1
BÁO CÁO
Đánh giá chất lượng và đề xuất giải pháp xử lý,
quan trắc chất lượng nước tại Huyện
Hương Khê và Vũ Quang, tỉnh Hà tĩnh
Nhóm tư vấn thực hiện:
1) Đoàn Thế Lợi, nhóm trưởng
2) Đặng Ngọc Hạnh, thành viên
3) Trần Đức Anh, thành viên
HÀ NỘI: THÁNG 4 NĂM 2011
MỤC LỤC
I. GIỚI THIỆU, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, KẾT QUẢ MONG ĐỢI VÀ PHƯƠNG
PHÁP THỰC HIỆN 2
1.1. Gi i thi uớ ệ 2
1.2. M c tiêu v nhi m v c a Nhóm t v nụ à ệ ụ ủ ư ấ 2
1.3. K t qu mong iế ả đợ 3
1.4. Ph ng pháp th c hi nươ ự ệ 3
II. TỔNG QUAN VÀ THỰC TRẠNG VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 6
2.1. V kinh t xã h iề ế ộ 6
2.2. Th c tr ng v ngu n n c v s d ng n c cho n u ng v sinh ho tự ạ ề ồ ướ à ử ụ ướ ă ố à ạ 8
2.3. V công tác t ch c th c hi n d án (l m gi ng, b l c, nh v sinh)ề ổ ứ ự ệ ự à ế ể ọ à ệ 11
III. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ CÁC MẪU NƯỚC VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI
PHÁP XỬ LÝ PHÙ HỢP 12
3.1. V ánh giá ch t l ng n c v i các m u phân tíchềđ ấ ượ ướ ớ ẫ 12
3.2. Ki n ngh m t s gi i pháp công trình x lý n c:ế ị ộ ố ả ử ướ 13
3.3. xu t các gi i pháp quan tr c ch t l ng n c v x lý ng phó khi có lĐề ấ ả ắ ấ ượ ướ à ử ứ ũ16
IV. CÁC KIẾN NGHỊ VỀ THIẾT KẾ VÀ THI CÔNG GIẾNG, BỂ LỌC, NHÀ VỆ
SINH 17
4.1 Công trình nh v sinhà ệ 17
4.2. V công trình gi ng n c v b l cề ế ướ à ể ọ 17
4.3. V t ch c th c hi nề ổ ứ ự ệ 18
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 18
Phụ lục 1: 19
Các thông tin chung về mẫu nước lựa chọn để phân tích 19
a) Các m u t i huy n H ng Khêẫ ạ ệ ươ 19
b) Các m u t i huy n V Quangẫ ạ ệ ũ 19
Phụ lục 2: 20
Bảng tổng hợp kết quả phân tích và đánh giá chất lượng các mẫu nước 20
I.T i Huy n H ng Khêạ ệ ươ 20
Phụ lục 3: 23
Kết quả phân tích các mẫu nước 23
I. Huy n H ng Khêệ ươ 23
II. Huy n V Quangệ ũ 30
Phụ lục 4: 38
Tóm tăt một số thông tin đánh giá nhanh về nguồn nước trong quá trình khảo sát 38
I. Các xã thu c huy n H ng Khêộ ệ ươ 38
II. Các xã thu c hu n V Quangộ ỵệ ũ 39
Phụ lục 5: 40
Bảng câu hỏi thu thập thông tin đánh giá chất lượng nguồn nước tại huyện Hương Khê và
Vũ Quang, tỉnh Hà tĩnh 40
A. Thông tin chung 40
B: Thông tin chi ti t v n c s ch v v sinh môi tr ngế ề ướ ạ à ệ ườ 41
I. GIỚI THIỆU, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, KẾT QUẢ MONG ĐỢI
VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
1.1. Giới thiệu
Đầu tháng 10 năm 2010, 2 đợt lũ lớn ( lũ lịch) liên tiếp (từ ngày 1-6/10 và từ 14-
18/10) xảy ra tại 5 tỉnh miền Trung Việt Nam, bao gồm: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Hà Tĩnh là nơi gánh chịu thiệt hại nặng nề nhất, trong đó
huyện Hương Khê và Vũ Quang là hai huyện nghèo của tỉnh Hà Tĩnh bị tàn phá hết sức
nghiêm trọng. Lũ lụt đã làm cho ngươi dân vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, ảnh
hưởng lớn đến cuộc sống, sinh hoạt và sản xuất.
