệnh thứ cấp hoặc tác nhân gây bệnh
cơ hội. Tuy nhiên cũng có một số ít các loài vi khuẩn
là tác nhân khởi phát, bệnh xảy ra thường là do biến
động các yếu tố môi trường hoặc do stress nhưng
cũng có thể gây chết cao.

Tỷ lệ chết do nhiễm khuẩn có thể lên đến 100%, bệnh
có thể xảy ra dưới dạng mãn tính, bán cấp tính và cấp
tính. Hầu hết các vi khuẩn gây bệnh trên thủy sản đều
có những triệu chứng gần giống nhau, đặc biệt là trên
cá.

1/ Bệnh nhiễm khuẩn do Aeromonas
Tác nhân gây bệnh: Nhóm vi khuẩn gây bệnh thuộc
giống Aeromonas: A.Hydrophila, A. Caviae, A.


Sobria,
Đối tượng nhiễm bệnh: Các loại cá nuôi nước ngọt:
cá tra, cá basa, cá trê, cá điêu hồng, cá bống tượng,
cá tai tượng
Lứa tuổi mắc bệnh: Cá con dễ mẫn cảm hơn cá
trưởng thành, có thể gây chết đến 80%.

Dấu hiệu bệnh lý:
* Cá bệnh bị sẫm màu từng vùng ở bụng.
* Xuất hiện từng mảng đỏ trên cơ thể.
* Hoại tử đuôi, vây, xuất hiện các vết thương trên
lưng, các khối u trên bề mặt cơ thể, vảy dễ rơi rụng.
* Mắt lồi, mờ đục và phù ra. Xoang bụng chứa dịch,
nội tạng hoại tử.

Phòng trị:
+ Tránh tạo ra các tác nhân cơ hội như nhiễm ký sinh
trùng, tránh làm xây xát cá, vệ sinh không đúng quy
định, nước giàu chất hữu cơ, mật độ nuôi quá dày,
hàm lượng ôxy thấp, ô nhiễm từ các nguồn nước thải
công nghiệp
+ Dùng thuốc tím tắm cá, liều dùng là 4g/ m
3
nước
đối với cá nuôi ao và 10g/ m
3
nước đối với cá nuôi
bè. Xử lý lập lại sau 3 ngày, định kỳ tắm cá một tuần,
hai tuần hoặc một tháng/lần tùy thuộc vào tình trạng
sức khỏe cá.

Dùng thuốc trộn vào thức ăn (liều lượng tính trên
nguyên liệu pha trộn, tùy theo thành phần nguyên
liệu trong bao gói mà tính ra lượng thuốc):
+ Oxytetracyline: 55-77 mg/kg thể trọng cá nuôi, cho
ăn 7-10 ngày, nên hạn chế sử dụng.
+ Streptomycine: 50-75 mg/kg cá nuôi, cho ăn 5-7
ngày.
+ Kanamycine: 50 mg/kg cá nuôi, cho ăn 7 ngày.
+ Nhóm Sulfamid: 100-200 mg/kg, cho ăn 10-20
ngày.

2/ Bệnh nhiễm khuẩn do Pseudomonas
Tác nhân gây bệnh: Do các dòng vi khuẩn như
P.fluorescens, P.anguilliseptica, P.chlororaphis,
Đối tượng nhiễm bệnh: Các loài cá nuôi nước ngọt:
Cá tra, cá basa, cá trê, cá bống tượng, cá tai tượng

Dấu hiệu bệnh lý:
+ Xuất huyết từng đốm nhỏ trên da, chung quanh
miệng và nắp mang, phía mặt bụng.
+ Bề mặt cơ thể có thể chảy máu, tuột nhớt nhưng
không xuất huyết vây và hậu môn.
+ Pseudomonas spp. gây nhiễm khuẩn huyết thường
liên quan đến các stress, các thương tổn da, vẩy do
các tác nhân cơ học, nuôi với mật độ cao, dinh dưỡng
kém, hàm lượng ôxy giảm
+ Pseudomonas spp. xâm nhập vào cơ thể cá qua các
thương tổn ở mang, da

Phòng trị:

(i) Giảm mật độ nuôi.
(ii) Cung cấp nguồn nước tốt.
(iii) Tắm 3-5 ppm ( KMnO
4
) không qui định thời
gian.
(iv) Có thể dùng các loại kháng sinh để điều khi như
trong bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas.

