22
- Quá trình cải cách hệ thống các doanh nghiệp Nhà nớc diễn ra còn
chậm. Còn nhiều doanh nghiệp Nhà nớc hoạt động không có hiệu quả nhng
vẫn bao cấp, duy trì, bảo hộ
Trong thời gian tới trớc yêu cầu duy trì phát triển kinh tế với nhịp độ
cao và của quá trình hội nhập thì việc cải thiện môi trờng cạnh tranh là yêu
cầu cấp bách để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình, thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều
kiện tự do hoá thơng mại và hội nhập kinh tế thế giới. Để duy trì cạnh tranh
lành mạnh và kiểm soát độc quyền chúng ta cần phải thực hiện một số biện
pháp sau:
Thứ nhất: tiếp tục đổi mới nhận thức về cạnh tranh, phải thống nhất
quan điểm đánh giá vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Phải coi cạnh
tranh trong nền kinh tế pháp luật hợp thức là động lực của sự phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Xác định một cách rõ
ràng và hợp lý vai trò của Nhà nớc cũng nh vai trò chủ đạo của các doanh
nghiệp Nhà nớc trong nền kinh tế, hạn chế bớt những doanh nghiệp Nhà
nớc độc quyền kinh doanh. Thúc đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp
Nhà nớc, đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nớc. Độc quyền
của các doanh nghiệp Nhà nớc cần phải đợc giảm dần, các rào cản đối với
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cần đợc tháo gỡ dần nhằm
giảm giá thành sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh chung của toàn bộ nền kinh
tế, tăng tính hấp dẫn đối với đầu t nớc ngoài, đồng thời giảm gánh nặng cho
ngân sách quốc gia.
Việc đổi mới nhận thức cần đợc thể hiện trong toàn bộ hệ thống quản
lý Nhà nớc, trong các chơng trình và chiến lợc cải cách hành chính, trong
tổ chức, phong cách làm việc hành vi ứng xử của các cơ quan công quyền.
23
Muốn nh vậy thì trớc tiên cần phải đa nội dung về cạnh tranh và độc
quyền vào chơng trình giáo dục của các trờng đại học thuộc khối kinh tế và
kinh doanh. Để có đợc đội ngũ cán bộ, các nhà kinh tế sau khi ra trờng có
một tầm hiểu biết về cạnh tranh và độc quyền. Đào tạo các khoá ngắn hạn cho
các doanh nghiệp và công chức Nhà nớc để nâng cao, trau dồi kiến thức về
cạnh tranh và độc quyền. Sử dụng các phơng tiện thông tin đại chúng tuyên
truyền về cạnh tranh và độc quyền. Để từ đó có một chính sách cạnh tranh phù
hợp và việc thực hiện các chính sách cạnh tranh này dễ dàng hơn.
Thứ hai: cải tổ pháp luật về cạnh tranh để cho cơ chế cạnh tranh đợc
vận hành một cách trôi chảy, hạn chế những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trên thị trờng. Nới lỏng các điều kiện ra nhập và rút lui khỏi thị trờng
để khuyến khích các nhà đầu t tham gia sản xuất kinh doanh. Nh vậy việc
hình thành nên khung pháp lý chung cho các loại hình kinh doanh thuộc các
khu vực kinh tế khác nhau là điều cần thiết. Việc cải tổ pháp luật về cạnh
tranh cần phải sửa đổi từ quy trình ban hành pháp luật:
Xây dựng luật: để đảm bảo tính chất khách quan về lâu dài cần chuyển
việc dự thảo luật từ cơ quan lập pháp sang cho cơ quan hành pháp. Trớc mắt,
việc soạn thảo luật cần đợc tổ chức một cách dân chủ với sự tham gia của cơ
quan có liên quan.
Xây dựng văn bản dới luật: phải đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh và sự
tham gia rộng rãi của những ngời chịu ảnh hởng của quy định.
Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý kinh doanh cần xoá bỏ
những quy định hiện hành không phù hợp với nền kinh tế thị trờng, với
những cam kết quốc tế nhằm mở rộng quyền kinh doanh, quyền chủ động cho
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Bổ xung những luật và văn bản dới luật còn thiếu, cha hớng dẫn thi
hành. Trong tâm xem xét là các lĩnh vực pháp luật về cạnh tranh độc quyền.
24
Sửa đổi những điều khoản của bộ luật dân sự có liên quan đến quan hệ giữa
luật Việt Nam và luật nớc ngoài.
Để thực hiện đợc những việc nh trên thì trong quá trình sửa đổi luật,
bổ sung và ban hành pháp luật có liên quan đến cạnh tranh và độc quyền thì
cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phơng với
sự tham gia của các doanh nghiệp, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế và ngời
tiêu dùng. Việc tham gia đồng bộ giữa các bên khi ban hành sửa đổi luật sẽ
đa ra đợc các quy định phù hợp với tình hình thực tế về cạnh tranh và độc
quyền hơn.