Theo báo cáo của Dự án cứu trợ và Phục hồi Sinh kế sau lũ tại tỉnh Hà Tĩnh do
Oxfam thực hiện, 15 xã thuộc hai huyện Vũ Quang và Hương Khê đã được Oxfam lựa
chọn để cứu trợ khẩn cấp và phục hồi sau lũ (7 xã của huyện Hương Khê là Lộc Yên,
Hương Thủy, Hoà Hải, Phúc Đồng, Hà Linh, Phương Điền và Phương Mỹ và 8 xã của
huyện Vũ Quang là thị trấn Vũ Quang, Hương Minh, Hương Quang, Hương Thọ, Ân
Phú, Đức Lĩnh, Đức Giang và Đức Liên). Để triển khai tiếp các hoạt động trợ giúp xây
dựng nhà vệ sinh, giếng nước theo kế hoạch đã phê duyệt, Nhóm tư vấn thực hiện nhiệm
vụ khảo sát, đánh giá chất lượng nguồn nước, đề xuất giải pháp xử lý và quan trắc chất
lượng nước sinh hoạt của 10 xã theo đề xuất của Oxfam.
Oxfam đã quyết định hỗ trợ:
+ Huyện Hương Khê: 120 giếng nước; 120 nhà vệ sinh (cho các xã Hà Linh,
Phương Điền, Phương Mỹ, Lộc Yên)
+ Huyện Vũ Quang: 150 giếng nước và 150 bể lọc bằng cát; 150 nhà vệ sinh (cho
các xã Đức Liên, Hương Thọ, Đức Giang, Đức Lĩnh và Ân Phú)
Các hộ thuộc diện hỗ trợ chưa có hoặc có giếng nước, nhà vệ sinh bị phá hủy sau 2
trận lũ và thuộc đối tượng hộ nghèo, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. Trong các
hoạt động trợ giúp, Oxfam coi trọng các giải pháp để tối đa hóa việc sử dụng lao động địa
phương và sử dụng vật tư tại chỗ, lao động đổi công để tăng thu nhập cho người dân.
Để triển khai tốt hoạt động trên, bảo đảm tính khoa học và phù hợp với thực tiễn
của địa phương, Nhóm tư vấn có trách nhiệm khảo sát, đánh giá và đề xuất giải pháp tối
ưu để đạt được mục tiêu của dự án. Nhiệm vụ của Nhóm tư vấn đã được nêu trong TOR
và đề cương hoạt động đã được Oxfam chấp thuận. Cụ thể là:
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của Nhóm tư vấn
Mục tiêu 1: Thiết lập cơ sở dữ liệu ban đầu về chất lượng nước sử dụng cho sinh
hoạt trong 10 xã của cả 2 huyện (danh mục các xã xem phụ lục 1)
2
Mục tiêu 2: Đề xuất các giải pháp cần thiết bao gồm cả khía cạnh vận động chính
sách cho Oxfam và các cơ quan đối tác trong việc cải thiện, giám sát chất lượng nước và
quan trắc trong vùng bị ảnh hưởng lũ.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, Nhiệm vụ của Nhóm tư vấn đã triển khai các hoạt
động sau:
+ Từ ngày 13/3/2011 đến ngày 22/3/2011, Nhóm tư vấn đã tiến hành khảo sát
thực tế tại 10 xã của cả 2 huyện.
