Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo khoa học: " CÁC CẤU TRÚC ĐẢO NGỮ TOÀN PHẦN TIẾNG ANH VỚI CHỨC NĂNG GIỚI THIỆU THỰC THỂ TRONG DIỄN NGÔN" ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.45 KB, 9 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

83
CÁC CẤU TRÚC ĐẢO NGỮ TOÀN PHẦN TIẾNG ANH VỚI
CHỨC NĂNG GIỚI THIỆU THỰC THỂ TRONG DIỄN NGÔN
ENGLISH FULL INVERSION STRUCTURES WITH THEIR
PRESENTATIVE FUNCTION

Nguyễn Thị Quỳnh Hoa
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng

TÓM TẮT
Bài viết trình bày các phát hiện về các mô hình cụ thể của cấu trúc đảo ngữ toàn phần
tiếng Anh (ĐNTP), đồng thời phân tích các đặc điểm cú pháp và ngữ nghĩa của các thành phần
cấu trúc trong mối quan hệ mật thiết với chức năng giới thiệu thực thể trong diễn ngôn của toàn
bộ câu đảo ngữ. Tiếp thu những nguyên lý cơ bản của ngôn ngữ học truyền thống, bài vi
ết tiếp
cận vấn đề trong sự tham chiếu những quan niệm và phạm trù trong ngôn ngữ học hiện đại.
Hướng tiếp cận này cho phép làm sáng tỏ bản chất của đảo ngữ về cả hai mặt cấu trúc và
chức năng. Bài viết cũng đã chứng minh rằng chức năng giới thiệu thực thể trong diễn ngôn là
một chức năng tiêu biểu của ĐNTP tiếng Anh; nó cho phép sử
dụng các cấu trúc đảo ngữ đa
dạng trong việc kiến tạo các sản phẩm diễn ngôn nhằm thực hiện các mục đích khác nhau của
việc sử dụng ngôn ngữ.
ABSTRACT
This article presents its findings on the specific patterns of English full inversion
structures and analyzes the semantic and syntactic characteristics of the structure components
in close relation with the presentative function of the whole inversion sentences. Based on the
fundamental principles of traditional linguistics, the article deals with t he object of study in
reference to the concepts and categories of modern linguistics. This approach makes it possible
to clarify the nature of inversion in terms of both structure and meaning. The article has also


testified that the presentative function is one of the typical functions of English full inversion,
which allows the use of diversified inversion structures in the construction of discourse products
for various purposes of language use.

1. Đặt vấn đề
Tiếng Anh là một ngôn ngữ thiên chủ ngữ (subject-prominent language) có chủ
ngữ ngữ pháp (CNNP) đứng ở vị trí đầu tiên trong mô hình cấu trúc cơ bản của câu đơn
trần thuật với tư cách là dạng thức chuẩn của câu (the canonical form of the sentence).
Đảo ngữ toàn phần (full inversion) thuộc về loại cấu trúc câu “không cơ bản” và biểu thị
sự “lệch chuẩn” (deviation from the norm). Đặc điểm của những câu có c
ấu trúc đảo
ngữ toàn phần là: chủ ngữ xuất hiện ở vị trí cuối câu và đứng sau toàn bộ động ngữ.
Một số nhà Anh ngữ học [Quirk et al. 1985, Drubig 1988, Green 1989, Givon
1993, Dorgeloh 1997, Huddleston et al. 2002] cho rằng đảo ngữ là một quá trình cú
pháp tạo ra các cấu trúc có chức năng giới thiệu các thực thể vào trong diễn ngôn (to
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

84
introduce entities into discourse) và thuật ngữ dành cho chức năng này là
“presentative/presentational function”. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chưa đi sâu phân
tích chức năng đó và chưa nêu rõ chức năng đó được thể hiện bởi những cấu trúc nào và
những cấu trúc đó có đặc điểm gì về mặt cấu tạo nội bộ.
Bằng việc tìm ra các mô hình khái quát của đảo ngữ toàn phần tiếng Anh
(ĐNTP) và cụ thể hoá những mô hình (MH) đó với những miêu tả về các đặc điểm cấu
tạo hình thức cũng như ngữ nghĩa của các yếu tố tham gia vào mô hình, bài viết này
được thực hiện nhằm mục đích chứng minh rằng chức năng giới thiệu thực thể trong
diễn ngôn được tìm thấy ở tất cả các cấu trúc đảo ngữ toàn phần. Nói cách khác, đó là
chức năng tiêu biểu của các cấu trúc này trong tiếng Anh.
2. Các mô hình khái quát của ĐNTP
Theo ngữ pháp truyền thống tiếng Anh, có hai cách phân tích câu đã được áp

