Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "KHẢO SÁT VIỆC THỂ HIỆN MỘT SỐ MẪU NGỮ ĐIỆU CƠ BẢN TRONG TIẾNG ANH CỦA HỌC VIÊN TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN BẾN TRE" ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.3 KB, 7 trang )

178
KHẢO SÁT VIỆC THỂ HIỆN MỘT SỐ MẪU
NGỮ ĐIỆU CƠ BẢN TRONG TIẾNG ANH
CỦA HỌC VIÊN TẠI TRUNG TÂM
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN BẾN TRE
AN INVESTIGATION INTO BASIC ENGLISH INTONATION
PATTERNS PERFORMED BY THE VIETNAMESE LEARNERS
AT BEN TRE CONTINUING EDUCATION CENTER

NGŨ THIỆN HÙNG
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
LÊ VĂN HOÀNG
Cao học K.05-08

TÓM TẮT
Bài này điều tra thực trạng thể hiện một số ngữ điệu cơ bản trong tiếng Anh của
học viên ở Trung tâm Giáo dục Thường xuyên Bến Tre. Với kết quả khảo sát, đề
tài cung cấp cho người học một số kiến thức hữu ích nhằm giúp cải thiện việc
thực hiện ngữ điệu tiếng Anh kèm với một số bài tập và hoạt động.
ABSTRACT
This article investigated the basic English intonation patterns performed by the
Vietnamese learners at Ben Tre Continuing Education Centre. From the findings, I
provided the learners with essential knowledge to improve their performance of
English intonation with suggested activities and exercises.

1. Đặt vấn đề
Học một ngoại ngữ - để có thể nắm vững, hiểu thấu đáo nó, ngoài việc
chúng ta có một lượng kiến thức ngôn ngữ nhất định, chúng ta còn có khả năng thể
hiện tốt các kỹ năng ngôn ngữ như là: kỹ năng viết đúng, hay khả năng đọc - hiểu,
bên cạnh đó còn phải diễn đạt được lời nói, lĩnh hội được thông tin thông qua quá
trình giao tiếp.


Trong quá trình này, để nghe-hiểu được người bản ngữ cần phải đạt được
một kỹ năng phát âm chuẩn xét trên bình diện tiếp nhận (perception) lẫn tạo phát
(production). Trong các bình diện thể hiện lời nói, ngữ điệu là một yếu tố then chốt
chuyển tải ý định giao tiếp mà người học và cả người dạy đều chưa chú trọng và
do vậy, gặp nhiều khó khăn trong khâu tạo lời (locution).
Qua nhiều năm giảng dạy tiếng Anh ở Trung tâm Giáo dục Thường xuyên
tỉnh Bến Tre với giáo trình được chọn để giảng dạy chính cho cả ba trình độ A, B,
C là Streamline English, tôi nhận thấy rằng học viên gặp rất nhiều khó khăn khi
thể hiện những mẫu ngữ điệu cơ bản để thể hiện những hành động giao tế thông
thường như yêu cầu, ra lệnh… hay thái độ vui, buồn…. Từ đây, trước yêu cầu cấp
thiết đòi hỏi giáo viên và người học phải chú ý hơn nữa về vấn đề kỹ năng lời nói,
179
tôi tiến hành đề tài này nhằm khảo sát những vấn đề mà học viên gặp phải khi thể
hiện ngữ điệu trong giao tiếp, nhằm giúp học viên nhận thức rõ hơn vấn đề thể
hiện lời nói và có cách cải thiện hiệu quả hơn nữa năng lực giao tiếp. Trong phạm
vi bài này, tôi tập trung khảo sát tình hình thể hiện các mẫu hình ngữ điệu
(Intonation patterns) tiếng Anh của học viên tại Trung tâm Giáo dục Thường
xuyên Tỉnh Bến Tre với các ý nghĩa đặc thù thông qua các ngữ huống giao tiếp cụ
thể.
2. Một số khái niệm cơ bản có liên quan
2.1. Chuyển dịch cao độ (Pitch movement)
Theo O’ Grady, Dobrovolsky, Katamba (6, 46) thì “chuyển dịch cao độ
trong phát ngôn (PN) không liên quan đến các sự khác biệt về nghĩa của từ thì
được gọi là ngữ điệu”. Ví dụ, từ student (sinh viên), dù được phát ngôn (PN) với
ngữ điệu như thế nào thì vẫn không gây nên sự khác biệt về nghĩa từ vựng của nó.
Tuy nhiên, ngữ điệu lên hay xuống trong trường hợp này đã lần lượt làm đổi khác
mục đích PN, làm cho PN này trở thành nghi vấn hay trần thuật.
Ví dụ: You’re a student. (PN với mục đích trần thuật)
You’re a student. (PN với mục đích nghi vấn đoán định)
2.2. Trọng âm từ (word stress) và chủ âm của câu (Tonic stress)