- Làm việc với Ban quản lý dự án Oxfam huyện Vũ Quang và Hương Khê để nắm
các thông tin chung và nghe báo cáo kết quả triển khai thực hiện dự án, các thuận lợi khó
khăn. Thảo luận kế hoạch và lựa chọn địa điểm khảo sát.
- Khảo sát xác định các nội dung thông tin theo đề cương mà tư vấn đã trình
Oxfam.
- Lựa chọn điểm lấy mẫu nước; lấy mẫu, lập hồ sơ mẫu (tập trung ở những nơi mà
nguồn nước có vấn đề theo phản ánh của người dân). Xem xét, đánh giá chất lượng các
công trình xử lý hiện đang áp dụng ở địa phương, kinh nghiệm xử lý nước và các công
tác chuẩn bị phòng tránh lũ của người dân.
1.3. Kết quả mong đợi
Theo TOR và đề cương nghiên cứu, Nhóm tư vấn đã đạt được các kết quả chủ yếu
sau:
Kết quả 1: Báo cáo phân tích chất lượng nước của 5 xã thuộc huyện Hương Khê
và 5 xã thuộc huyện Vũ Quang.
Kết quả 2: Đánh giá hồ sơ thiết kế các công trình giếng đào, nhà vệ sinh và
khuyến nghị những giải pháp cần thiết để giúp Ban quản lý Oxfam huyện thực hiện hiệu
quả dự án.
Kết quả 3 : Trên cơ sở kết quả phân tích mẫu, đề xuất các giải pháp cụ thể để xử
lý và quan trắc chất lượng nước trong các vùng bị ảnh hưởng lũ.
Kết quả 4: Tập huấn công tác giám sát cộng đồng. Hướng dẫn quản lý, tu sửa
giếng nước và giải pháp ứng phó khi có lũ lụt xảy ra.
1.4. Phương pháp thực hiện
Các phương pháp sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu bao gồm:
- Phương pháp thống kê, thu thập tài liệu hiện có,
- Phương pháp thảo luận nhóm,
- Phương pháp có sự tham gia của cộng đồng,
- Phương pháp khảo sát chuyên gia, đo đạc, đánh giá, chụp ảnh hiện trường,
3
- Phương pháp phân tích chất lượng,
- Phương pháp so sánh, đánh giá, tính toán, thiết kế.
Phương pháp thực hiện được mô tả ở khung logic nghiên cứu như sau.
4
Khung logic nghiên cứu:
Đánh giá các mẫu giếng và công trình lọc nước do đơn vị tư vấn thiết kế lập cho
Oxfam, kiến nghị các giải pháp chỉnh sửa, bổ sung (nếu có)
Xử lý số liệu, kiến nghị về kế công trình, lập báo cáo, xây dựng tài liệu tập huấn ,
báo cáo kết quả và tập huấn tại hai huyện
Thảo luận nhóm
có sự tham gia
của cộng đồng,
chuyên gia, cán
bộ quản lý ở địa
phương gồm
nhân viên đại
diện của Oxfam,
cán bộ quản lý
chuyên môn của
huyện, xã để xác
định các vấn đề
- Các nguồn nước sử dụng, thông tin sơ bộ về các
nguồn nước, xác định các nguồn nước trọng tâm
- Các thông tin cơ sở về tập quản xử lý và sử dụng
nguồn nước,
- Biểu hiện của một số loại bệnh có khả năng do nguyên
nhân sử dụng nước thiếu vệ sinh
- Thông tin về các loại công trình khai thác, công trình
xử lý tốt, chưa tốt, bị phá huỷ trong lũ
- Quan sát, đánh giá sơ bộ khả năng nguồn nước, chất
lượng nước bằng các chỉ số gián tiếp
Phương pháp
khảo sát có sự
tham gia để đo
đạc, quan sát,
chụp ảnh đánh
giá tại thực địa,
tìm hiểu thông
tin, kinh nghiệm
dân gian
- Khảo sát đánh giá xác định các kích thước mẫu về
công trình khai thác nước (giếng khoan, đào) cả đối với
công trình tốt, chưa tốt và công trình dễ bị tàn phá do lũ,
các kinh nghiệm bảo vệ công trình của người dân
- Khảo sát đánh giá các công trình xử lý nước do dân tự
xây dựng sử dụng lọc cát, tính kỹ thuật, kích thước, vật
liệu sử dụng, bảo dưỡng đánh giá khả năng xử lý
- Thiết kế chương trình lấy mẫu, xác định hồ sơ mẫu
nước gồm: Ví trí, đặc điểm nguồn nước, khả năng cung
ứng, sơ bộ đánh giá chất lượng
Phương pháp
phân tích
- Lấy mẫu, khảo sát đo đạc các chỉ tiêu tại thực địa,
- Bảo quản theo đúng quy định
- Phân tích các chỉ tiêu chất lượng nước tại phòng thí
nghiệm, tập hợp bảng kết quả
- Đánh giá chất lượng, dự báo tác hại do chất lượng
nước không đảm bảo, khuyến cáo sử dụng
5
II. TỔNG QUAN VÀ THỰC TRẠNG VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
2.1. Về kinh tế xã hội
a) Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội vùng dự án.