3/ Bệnh nhiễm khuẩn do Edwardsiella
Tác nhân gây bệnh: bệnh do vi khuẩn Edwardsiella
tarda, E.ictaluri.
Đối tượng nhiễm bệnh: Các loài cá nuôi nước ngọt:
Cá tra, cá basa, cá trê, cá điêu hồng (cá rô phi đỏ), cá
rô phi, cá bống tượng, cá tai tượng, cá chép

Dấu hiệu bệnh lý:
+ Xuất hiện những vết thương nhỏ trên da (phía mặt
lưng), đương kính khoảng 3-5mm, những vết thương
này sẽ phát triển thành những khối u rỗng bên trong
cơ, da bị mất sắc tố.
+ Cá mắc bệnh sẽ mất chức năng vận động do vây
đuôi bị tưa rách. Có thể xuất hiện những vết thương
bên dưới biểu bi, cơ, khi ấn vào sẽ phát ra khí có mùi
hôi, các vết thương này sẽ gây hoại tử vùng cơ chung
quanh.
+ Bệnh thường xảy ra trên cá lớn.
+ Bệnh xuất hiện khi chất lượng nước trong môi
trường nuôi xấu, nuôi với mật độ dày, nhiệt độ thích
hợp để bệnh phát triển khoảng 30

o
C. Tuy nhiên bệnh
cũng xuất hiện khi nhiệt độ nước thấp hơn và dao
động bất thường.
+ Riêng dòng vi khuẩn E. ictaluri là tác nhân gây nên
bệnh có mủ trên gan cá tra. Đây là bệnh vô cùng
nguy hiểm gây chết cá hàng loạt và rất khó điều trị.
Giai đoạn gây hại nặng nhất từ cá hương lên giống và
từ giống đến dưới 600 g/con.

Phòng trị:
+ Cải tiến chất lượng nước trong môi trường nuôi.
+ Giảm thấp mật độ nuôi.
+ Có thể dùng các loại kháng sinh để điều trị như
trong bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas.

NHÓM BỆNH DO MÔI TRƯỜNG VÀ DINH
DƯỠNG
+ Bệnh do thiếu Oxy: Mùa nước kiệt mực nước
xuống thấp, bức xạ mặt trời dễ dàng làm cho nhiệt độ
nước tăng cao, làm cho sự phân hủy chất hữu cơ
trong môi trường nước diễn ra nhanh hơn và quyết
liệt hơn. Quá trình này đòi hỏi phải tiêu tốn một
lượng Oxy hòa tan trong nước rất lớn. Đây là nguyên
nhân gây thiếu Oxy cục bộ trong ao nuôi cũng như
trên các dòng chảy cạn. Cho nên cần phải theo dõi
nhiệt độ nước trên sông nơi neo đậu bè cũng như
nhiệt độ nước trong ao nuôi để tránh hiện tượng thiếu
Oxy cục bộ vừa nêu. Nhiệt độ thích hợp cho các loài
cá nuôi bản địa vùng đồng bằng sông Cửu Long

(ĐBSCL) nằm trong khoảng: 26 – 30
o
C

+ Bệnh do tảo: Trong điều kiện nhiệt độ nước tăng
cao như đã nói trên quá trình phân hủy các vật chất
hữu cơ hoàn toàn sẽ tạo ra nhiều CO
2
theo phương
trình:

t
o
, AS

(C , H , O , N) + O
2
< > CO
2
+ H
2
O + E

Chính hàm lượng CO
2
góp phần làm cho pH nước
tăng lên tạo điều kiện cho các loài tảo phát triển rất
mạnh gây nên hiện tượng “nở hoa nước” (nước ao và
sông có nhiều váng tảo màu xanh nổi trên mặt nước
mà bà con hay gọi là “trứng nước”). Các váng tảo

này nổi trên mặt nước lại bị bức xạ mặt trời làm cho
chúng chết đi và lụi tàn dần để đi vào chu trình phân
hủy chất hữu cơ như đã nói trên. Mặt khác trong quá
trình nở hoa nước do các loài tảo phát triển mạnh về
số lượng cho nên vào ban đêm hiện tượng hô hấp của
các loài tảo có diệp lục tố sẽ xảy ra mãnh liệt làm tiêu
hao lượng Oxy hòa tan trong môi trường nước gây
nên hiện tượng thiếu Oxy vào khoảng 0h – 6h sáng.
Cá sẽ nổi đầu trên tầng mặt rất nhiều để lấy Oxy từ
không khí (đối với các loài cá trắng) hoặc nhào lộn
liên tục để đớp Oxy từ khí trời (đối với cá tra, basa).
Quá trình này làm cá suy yếu, giảm sức đề kháng với
bệnh tật và tạo điều kiện cho các tác nhân cơ hội như
ký sinh trùng và vi khuẩn xâm nhập gây bệnh cho cá
nuôi.