Thứ ba: xây dựng một cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát các hành
vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Rà soát lại và hạn chế bớt số lợng
các lĩnh vực độc quyền, kiểm soát giám sát độc quyền chặt chẽ hơn. Nhà nớc
cần giám sát chặt chẽ hơn các hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp lớn.
Cần phải đổi mới chế độ chứng từ, kế toán kiểm toán để tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác giám sát tài chính của các doanh nghiệp.
Thứ t: cải thiện môi trờng thông tin và pháp luật theo hớng minh
bạch và kịp thời hơn, đồng thời nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Cụ
thể:
- Việc thành lập doanh nghiệp mới: việc quyết định thành lập các doanh
nghiệp Nhà nớc cần đợc chuyển sang cho các cơ quan quyền lực đại biểu
của nhân dân. Việc tăng cờng kiểm tra giám sát từ các cơ quan này sẽ thúc
đẩy các doanh nghiệp Nhà nớc hoạt động tích cực và có hiệu quả hơn, tiết
kiệm đợc các nguồn lực của Nhà nớc .
Thành lập, bổ sung đầy đủ, chi tiết và cập nhật hàng năm những ngành
nghề mà doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoải
không đợc đăng ký kinh doanh. Ngoài các mục này các doanh nghiệp đợc
25
thành lập theo chế độ đăng ký với một cơ quan đăng ký thống nhất trong quốc
gia. Cơ quan đăng ký kinh doanh đồng thời chịu trách nhiệm cả về việc điều
chỉnh nội dung giấy đăng ký kinh doanh và việc mở văn phòng đại diện, chi
nhánh trong nớc và nớc ngoài theo chế độ doanh nghiệp chủ động đăng ký.
Xoá bỏ các điều kiện cấp phép về nội địa hoá, tỉ lệ xuất khẩu, tự cân đối ngoại
tệ.
Các cơ quan cấp phép hiện hành sẽ chuyển chức năng cấp phép, thẩm
định sang chức năng xúc tiến và cung cấp dịch vụ đầu t.
- Đất đai: chuyển các thủ tục hành chính xin chuyển đổi mục đích và
quyền sử dụng về một cơ quan giải quyết. Điều này sẽ tiết kiệm đợc thời gian
và tiền bạc cho các doanh nghiệp khi xin thuê đất quy hoạch và xây dựng khu
công nghiệp.
- Về vốn: mở rộng khả năng vay vốn từ các nguồn u đãi để đầu t phát
triển khả năng tự huy động vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh
nghiệp nớc ngoài thông qua các kênh phát hành trái phiếu và chứng khoán.
Trên cơ sở nguyên tắc cạnh tranh, chỉ áp dụng việc giới hạn mua cổ
phần của những doanh nghiệp lớn có khả năng chi phối thị trờng, tạo nên độc
quyền, còn đối với những ngời quản lý, ngời ngoài doanh nghiệp, ngời
nớc ngoài nên khuyến khích để tăng nguồn vốn của doanh nghiệp, tạo điều
kiện đổi mới máy móc, đầu t trang thiết bị nâng cao năng suất lao động.
- Về lao động: các loại quy định về thang bảng lơng, lơng thực tế ,
trợn cấp, chế độ thởng, lơng tối thiểu, thuế thu nhập, các hình thức tuyển
dụng lao động cần phải có sự thống nhất dựa trên khung pháp lý chung của
Nhà nớc và có sự đóng góp ý kiến của công đoàn.
- Tiếp cận thị trờng.
26
+ Quyền xuất nhập khẩu: mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các doanh
nghiệp trong nớc.
+ Xây dựng và ban hành các thủ tục, điều kiện cấp phép nhập khẩu, có
nhiều loại thuế thay thế hợp lý tơng đơng đối với các mặt hàng để khi thực
hiện không gây các cản trở cho việc trao đổi hàng hoá, thơng mại.
+ Ban hành danh mục cấp và xuất nhập khẩu có điều kiện, ngoài những
mặt hàng này nên khuyến khích các doanh nghiệp tăng cờng hoạt động trao
đổi thơng mại làm tăng luồng chu chuyển hàng hoá trong và ngoài nớc.
Hạn ngạch là biện pháp hạn chế thơng mại cần xoá bỏ. Việc xoá bỏ
hạn ngạch cần đợc giải quyết cùng với việc chỉ định đầu mối, bán ngoại tệ và
Nhà nớc quy định giá. Việc phân bổ hạn ngạch cần phải dựa vào những mặt
hàng cụ thể, thay thế chế độ giá tính thuế tối thiểu bằng giá ghi trên hợp đồng,
xoá bỏ chế độ phụ thu.