dụng rộng rãi như sau:
Cách thứ nhất phân tích câu ra thành 5 thành phần bắt buộc: S (Subject),
V (Verb), O (Object), C (Complement) và A (Adverbial). Cách phân tích này cho kết
quả là 7 mô hình cơ bản của câu được hình thành căn cứ vào khả năng kết hợp của các
thành phần câu theo trật tự thông thường của chúng, đó là: SV, SVO, SVC, SVA,
SVOO, SVOC, SVOA.
Cách thứ hai chia câu ra thành Chủ ngữ (Subject) và Vị ngữ (Predicate). Vị ngữ
lại được chia nhỏ ra thành “Operator” (trợ động từ thứ nhất) và “Predication” (Vị ngữ
không ngôi). Cách phân tích thứ hai này đưa đến hai mô hình cơ bản là “Subject +
Predicate” và “Subject + Operator + Predication”.
Hiện tượng đảo ngữ xuất hiện trong những biến thể của các mô hình trên. Qua
việc nghiên cứu 500 đoạn văn tiếng Anh có sử dụng các cấu trúc đảo ngữ toàn phần từ
các tiểu thuyết, truyện ngắn của các tác giả là người bản ngữ, chúng tôi nhận thấy rằng
ĐNTP được thể hiện qua 3 mô hình khái quảt là AVS, CVS, Predication + Operator +
Subject”. Tất cả các mô hình này đều có đặc điểm về trật tự thành tố là chủ ngữ xuất
hiện cuối cấu và đứng sau toàn bộ động ngữ.
3. Chức năng giới thiệu thực thể trong diễn ngôn
Theo Firbas [1986, tr. 48] các thành tố trong câu đảo ngữ đảm nhận các chức
năng ngữ nghĩa động (dynamic semantic functions) như sau: “Động từ [ ] thực hiện
chức năng động là diễn tả sự xuất hiện/sự tồn tại [ ], và các trạng ngữ thực hiện chức
năng động là tạo dựng một bối cảnh (setting) [ ]. Còn chủ ngữ thì thực hiện chức năng
động là biểu thị một hiện tượng xuất hiện hay tồn tại trong bối cảnh đó.”
Green [1989, tr. 131] cho rằng thực thể được giới thiệu vào trong diễn ngôn có
thể là một nhân vật quan trọng, một sự vật hoặc một yếu tố thuộc về bối cảnh của một
câu chuyện,
Chúng tôi nhận thấy rằng mặc dầu yếu tố đứng đầu 3 mô hình ĐNTP nêu trên có
thể khác nhau về cấu tạo hình thức, nhưng tất cả chúng đều thể hiện một sự định vị
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

85

(location) để tạo nên một cái nền (scene) hay bối cảnh (setting) nhằm giới thiệu một
thực thể. “Sự định vị” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức là “những vị trí không gian,
những đường dẫn, phương hướng và sự mở rộng của chúng đến một số phạm vi thời
gian và định vị trừu tượng.” [Bresnan 1994, tr. 75].
4. Các mô hình cụ thể của ĐNTP với chức năng giới thiệu thực thể trong diễn
ngôn
Dựa vào những cơ sở lý luận nêu trên, chúng tôi đã cụ thể hoá 3 mô hình khái
quát của ĐNTP thành những mô hình cụ thể, gắn với chức năng giới thiệu thực thể diễn
ngôn của toàn bộ câu đảo ngữ.
4. 1. Mô hình AVS
4.1.1. “Here /Now + Be + Noun Phrase Subject”
Cấu trúc ĐNTP bắt đầu bằng từ chỉ xuất “here” được sử dụng cho mục đích giới
thiệu hoặc đi kèm với hành động của người nói trực tiếp trao cho người nghe một vật gì
đó. Ví dụ:
1. “Here are sandwiches.” He handed me a package. [25, tr. 256]
2. “Here’s a taxidermist’s,” Bill said. “Want to buy anything? Nice stuffed dog?”
[24, tr. 55]
Các thông báo của sân bay, nhà ga hay các bản tin truyền thanh, truyền hình
cũng thường mở đầu bằng những câu như sau:
3. Here is an announcement for passengers on flight TW513 to Miami. .
[22, tr. 108]
4. Here is the news. A diplomat was kidnapped last night in London [20, tr. 701]
Cũng như “here”, ví trí đầu câu ĐNTP của “now” có vai trò hướng sự chú ý của
người đọc/nghe vào một sự kiện hoặc chủ đề cụ thể. Ví dụ:
5. Now is the hour that we must say goodbye
. [12, tr. 55]
6. Now is the time to consider the future of how Britain should be governed.
[6, tr. 68]
4.1.2.“Position Adjunct + Be + Noun Phrase Subject”
Trong MH này, yếu tố đứng đầu câu là một trạng ngữ chỉ vị trí biểu thị sự định