Nên cần lưu ý khống chế sự phát triển của tảo bằng
cách thay nước thường xuyên, cho ăn vừa phải tránh
lượng thức ăn dư thừa vô tình như động tác bón phân
cho ao nuôi làm cho môi trường nước trở nên “phú
dưỡng”.

+ Bệnh do thiếu vitamin C: Vitamin C có tác dụng
làm tăng sức đề kháng cho cá, bảo vệ thành mạch
máu, đồng thời góp phần làm tăng khả năng hấp thu
Canxi giúp các khớp xương của cá rắn chắc hơn.
Thiếu Vitamin C có thể gây nên các bệnh hoại tử các
tế bào máu, đối với các loài cá da trơn có thể bị nứt
xương trán do thiếu Vitamin C.


Định kỳ bổ sung Vitamin C cho cá nuôi với liều
lượng 20 - 30 mg/kg thức ăn, tuần cho ăn hai lần.
Tùy theo loại Vitamin C trên thị trường và hướng dẫn
của nhà sản xuất mà có chế độ bổ sung Vitamin C
thích hợp.

BỆNH TRÊN TÔM CÀNG XANH
Một số bệnh thường gặp
- Bệnh đóng rong.
- Bệnh đen mang.
- Bệnh đốm nâu.
- Bệnh ăn mòn phụ bộ

1/ Bệnh đóng rong
Lý do của bệnh đóng rong là do Zoothamnium sp.
hoặc các loại Protozoa bám trên vỏ và mang tôm làm
tôm stress nếu bị nặng thường tôm sẽ không thể lột
vỏ được. Nếu người nuôi tôm không trị được thì sau
này tôm sẽ từ từ bỏ ăn, yếu đi và chết.

Nhận diện bệnh đóng rong và cách kiểm tra: Kiểm tra
tôm trong sàn ăn (vó), thấy vỏ tôm trơn giống như có
nhớt bám trên vỏ tôm và có nhiều khi thấy có rong /
tảo bám trên vỏ tôm,vỏ tôm không sạch. Kiểm tra
trong phòng thí nghiệm bằng Kính hiển vi sẽ thấy
Zoothamnium sp. bám trên vỏ và chân tôm. Sau khi
bị nhiễm bệnh, tôm từ từ yếu đi, giảm ăn, vào nằm
vùi trong đống bùn ao. Nếu không trị tôm sẽ từ từ
chết vì nhiễm bệnh từ các vi khuẩn.


Cách trị bệnh: Giảm số lượng các chất hữu cơ trong
ao bằng cách thay nước (nếu có ao lắng nước). Giảm
thức ăn xuống từ 5 - 10 % trong một thời gian (để
giảm chất hữu cơ thừa). Dùng các vi sinh vật có lợi
ích để phân hủy các chất hữu cơ (Ví dụ: Bacillus
subtilis 1070 hoặc BS-I). Dùng Formalin (thuốc để
diệt Zoothamnium sp. vào buổi tối).
Chú ý: Trong thời gian tôm đang bị bệnh nên trộn
Vitamin C vào thức ăn để giúp tôm giảm stress.

2/ Bệnh đen mang
Bệnh đen mang (có thể thấy màu vàng) thường có
nguyên nhân từ đáy ao nuôi không sạch, có chất hữu
cơ nhiều. Kiểm tra thấy khí độc (Ammonia) ở đáy ao
cao vì có bùn đáy ao nhiều, các chất hữu cơ thừa
nhiều (từ thức ăn thừa - do thức ăn nhiều tôm ăn
không hết, từ tảo chết v.v ). Thường phát hiện bệnh
này trong ao nuôi thả tôm mật độ cao, trong ao nuôi
theo hệ thống không thay nước hoặc ít thay nước.
Ammonia sẽ làm ảnh hưởng tới mang tôm làm mang
có màu đen và nhiều khi có các chất hữu cơ hoặc vô
cơ vào trong mang tôm, nếu không xử lý sẽ làm tôm
nhiễm bệnh từ vi khuẩn. Bình thường bệnh đen mang
xảy ra lúc tôm lớn (tôm được hai tháng rưỡi tới ba
tháng trở lên).