+ Huyện Hương Khê: Hương khê là huyện miền núi của Hà tĩnh, phía Tây giáp
Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía Đông giáp huyện Cẩm Xuyên và Thạch Hà,
phía Bắc giáp huyện Vũ Quang và Can Lộc. Địa hình nhiều đồi núi, cao nhất là núi Rào
Cỏ (2.235 m). Sông Ngàn Trươi chảy qua địa bàn xuống đổ vào sông Ngàn Sâu. Tổng
diện tích tự nhiên là 1278,09 km², dân số: 107.996 người (tháng 1/2009) gồm các dân tộc:
Thổ, Thái, Kinh,Chứt, nhưng dân tộc Kinh chiếm đa số. Hương Khê có 22 đơn vị hành
chính trực thuộc. Sản suất nông nghiệp là kế sinh nhai chủ yếu của nhân dân trong huyện.
Đất canh tác ít, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, đời sống của đại đa số hộ gia đình còn thấp,
tỷ lệ hộ nghèo còn cao.
Huyện Vũ Quang: Vũ Quang là huyện miền núi của Hà tĩnh, cách thành phố Hà
Tĩnh 70 km về phía Tây, có 42 km đường biên giới tiếp giáp với Lào, địa hình nhiều đồi
núi đặc biệt có vườn quốc gia Vũ Quang. Huyện Vũ Quang có diện tích tự nhiên là
62.284 ha, dân số 35.877 người (tháng 1/2009) gồm 12 đơn vị hành chính trực thuộc là
Thị trấn Vũ Quang và các xã: Đức Liên, Đức Hương, Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Giang,
Ân Phú, Hương Thọ, Hương Minh, Hương Điền, Hương Quang và Sơn Thọ. Đất canh tác
ít, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, đời sống của đại đa số hộ gia đình còn thấp, tỷ lệ hộ
nghèo còn cao.
Các xã thuộc diện được Oxfam trợ giúp đều là các xã nghèo trong huyện, Hộ
nghèo chiếm tỷ lệ rất cao (55,38 % ở huyện Hương Khê và 50,27 % ở Huyện Vũ Quang).