Trong tiếng Anh có nhiều từ đa âm tiết, mỗi từ có một âm tiết (AT) mang trọng
âm cho nên trọng âm từ là xuất phát điểm của việc nghiên cứu nhịp điệu và ngữ
điệu tiếng Anh. Nếu chủ thể phát ngôn không xác định được trọng âm từ thì ngoài
việc gây ảnh hưởng đến nghĩa từ vựng trong giao tiếp, làm cho người tiếp thụ PN
khó hiểu (vì không biết điểm nhấn thông tin ở đơn vị từ vựng nào), còn gây khó
khăn cho chính chủ thể PN trong việc thể hiện ngữ điệu, truyền đạt ý nghĩa chính
của thông điệp vì không xác định được chủ âm câu, do vậy không biết ngữ điệu
lên xuống bắt đầu từ A.T nào)
Ví dụ: với PN What an AWful party! người nói có thể gặp khó khăn khi
xác định chủ âm để lên hay xuống giọng khi muốn thể hiện một PN với mục đích
khen chê.
2.3. Đơn vị ngữ điệu (Intonation unit)
Đơn vị ngữ điệu là một khúc đoạn của lời nói và bao giờ cũng phải có ý
nghĩa thông báo nhất định.
Nếu là một đơn vị ngữ điệu dù là đơn vị ngữ điệu tối giản thì cũng phải
mang ý nghĩa thông báo nhất định, dù là ý nghĩa thông báo tối thiểu như : “yes” or
“yes”
3. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Loại hình nghiên cứu được tiến hành với đề tài này là phương pháp mô tả
định tính và định lượng. Các thông tin định tính được xác định với các loại lỗi
người học mắc phải khi thể hiện các PN với các tình huống giao tiếp thông thường.
180
Các thông tin định lượng được xác định với tần số của mỗi loại lỗi của học viên
được điều tra.
Thông tin thực tế được thu thập thông qua phiếu điều tra và thu âm trực
tiếp từ đối tượng là 15 học viên trình độ A, 15 học viên trình độ B và 15 học viên
trình độ C ở Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bến Tre. Thông tin từ hai
nguồn sẽ giúp người nghiên cứu tìm hiểu được thực trạng dạy, học và luyện tập
ngữ điệu tiếng Anh, kiến thức về ngữ điệu cơ bản trong tiếng Anh, đồng thời so
sánh với kết quả thu âm học viên thể hiện ngữ điệu trong câu.

Sau khi thu thập được dữ liệu, chúng tôi xử lý thông tin thu được để khái
luận và rút ra những kiến giải. Phần này gồm:
a) Thông tin điều tra về thái độ học tập môn tiếng Anh, cụ thể là luyện ngữ
điệu (Do giới hạn không gian trình bày chúng tôi xin không đưa vào đây phần số
liệu phân tích kết quả).
b) Thông tin về việc thể hiện ngữ điệu tiếng Anh được phân bố từ cấp độ
đơn giản đến phức tạp và nói tự do theo bài khóa. Việc xử lý thông tin đi theo hai
hướng phát âm (production) và tri nhận (perception) dựa vào sóng phân tích ngữ
điệu của phần mềm “Speech Analyzer” version 2.2.
3.1. Giả thuyết
Từ những đặc thù về ngữ âm của tiếng Việt và đặc thù thanh điệu của học
viên Bến Tre chúng tôi giả định rằng:
- Học viên thường không thể hiện đúng ngữ điệu cơ bản, các mục đích giao
tiếp phổ biến.
- Học viên thường không thể hiện thành công ngữ điệu là do yếu tố ngôn
điệu này bị việc bỏ qua không luyện tập hay luyện tập không đúng trong quá trình
giảng dạy.
4. Thực trạng thể hiện ngữ điệu tiếng Anh của học viên
4.1. Kết quả nghiên cứu

Hình 4.1 Thể hiện của học viên với PN where do you work?
we@ du: ju: w@k
181
Kết quả phân tích cho thấy đa số học viên không thể hiện đúng ngữ điệu cơ
bản dù cho họ nắm được trên lý thuyết về ngữ điệu cơ bản. Ví dụ, học viên có
khuynh hướng thể hiện ngữ điệu lên ở cuối câu hỏi cho dù đây là câu hỏi thông tin
với các từ bắt đầu bằng WH Kết quả lần thu âm thứ 3 với minh hoạ ở hình dưới
đây cho thấy lỗi phát âm sai của học viên.