Triển khai cải cách các thủ tục hải quan theo hớng đơn giản hoá và phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế, thống nhất thủ tục trong cả nớc.
- Về thuế quan: miễn giảm thuế tối đa đối với mọi mặt hàng xuất khẩu,
kể cả hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu tại chỗ.
Về thuế nhập khẩu: xoá bỏ cách đánh thuế đựa trên mục đích sử dụng,
giảm số thuế và mức thuế. giảm thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là nguyên
vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất trong nớc tăng khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong nớc.
- Về chuyển giao công nghệ: cần tăng ngân sách cho các ngành nghiên
cứu khoa học công nghệ, có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ làm
nghiên cứu khoa học, trọng dụng nhân tài, đợc cung cấp phổ biến thông tin,
phát biểu ý kiến khách quan dới góc độ nghiên cứu khoa học. Hạn chế việc
27
chảy máu chất xám, khuyến khích thu hút các nhà khoa học nớc ngoài vào
trong nớc nghiên cứu khoa học.
Khuyến khích t nhân đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ sản xuất. Sửa đổi chế độ hoạch toán, kế toán nhằm khuyến khích
khấu hao nhanh để đổi mới công nghệ, phát triển thành lập các trung tâm
nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với việc chuyển giao công
nghệ. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lợng
phù hợp với quốc tế, sử dụng kinh nghiệm quản lý của quốc tế để áp dụng cho
các doanh nghiệp.
Đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh, cấp phép lao động, thuê chuyên
gia nớc ngoài và ngời Việt Nam ở nớc ngoài làm việc cho các tổ chức, cơ
quan Việt Nam.
- Giảm chi phí đầu vào:
Cải tiến thủ tục và trình tự thu thuế, hạn chế tình trạng thu thuế ngoài
thẩm quyền của các bộ ngành và địa phơng.
Giảm mức thuế, bao gồm thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thu nhập
cá nhân thu nhập doanh nghiệp, tơng đơng với các nớc trong khu vực.
Xem xét lại mức đóng góp bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và công đoàn phí.
Từ đó giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp.
Thứ năm: cơ cấu lại và kiểm soát độc quyền kể cả độc quyền tự nhiên.
Cần xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh, chỉ duy trì độc quyền ở một số
ngành quan trọng phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế nh: sản xuất và
truyền tải điện năng, khai thác dầu khí, bu chính viễn thông, xây dựng cơ sở
hạ tầng kiểm soát chặt chẽ các doanh nghiệp độc quyền thuộc Nhà nớc.
28
Việc xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh có thể thực hiện theo hai
hớng .
Hớng thứ nhất: cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh
bằng cách xây dựng điều kiện cấp phép cho các loại hình dịch vụ phù hợp với
thời hạn nêu trong cam kết quốc tế. Cần tạo điều kiện khuyến khích cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động. Các doanh nghiệp mới
có thể đến từ một lĩnh vực kinh doanh khác có liên quan. Các doanh nghiệp
này có thể sử dụng chung cơ sở hạ tầng với doanh nghiệp đang sử dụng hoặc
sẵn có của mình.
Hớng thứ hai: chia tách các doanh nghiệp đang chiếm vị trí chủ đạo
trong lĩnh vực thành các đơn vị nhỏ độc lập, đồng thời chia tách các doanh
nghiệp không trực tiếp gắn với cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng khỏi doanh
nghiệp chủ đạo. Việc chia tách này cần đảm bảo các doanh nghiệp độc lập với
nhau không phụ thuộc vào nhau hay vào doanh nghiệp chủ đạo. Nh vậy sẽ
làm tăng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau mà không bị hạn chế
lĩnh vực và địa bàn kinh doanh.
Trong trờng hợp có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh
vực thì sự tham gia trực tiếp của Nhà nớc vào sự hoạt động của các doanh
nghiệp là không cần thiết. Trờng hợp này Nhà nớc chỉ cần ban hành một số
quy định hớng dẫn hoạt động và hạn chế cạnh tranh không lành mạnh vào để
cho các doanh nghiệp tự điều chỉnh hoạt động của mình dựa vào thị trờng.
Trờng hợp vẫn phải duy trì độc quyền một số ngành chủ đạo thì Nhà
nớc cần ban hành những quy định pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các
công ty này. Xây dựng các luật đặc thù cho từng lĩnh vực nh: luật viễn thông,
luật điện lực Để kiểm soát độc quyền của các doanh nghiệp này và tránh
tình trạng lạm dụng u thế để chi phối thị trờng mà vẫn đảm bảo quyền tự
chủ của các doanh nghiệp. Trong các tổng công ty độc quyền cần phải tách bộ