Cuộc sống của người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, trong khi đất đai lại rất
ít, ở Hương khê bình quân một hộ chỉ đạt 0,34 ha/hộ và ở Vũ Quang là 0,29 ha /hộ. Đất
đai ít, chủ yếu là đất trồng màu, tỷ lệ đất canh tác được một vụ lúa rất thấp (Hương khê là
43 % và Vũ Quang là 49 %). Trong năm, chỉ canh tác được một vụ ăn chắc (vụ xuân),
còn vụ mùa rất bấp bênh do ngập lũ hàng năm. Lũ lụt hàng năm đã gây nhiều khó khăn
cho bà con nông dân như mất mùa, thiếu lương thực, bệnh tật…. (xem Bảng 1)
Bảng 1: Diện tích đất nông nghiệp và tỷ lệ hộ nghèo
TT Xã Số hộ Số khẩu Tỷ lệ Hộ
nghèo (%)
Diện tích đất nông nghiệp (ha)
Tổng Trong đó lúa 1 vụ
I Huyện Hương Khê 5440 23.356 1866 812
1 Phương Mỹ 638 3218 58,0% 489 196
2 Phương Điền 510 2236 56,0% 330 116
3 Hà Linh 1566 6700 50,0% 560 200
4 Lộc Yên 1541 6280 58,4% 487 70 (lúa 2 vụ)
5 Đức Bồng 1185 4922 54,5% - 230
6
II Huyện Vũ Quang 4190 15753 1239 608
Đức Liên 612 2700 50,03% 240 132
Đức Lĩnh 1506 5584 48,60% 485 214
Hương Thọ 715 2750 51,27% 170 105
Ân Phú 512 2019 50,00% 154 87
Đức Giang 845 2700 51,30% 190 70
b) Về thiên tai, lũ lụt:
Các xã được dự án hỗ trợ đều nằm trong vùng trũng, sát bờ sông nên thường xuyên
bị ngập lũ. Thời gian lũ về thường bắt đầu từ tháng 7 và kết thúc vào tháng 10, có khi kéo
dài đến tháng 11. Trung bình mỗi năm có khoảng từ 2-3 đợt lũ, thời gian ngập lũ mỗi đợt
thường từ 4-7 ngày. Những năm có lũ lớn, lũ lịch sử (như năm 2007, năm 2010 ) khoảng
từ 10 – 15 năm xuất hiện 1 lần, mỗi lần kéo dài từ 5-7 ngày có khi tới 10-15 ngày.
c) Những tác động, ảnh hưởng khi lũ, lụt xuất hiện:
Lũ lụt xảy ra hàng năm đã gây ra thiệt hại lớn cho nhân dân trong xã. Khi lũ về thì
hầu hết các diện tích đất canh tác nông nghiệp bị ngập từ 3-5 ngày đã gây thiệt hại lớn
cho sản xuất nhất là những năm lũ về sớm phá hoại mùa màng, đặc biệt là hoa màu vụ
mùa, thậm chí có những năm lũ tiểu mãn lớn gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông
nghiệp. Khi có lũ chính vụ, thường có khoảng từ 35-45% số hộ trong xã bị ngập nước
(nước vào ngập nền nhà), nếu có lũ lớn xảy ra thì có đến 70-80% số hộ bị ngập lũ, thậm
trí như xã Phương Điền, Lộc Yên, Hà Linh lũ năm 2010 có tới 90-95% số nhà bị ngập.
Lũ lụt tàn phá tài sản của nhân dân và phá hủy hoa màu đã ảnh hưởng trực tiếp tới
sản xuất và đời sống của người dân, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, môi trường sinh
thái như: mất mùa; trôi nhà cửa, đồ đạc; bệnh dịch bùng phát; môi trường ô nhiễm; cở sở
hạ tầng hư hỏng…. . Do sống chung với lũ từ nhiều năm nay nên người dân cũng như
chính quyền địa phương chủ động thực hiện rất tốt công tác phòng chống lũ, góp phần
giảm thiểu các thiệt hai do lũ gây ra. Các xã đều xây dựng phương án phòng chống lũ rất
sớm (xong trước tháng 4). Phương án đã đều đề cập các tình huống có thể xảy ra và cách
ứng phó như công tác sơ tán và bố trí dân cư về các điểm tập kết Hơn nữa tinh thần
phòng chống lũ của người dân trong vùng rất tốt. Trước mùa lũ, họ đã chuẩn bị chu đáo
các vật dụng cần thiết cho gia đình như thuyền, bè; sơ tán trâu, bò vật nuôi (gửi nhờ các
hộ ở trên cao) khi có dự báo lũ trước 1 đến 3 ngày .Vì vậy các ảnh hưởng của lũ cũng
được hạn chế, đặc biệt ít xảy ra tổn thất về người.