vị trong không gian. Qua xem xét dữ liệu, chúng tôi nhận thấy rằng về mặt ngữ nghĩa,
các trạng ngữ này có thể được quy về 3 loại không gian, cụ thể là như sau:
 Không gian tâm: inside, in the bedroom, in the yard, in my pocket, in the
basket, on the sofa, on the table/floor, on the shelf, on the doorstep, Ví dụ:
7. On the shelves of the Pasteur Museum in Paris are some closed bottles
prepared by Pasteur. The meat juice in them still hasn’t gone bad after more
than a hundred years. [30, tr. 81]
 Không gian biên: on the left, on the right, on one side, on the other side, on
both sides, on all sides, outside, beside him, near her,
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

86
8. Up on the top of the mountain we saw the lights of the fort. Below to the left
was the river. [24. tr.54]
 Không gian định hướng: to the north, to the south, down below, down the
river, up the street, up the valley, across the street/road/square/plain/river, ahead
(of us), behind, behind them/her, below us, before him, in front of the house,
beyond, beyond the river, Ví dụ:
9. The road came out from the shadow of the woods into the hot sun. Ahead was a
river-valley. Beyond the river was a steep hill. [24, tr.54]
Trong mô hình ĐNTP này của tiếng Anh, xuất hiện ở vị trí đầu câu có thể là một
trạng từ chỉ vị trí (position adverb), nhưng thường gặp là một giới ngữ chỉ vị trí
(position prepositional phrase), theo sau bởi động từ be có ngôi (finite) ; đứng ở vị trí
cuối câu là danh ngữ giữ vai trò CNNP. Về mặt ngữ nghĩa, trong MH này, be thể hiện
mối quan hệ đồng nhất về vị trí trong không gian, như trong câu “Ahead was a river-
valley”, hoặc xác lập sự tồn tại của một chủ thể trong một bối cảnh, như trong câu
“Beyond the river was a steep hill”. Cả hai câu này đều sử dụng cấu trúc đảo ngữ để
giới thiệu các thực thể trong diễn ngôn.
Để miêu tả tỉ mỉ, chi tiết một thực thể được giới thiệu vào trong diễn ngôn, chủ
ngữ của câu đảo ngữ có thể là một danh ngữ có có cấu tạo phức tạp và có độ dài vật chất

đáng kể:
10. The rain had stopped and I stepped out of bed and across the floor to the window.
Down below were the gardens, bare now but beautifully regular, the gravel
paths, the trees, the stone wall by the lake and the lake in the sunlight with
the mountains beyond. [25, tr. 239]
4.1.3.“Position Adjunct + Existence Verb + Noun Phrase Subject”
Trong MH này, đứng sau trạng ngữ vị trí là một động từ nội động biểu thị tư thế
hay trạng thái tồn tại của sự vật nêu ra bởi chủ ngữ. Các động từ nội động tiêu biểu
được sử dụng cho mô hình này là stand, sit, lie, live, hang.
11. At the end of the garden stood a handsome building of the newest style. [33,
tr. 82-83]
12. The place is heavily guarded. Because inside its walls sit the European
leaders.[22, tr.108]
13. On one corner lay a school exercise book, with a stone ink-bottle and a pen
beside it. [28, tr.22]
14. There in the Middle-and- Southwest had lived a simple agrarian folk who
had not changed with industry. [26, tr. 361]
15. On the arch hung an old board with the newly painted letters: POST
OFFICE. [29, tr. 82]
Chúng tôi nhận thấy rằng có thể có nhiều động từ chỉ tư thế hay trạng thái tồn tại
cùng xuất hiện trước chủ ngữ đảo, ví dụ:
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