Hình 4.2 Thể hiện của người bản ngữ với PN where do you work?

Bảng 4.1 thể hiện các lỗi phát âm sai của học viên
HV trình độ
A (15)
HV trình độ
B (15)
HV trình độ
C (15)
PN được hv phát
âm
Số hv
mắc lỗi
%
Số hv
mắc lỗi
%
Số hv
mắc lỗi
%
Tổng
số
%
1 I’d like a room,
please.
7
46,7
5
33,3
3
20
15

33.3
2. Where were you
on January 12
th
?
10
66,7
7
46,7
4
26,7
21
46,7
3. Is there a post
office near here?
6
40
4
26,7
2
13,3
12
26,7
4. A single room
or double room
sir?
11
73,3
6
40

2
13,3
19
42,2
Bảng 4.2 thể hiện các lỗi phát âm tiêu biểu của học viên
PN cần thể hiện
Kiểu ngữ điệu
đúng của PN
Kiểu ngữ
điệu của hv
PN 1: I’d like a room, please.
Xuống giọng
Lên giọng
PN 2: Where were you on January 12
th
?
Xuống giọng
Lên giọng
PN 3: Is there a post office near here?
Lên giọng
Xuống giọng
PN 4: A single room or double room sir?
Lên giong- Xuống
giọng
Xuống giọng-
Lên giọng
we@ dju: w@k
182
Ngoài ra học viên có thể hiện lên giọng nhưng không lên đúng vào chỗ chủ
âm của câu.

Ví dụ: Is there a post office near here?
- Kết quả thu được về phương diện tri nhận (perception) ủng hộ giả thuyết
ban đầu cho rằng học viên gặp nhiều khó khăn khi nghe và hiểu ngữ điệu tiếng
Anh trong ngữ lưu giao tiếp.


HV trình độ
A (50 hv)
HV trình độ
B (50hv)
HV trình độ
C (50hv)


PN được nghe
Số hv
mắc lỗi
%
Số hv
mắc lỗi
%
Số hv
mắc lỗi
%
Tổng số
%
PN1: How many rolls
did you get?
35
70

28
56
20
40
83
55,3
PN 2: Come in.
40
80
31
62
15
30
86
57,3
PN3 : Can you help me?
19
38
12
24
6
12
37
24,6
PN4: I’d like some
potatoes, some peas and
a salad, please
38
76
26

52
21
42
85
56,6
- Nguyên nhân những hạn chế của học viên trên cả hai phương diện phát
âm và tri nhận xuất phát từ các yếu tố chủ quan lẫn khách quan. Nhưng suy cho
cùng ý thức học tập, rèn luyện ngữ điệu của học viên cũng như những hạn chế về
sửa lỗi chính là nguyên nhân chủ yếu cho những kết quả chưa như mong đợi.
5. Một số đề xuất khắc phục các lỗi thể hiện ngữ điệu của học viên
5.1. Giúp học viên ý thức được sự khác nhau giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt
Do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, cũng như do
ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ, sinh viên, người học tiếng Anh mắc khá nhiều lỗi phát
âm, trong đó có ngữ điệu. Vì vậy, cần giúp học viên có được ý thức về sự khác biệt
giữa hai ngôn ngữ. Nếu không được xây dựng ý thức về sự khác biệt trên ngay từ
giai đoạn đầu của quá trình học thì những lỗi thể hiện ngữ điệu khi giao tiếp hình
thành do thói quen và sự áp dụng sai lệch các quy luật cố hữu của tiếng mẹ đẻ của
hoc viên sẽ rất khó khắc phục trong các giai đoạn sau của quá trình học. Như vậy,
cần thiết phải đầu tư nhiều thời gian hơn cho các kỹ năng nghe và nói cho chương
trình học ở trình độ sơ cấp. Một khi học viên đã nhận thức được sự khác nhau giữa
ngôn ngữ mẹ đẻ (mother tongue) và ngôn ngữ đích (target language) thì thói quen
phát ngôn lên hay xuống hoăc xuống hay lên khi người nói thể hiện đúng ngữ điệu
tiếng Anh sẽ được khắc phục.
5.2. Giúp học viên ý thức được vai trò của nói chính xác và nói lưu loát
Kết quả phiếu điều tra cho thấy học viên đã quan niệm sai lầm khi chỉ chú
trọng phát âm rõ từng từ tiếng Anh mà không cần phải thể hiện ngữ điệu. Tuy
nhiên, cách này chỉ hiệu quả đối với một môi trường giao tiếp hẹp, với người nghe
183
trình độ Anh ngữ còn hạn chế, đó là chưa kể nó sẽ gây ra những khó chịu nhất
định cho người nghe, đặc biệt khi ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày cần có sự thể hiện