d) Về công tác phòng chống lũ tại địa phương
Chính quyền các cấp rất coi trọng công tác phòng chống lũ và thiên tai, các tổ
chức đoàn thể của địa phương như hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh phối hợp
với chính quyền xây dựng phương án phòng chống lũ lụt. Công việc này đã thu hút sự
quan tâm của hầu hết các thành viên là cán bộ chủ chốt cũng như các đoàn thể ở địa
7
phương tham gia. Khảo sát tại 10 xã vùng lũ, nhóm tư vấn nhận định công tác phòng
chống lũ được thực hiện rất nghiêm túc và hiệu quả cụ thể:
- Phương án chống lũ và thiên tai đều được xây dựng xong trước tháng 4 hàng
năm. Tổ chức họp phổ biến, triển khai phương án đến tận các thôn, xóm, khu dân cư, các
hộ gia đình đều biết.
- Phương án đã đề cập khá chi tiết, đầy đủ các tính huống khi có lũ như :
+ Thiết kế những khu tập kết dân để sơ tán dân (khi cần), các điều kiện sinh hoạt
cần thiết nếu lũ xảy ra.
+ Các phương án về thông tin liên lạc, thuyền đi lại ở bộ phân chỉ huy (thường ở
trụ sở UBND).
+ Phân công nhiệm vụ cho từng thôn, xóm, đặc biệt là việc xen ghép các hộ thấp
và hộ trên cao đảm bảo tính cộng đồng rất cao khi có lũ xảy ra.
+ Bố trí và giao trách nhiệm sơ tán dân, tài sản của từng khu vực cho từng cán bộ
chủ chốt thôn xóm, đoàn thể cụ thể.
+ Kế hoạch triển khai công tác vệ sinh tập thể, sửa chữa khôi phục công trình công
cộng như kênh mương, đường xá nông thôn sau lũ.
Đối với từng hộ dân. Tuân thủ nghiêm phương án chống lũ của xã, đồng thời xây
dựng kế hoạch cho gia đình mình như :
+ Chuẩn bị thuyền, xuồng hoặc bè để sử dụng khi khẩn cấp.
+ Chuẩn bị phương án chuyển đồ đạc lên cao và sơ tán trâu, bò, lợn, gà …đến nơi
an toàn khi có thông báo của xã (năm 2010 do lũ qúa lớn và về quá nhanh nên không kịp
phản ứng).
Các hộ đã biết lấy cao trình đỉnh lũ của những năm có lũ lớn, lũ lịch sử để làm
chạn gác bảo vệ tài sản (như năm 2007, năm 2010). Sau đợt lũ lịch sử năm 2010, nhiều
hộ đang nâng cao chạn, gác để phòng lũ cho những năm tiếp theo. Nhờ chuẩn bị chu đáo
để ứng phó với lũ nên đã giảm thiểu được các thiệt hại do lũ gây ra, đặc biệt, rất ít khi có
thiệt hại về người.
2.2. Thực trạng về nguồn nước và sử dụng nước cho ăn uống và sinh hoạt
a) Thực trạng về nguồn nước:
Nguồn nước chủ yếu sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt của các xã trong vùng dự
án là nguồn nước ngầm. Nước ngầm được các hộ khai thác sử dụng bằng cách đào giếng
hoặc khoan giếng và trực tiếp sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt. Từ kết quả khảo sát thực
tế và phản ánh của người dân địa phương có thể đánh giá chung là nguồn nước ngầm của
khu vực dự án là tốt, trữ lượng khá phong phú, đáp ứng đủ cho nhu cầu ăn uống và sinh
hoạt của người dân trong vùng.