87
16. Immediately below us stood, sat and lay the whole population of Phat Diem.
Catholics, Buddhists, pagans, they had all packed their most valued possessions
( ) and moved into the Cathedral precincts. [23, tr. 48]
4.1.4. “Direction Adjunct + Motion Verb + Noun Phrase Subject”
Trong MH này, đứng sau trạng ngữ chỉ hướng là một động từ biểu thị sự chuyển
động của thực thể được giới thiệu vào trong diễn ngôn. Ví dụ:

17. Imagine, then, every cell acting as a very small, highly efficient factory. Into it
flows the raw material. [30, tr. 97]
18. There were the wolves. Back and forth across the desolation drifted their
howls, weaving the very air into a fabric of manace (…). [31 , tr. 30-31]
4.1.5. “Source Adjunct + Motion Verb + Noun Phrase Subject”
Đứng đầu MH này là một trạng ngữ chỉ nguồn (source adjunct) có cấu tạo hình
thức là một giới ngữ bắt đầu bằng một giới từ chỉ nguồn như from hoặc out of . Trung
tâm cú pháp của MH này là một động từ nội động mang ý nghĩa chuyển động: nó miêu
tả một hành động mang tính chất đặc trưng của thực thể biểu thị bởi danh ngữ đứng
cuối câu.
19. he untied the leather string that fastened the squat moose-hide sack. From its
open mouth poured a yellow stream of coarse gold dust and nuggets.
[27, tr. 26-27].
20. A vase of wildflowers sat in the middle of the table. From the kitchen wafted
aromatic smells of fresh-cooked meat, spices, garlic, and onion. [3, tr. 251]
21. An old man was walking through the town, now and again drawing his tattered
cloak tighter to shield his body from the cold and biting wind. From some
houses standing apart came the sound of grinding mills and the sweet voices
of women singing at their work. [33, tr. 80-81]
4.1.6. “Time Adjunct + Verb + Noun Phrase Subject”
Đối với MH này, đứng ở vị trí đầu câu là một trạng ngữ chỉ thời điểm cụ thể
hoặc trình tự xuất hiện trong thời gian của các sự vật hiện tượng. Ví dụ:
22. Early in 1661 took place a general election. [14, tr. 59]
23. He stopped at a cigar store window to see her go by First came a boy with a
basket on his arm, then an old woman, then a dog ( ). [32, tr. 162]
24. Later that night she made 59 harassing calls between the hours of 11 p.m. and 1
a.m. Three nights later came another 28 calls between 1:52 and 2:30 a.m. [3,
tr. 249]
4.1.7. “Abstract Location Adjunct + Verb + Noun Phrase Subject”
Trong mô hình này, trạng ngữ đứng ở vị trí đầu câu là thành tố chỉ sự định vị

trừu tượng, có chức năng tạo bối cảnh để xác lập sự tồn tại của một đối tượng trong bối
cảnh đó:
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

88
25. All California quickens with produce, and the fruit grows heavy, and the limbs
bend gradually under the fruit so that little crutches must be placed under them
to support the weight. Behind the fruitfulness are men of understanding and
knowledge and skill, men who experiment with seed, endlessly developing
the techniques for greater crops of plants ( ). [26, tr. 441]
26. He was to be a father, he who could hardly look after himself Behind his
anxiety was a faint, tremulous intimation of days when the child should be
his joy and consolation [32, tr. 156]
4.2. Mô hình CVS
Mô hình này được cụ thể hoá là “Adjective Phrase + Be + Noun Phrase
Subject”. Theo Ngữ pháp Tri nhận (Cognitive Grammar) của R.W. Langacker [1993],
điểm xuất phát của một cấu trúc giới thiệu thực thể có thể là một sự định vị hoặc một
thuộc tính. Điều này có liên quan đến nhận định của S. C. Levinson [1983, tr. 79] và J.
Lyons [1977, tr. 648] rằng, nhìn chung, có hai cách cơ bản để nhận diện một đối tượng:
cách thứ nhất là thông báo cho người nghe/đọc về vị trí của nó (tức định vị đối tượng);
cách thứ hai là nêu ra các thuộc tính của nó (tức miêu tả đối tượng).
Theo quan sát của chúng tôi, những câu đảo ngữ có mô hình CVS thì thực hiện
chức năng giới thiệu thực thể trong diễn ngôn bằng cách miêu tả thực thể đó dựa vào sự
so sánh hai đối tượng có cùng một thuộc tính. Ví dụ:
27. These are shocking figures, but even more shocking is the fact that at least
half the people behind these crimes will go undetected. [7, tr. 81]
28. Her face was stony and even stonier was the tone of her voice. [21, tr. 1381]
29. I agree that it is important that the work should be of high standard. Just as/
Equally important, if not more important, is the question of expense.
[1, tr. 218]