ngữ điệu làm cho người nghe dễ hiểu, dễ nhận ra được mục đích của người phát
ngôn. Chính đặc điểm ngữ điệu này mới làm cho phát ngôn của người nói tiến đến
độ chuẩn, gần với cách phát ngôn của người bản ngữ.
Cần có sự điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy trong nhà trường
cho phù hợp hơn nữa giữa tỉ trọng kỹ năng ngôn ngữ và kiến thức ngôn ngữ sao
cho có thể đáp ứng được mục tiêu đào tạo. Cần giảm tải tính hàn lâm, tăng cường
tính thực hành, đảm bảo sự phù hợp giữa khẩu ngữ và bút ngữ. Có như thế thì ngữ
điệu tiếng Anh - đặc biệt người Việt nói tiếng Anh - mới trở nên có ý nghĩa và giá
trị sử dụng cao.
5.3. Tổ chức các hoạt động thích hợp phát huy khả năng tự kiểm tra, tự đánh
giá của sinh viên (self-monitoring and evaluating)
Đôi khi học viên không thể cứ trông đợi hoàn toàn vào những thông tin
phản hồi và sửa lỗi của giáo viên. Đó là lúc giáo viên hình thành cho học viên khả
năng tự kiểm tra, tự đánh giá khả năng và độ chuẩn thể hiện ngữ điệu của mình.
Giáo viên sẽ đồng hành với học viên trong những giai đoạn đầu của quá trình tập
luyện và để họ tự lập hoàn thành yêu cầu đặt ra trong các giai đoạn sau của quá
trình. Bằng cách sử dụng máy và băng cassette, giáo viên hướng dẫn học viên thu
âm những bài nói, bài thảo luận, bài hội thoại của bản thân hoặc thực hiện cùng
với bạn. Vào cuối các hoạt động, giáo viên cho học viên nghe lại và tự đánh giá
ngôn ngữ nói của mình trên phương diên đánh giá khả năng thể hiện ngữ điệu, độ
lưu loát trong phát ngôn giao tiếp. Giáo viên có thể cung cấp cho học viên băng
mẫu có thu âm sẵn giọng của người bản ngữ để sinh viên cùng đối chiếu hoăc
dùng phần mềm Speech Analyzer tự kiểm tra. Đây là cách phản hồi hiệu quả khi
học viên có thể "nghe lại chính mình", và học từ những lỗi sai của mình.
Thực tế thu âm trực tiếp của bài nghiên cứu cũng thu được kết quả tương tự
khi sau lần thu âm đầu tiên sinh viên đã ý thức hơn và chú ý hơn đến ngữ điệu
tiếng Anh và cách thể hiện ngữ điệu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Avery, P. & Ehrlich, S. (1992). Teaching American English Pronunciation.

Oxford University Press.
[2] Brazil, D. (1997). The Communicative Value of Intonation in English.
Cambridge University Press.
[3] Haliday, M.A.K. (1978). A Course in Spoken English: Intonation. Oxford
University Press.
[4] Kenworthy, J. (1992). Teaching English Pronunciation. Longman.
[5] Kingdon, (1958). A Groundwork of English Intonation. London University
Press.
184
[6] O’Grady, William & Michael Dobrovolsky (1993) Contemporary Linguistics
- An introduction, St. Martin Press, New York
[7] Roach, P. (1983). English Phonetics and Phonology. Cambridge University
Press.
[8] www. Cels. Bham. ac. Uk/resources/ essays/ fk-dis. pdf

×