Cách xử lý: Thay nước ao (nên có ao xử lý nước
trước khi sử dụng nước). Dùng Granulite (Zeolite
dạng hạt) để hấp thụ các khí độc đáy ao mỗi 5 -7
ngày một lần. Có thể dùng thêm kháng sinh theo

đúng hướng dẫn kỹ thuật pha trộn với thức ăn cho
tôm để phòng trị bệnh từ vi khuẩn (nên dừng sử dụng
thuốc kháng sinh trước khi thu hoạch bốn tuần. Dùng
vi sinh vật (BS-I ) để giúp phân hủy chất hữu cơ .

Cách phòng bệnh: Quản lý việc cho thức ăn tôm cho
tốt, đừng để cho thức ăn thừa nhiều trong ao. Dùng
loại thức ăn chất lượng cao. Nên có ao lắng nước để
xử lý nước và thay nước khi thấy cần thiết (kiểm tra
thấy Ammonia nhiều hơn 0,1 ppm). Nếu không thể
thay nước được nên dùng vi sinh vật nói trên để giúp
phân hủy chất hữu cơ đáy ao và kết hợp với dùng
Zeolite (loại có thể hấp thụ Ammonia được như:
Asahi Zeolite /Sitto Zeolite/ Granulite) để quản lý
chất khí độc trong và đáy ao nuôi.

3/ Bệnh đốm nâu hay Bệnh ăn mòn phụ bộ
Bệnh thường xảy ra sau khi nuôi 2-3 tháng trở đi, trên
cơ thể tôm xuất hiện các đốm màu nâu và sau đó
chuyển sang màu đen. Khi nhiễm bệnh, thường xuất
hiện ăn mòn các phần phụ như đuôi, chân bụng, râu,
trên thân tôm.
Tôm bị bệnh sẽ rất yếu, hoạt động chậm chạp, con bị
nặng sẽ chết. Tác nhân gây ra bệnh chủ yếu do vi
khuẩn Aeromonas.

Phòng trị: Khi tôm bị bệnh thay dần nước ao. Kiểm
soát phòng ngừa bênh đốm nâu bao gồm: cải thiện
môi trường nuôi thông qua sự chăm sóc, quản lý và
đầy đủ dinh dưỡng, đáy ao phải bằng phẳng, tăng

cường trú ẩn cho tôm, hạn chế tối đa sự tụ tập của
tôm chống hiện tượng ăn thịt lẫn nhau bằng cách
cung cấp đầy đủ thức ăn và giữ cho chất lượng nước
ao luôn tốt.

MỘT SỐ ĐIỀU LƯU Ý TRONG PHÒNG TRỊ
BÊNH CÁ
- Nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh, sử dụng kháng sinh, hóa chất cấm theo Quyết
định số 07/2005/QĐ-BTS ngày 24/2/2005 của Bộ
trưởng Bộ Thủy sản và Quyết định số 26/QĐ-BTS,
ngày 18/8/2005 của Bộ Trưởng Bộ Thủy sản v/v bổ
sung Danh mục kháng sinh nhóm Fluoroquinolones
cấm sử dụng (giới hạn bằng không) trong sản xuất,
kinh doanh thủy sản xuất khẩu vào thị trường Mỹ và
Bắc Mỹ trong suốt quá trình nuôi, bảo quản và chế
biến thủy sản.
- Hạn chế dùng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản.
Sử dụng thuốc, hóa chất phòng và trị bệnh thủy sản
phải theo hướng dẫn của cán bộ chuyên ngành.
- Để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và chất
lượng thủy sản, người nuôi phải ngừng sử dụng thuốc
trước khi thu hoạch theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Tất cả các cơ sở kinh doanh thuốc thú y thủy sản
khi bán thuốc cho người nuôi phải kê toa, chứng từ rõ
ràng và hướng dẫn cho người nuôi biết, sử dụng đúng
liều lượng và thời gian điều trị.
Trần Anh Dũng


×