Theo H. Dorgeloh [1997, tr. 80], kiểu câu đảo ngữ này không những tạo ra một
sự thay đổi chủ đề (a change of topic) mà còn thể hiện một sự tương phản chủ đề (topic
contrast). Chủ đề ở đây được chúng tôi hiểu là “chủ đề diễn ngôn” (discourse topic)
theo quan niệm của Brown & Yule [1983, tr. 71]. Các ví dụ vừa nêu đều cho thấy kiểu
câu đảo ngữ này chọn ra (single out) một thực thể làm chủ đề với một tầm quan yếu ở
một mức độ cao hơn (a topic entity of higher-level relevance) so với thực thể đã được
đề cập trước đó. Cả hai thực thể này đều cùng chia sẻ một thuộc tính với mức độ bằng
nhau hoặc chênh lệch nhau. Chính vì vậy mà thành phần bổ túc ngữ (complement) trong
mô hình CVS thường là một tính ngữ có chứa các từ ngữ so sánh như equally, also, as,
more, especially, v.v
4. 3. Mô hình PREDICATION + BE + NOUN PHRASE SUBJECT
Đây là trường hợp của câu đảo ngữ tiếng Anh có yêú tố
đầu câu là hiện tại phân
từ (present participle) hoặc quá khứ phân từ (past participle). Ví dụ:
30. Coming up to the stage now is this year’s winner of the Oscar
[74, tr. 228]
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

89
31. Enclosed is a card for our permanent signature file which we request you to
sign and return to us. [56, tr. 906]
Có thể thấy rằng kiểu câu này hướng sự chú ý của người nghe/đọc vào một thực
thể trong tình huống hoặc trong diễn ngôn và yếu tố đầu câu có chức năng tạo bối cảnh
cho việc giới thiệu thực thể đó. Người nói/viết không chỉ đề cập đến hành động hay
trạng thái của thực thể giữ vai trò chủ ngữ mà còn muốn người nghe/đọc tập trung sự
chú ý vào chính bản thân thực thể đó.
5. Kết luận
Trong bài viết này, chúng tôi đã cụ thể hoá 3 mô hình khái quát của ĐNTP tiếng
Anh gắn liền với việc phân tích chức năng giới thiệu thực thể trong diễn ngôn của các
mô hình đó. Chức năng này chính là sự thể hiện một trong những khía cạnh của phần

nghĩa bổ sung (extra-meaning) hay nghĩa phi “nội dung mệnh đề” (non-propositional
meaning) tạo ra do trật tự đảo. Nó cho phép sử dụng các cấu trúc đảo ngữ đa dạng cho
những mục đích cụ thể như sau:
♦ Giới thiệu với người đọc/nghe về một đối tượng có mặt trong tình huống giao tiếp
hoặc trong một hoàn cảnh nhất định.
♦ Trình bày sự hiện diện của các cảnh vật, hiện tượng thiên nhiên được sử dụng để
tạo bối cảnh hay cái nền cho những sự kiện khác được nêu ra bởi những câu xung
quanh.
♦ Miêu tả và xác nhận sự tồn tại hiển hiện, sự xuất hiện của các sự vật, hiện tượng,
con người, trong một hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, với một tư thế
hay trạng thái tồn tại nhất định nhằm đưa người đọc/nghe vào cương vị của người
chứng kiến, làm cho những sự vật hiện tượng ấy như đang bày ra, diễn ra trước
mắt người đọc/nghe.

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ XUẤT XỨ VÍ DỤ

[1] Alexander, L.G. et al. (1975), English Grammatical Structure, Longman, Essex.
[2] Biber, Douglas et al. (1999), Longman Grammar of Spoken and Written English,
Longman, London.
[3] Birner, B.J. (1995), “Pragmatic Constraints on the Verb in English Inversion”,
Lingua (97), Elsevier, pp. 233-256.
[4] Bresnan, Joan (1994), “Locative Inversion and the Architecture of Universal
Grammar”, Language (1), pp. 72-137.
[5] Brown, G., Yule G.(1983), Discourse Analysis. CUP, Cambrige.
[6] Chafe, L. Wallace (1976), “Givenness, Contrastiveness, Definiteness, Subjects,
Topics, and Points of View”, Subject and Topic, pp. 26-54.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

90
[7] Dorgeloh, H. (1997), Inversion in Modern English: Form and Function. John

Benjamins, Amsterdam.
[8] Downing, A., Locke P. (1995), A University Course in English Grammar, Prentice
Hall International, New York.
[9] Drubig, H.B. (1988), “On the Discourse Function of Subject Verb Inversion”,
Essays on the English Language and Applied Linguistics on the Occasion of
Gerhard Nickel’s 60
th
Birthday, pp. 83-95.
[10 Firbas, J. (1986), “On the Dynamics of Funtional Sentence Perspective”, Studying
Writing: Linguistic Approaches, pp. 40-71.
[11] Givon, T. (1993), English Grammar, Volume 2, John Benjamins, Amsterdam.
[12] Green, G.M. (1980), “Some wherefores of English Inversions”, Language (Journal
of The Linguistic Society of America), Vol. 56, pp. 582-601.
[13] Green, G. M. (1989), Pragmatics and Natural Language Understanding, Lawrence
Erlbaum Associates, New Jersey.
[14] Hartvigson, H.H., Jacobsen L.K. (1974), Inversion in Present-day English, Odense
University Press.
[15] Huddleston, R. (ed.) (2002), The Cambridge Grammar of the English Language,
CUP, London.
[16] Langacker, Ronald W. (1993), “Reference Construction”, Cognitive Linguistics (1),
pp. 1-38.
[17] Levinson, S.C. (1983), Pragmatics, CUP, Cambridge.
[18] Lyons, J. (1977), Semantics, Vol. 1 & 2, CUP, Cambridge.
[19] Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (1996), English Inversion versus Vietnamese Equivalents,
M.A. Thesis, College of Foreign Languages, Hanoi.
[20] Quirk, R. et al. (1972), A Grammar of Comtemporary English, Longman, Essex.
[21] Quirk, R. et al. (1985), A Comprehensive Grammar of the English Language,
Longman, London.
[22] Đức Tài, Tuấn Khanh (1995), Văn phạm Anh ngữ Oxford, (dịch từ Oxford Guide
to English Grammar của John Eastwood 1994), Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.

[23] Greene, G. (1962), The Quiet American, Penguin Group, London. Hemingway
Ernest (1952), The Old Man and the Sea, Jonathan Cape, London.
[24] Hemingway, E. (1993), A Farewell to Arms, David Campbell Publishers Ltd.,
London.
[25] Jones, L. (1990), Progress to First Certificate, 2nd edition, CUP, Cambridge. (139)
[26] Phương Anh (1993), Khúc ca Noel, (dịch từ A Christmas Carol của Charles
Dickens), Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

91
[27] Đặng Thế Bính (1988), Truyện ngắn chọn lọc, (Song ngữ Anh-Việt), (dịch từ
Selected Short Stories của Henry Lawson), Nxb Ngoại văn, Hà Nội.
[28] Lưu Minh Dũng et al. (1999), Special English (13), Youth Publishing House,
HoChiMinh City.
[29] Thôn Bạch Hạc (2000), Tạm biệt ngài Hollywood, (Song ngữ Anh-Việt), (dịch từ
Goodbye Mr. Hollywood của John Escott), Nxb Kim Đồng, HN.
[30] Nguyễn Vạng Hộ (1987), Robinson Crusoe, (Song ngữ Anh-Việt) (dịch từ
Robinson Crusoe do Michael West viết lại), Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ
Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
[31] Mạc Mạc (1986), Hạnh phúc ngắn ngủi của Frankxit Macombơ (Song ngữ Anh-
Việt) (dịch từ The Short Happy Life of Francis Macomber của Ernest
Hemingway), Nxb Ngoại văn, Hà Nội.
[32] Bùi Phụng (2000), Mặt trời vẫn mọc (dịch từ The Sun Also Rises của Earnest
Hemingway 1944), Nxb Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí
Minh.
[33] Nguyễn Thêm et al. (eds.) (1992), Sunflower (13-14), HoChiMinh City Publishing
House, HoChiMinh City.
[34] Giang Hà Vỵ (1987), Giã từ vũ khí (dịch từ A Farewell to Arms của Earnest
Hemingway ), Nxb Mũi Cà Mau, Cà Mau.




×