8
Phần lớn các giếng đào có độ sâu khoảng từ 7- 10m nên về mùa khô hạn thường
không đủ nước để sử dụng, nhất là năm hạn hán lớn. Xu hướng gần đây người dân sử
dụng giếng khoan với độ sâu tư 20-25m, có nơi từ 30 - 45m. Tuy nhiên sử dụng giếng
khoan xác suất gặp phải mạch nước nhiễm sắt cao hơn.
b) Thực trạng về chất lượng nước sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt
Theo nhận xét đánh giá chung cán bộ xã, các tổ chức đoàn thể và người dân, chất
lượng nguồn nước ở các xã trong vùng dự án cơ bản tốt, có thể sử dụng để ăn uống và
sinh hoạt. Đặc điểm nhận biết về chất lượng nguồn nước tốt xấu, theo kinh nghiệm của
người dân là khi bơm lên nước trong, không có mùi, đem nấu nước chè xanh cho nước
xanh, thơm và uống ngon. Khi lấy mẫu ở các giếng nước này đi phân tích thường đáp ứng
đủ điều kiện vệ sinh môi trương theo tiêu chuẩn của Bộ Y Tế. Trừ một số giếng khi đào
gặp phải mạch nước không tốt, có dấu hiệu ô nhiễm (thường gặp với giếng khoan trên
20m) như có mùi tanh, có váng và tạo cặn sau khi bơm lên. Nếu nguồn nước bị nhiễm sắt
khi nấu chè xanh cho nước đỏ thẩm, không còn mùi thơm. Tuy vậy, các dấu hiệu ô nhiễm
này không nghiêm trọng đến sức khỏe, chỉ cần xử lý thông thường là có thể sử dụng được
như phơi nắng và lọc qua bể lọc cát… .Hiện tại các hộ dân cũng đã áp dụng hình thức xử
lý như dùng bể lọc cát .v.v. nhưng do làm không đúng kỹ thuật nên hiệu quả xử lý nước
chưa tốt (ảnh 2, ảnh 3, ảnh 4, ảnh 5 phụ lục 2).
Dù chất lượng nguồn nước tốt, nhưng tập quán sinh hoạt của dân cư địa phương có
phần ảnh hưởng đến vệ sinh nguồn nước sinh hoạt như các bể chứa nước không có nắp
đậy dễ bị nhiễm bẩn và làm chổ để muỗi sinh sản (Ảnh 2 phụ lục 2) hoặc các hộ gia đình
thường bố trí chuồng trâu bò, gia súc ở phía trước nhà, gần nhà bếp và giếng nước, đây là
tập quán không tốt dễ gây ô nhiễm cho nguồn nước. Có hộ bố trí giếng nước cách chuồng
trâu chỉ khoảng 3-5m và nguy cơ ô nhiễm vi sinh rất cao.
c) Mô tả, đánh giá và dự báo khả năng bị ảnh hưởng bởi chất ô nhiễm khi lũ xảy ra
và các giải pháp nguồn nước và vệ sinh môi trường trong những trường hợp khẩn cấp:
Sống trong vùng thường xuyên xảy ra lũ lụt, các hộ gia đình thường có chuẩn bị
dụng cụ tích trữ nước dể dùng khi có lũ xảy ra. Trừ khi có lũ lớn kéo dài, hết nguồn nước
tích trữ thì các hộ thường dùng thuyền đến lấy nước từ các khe, suối trong núi hoặc lấy
từ các hộ ở trên cao (có giếng không ngập). Đây là kinh nghiệm sống chung với lũ của
người dân địa phương để có nước sạch trong mùa lũ (trừ các hộ không có phương tiện
hoặc lũ qúa lớn, nước chảy mạnh không thể dùng thuyền bè đi lại). Vì vậy việc sử dụng
nước ô nhiễm khi lũ xảy ra là ít có khả năng xảy ra. Đây cũng là vấn đề cần xem xét khi
tiến hành các hoạt động cứu trợ.
Nhìn chung, sau các trận lũ các giếng nước bị ngập và thường bị ô nhiễm do nước
lũ chảy vào giếng và người dân chưa biết biện pháp phòng chống giếng bị nhiễm bẩn khi
ngập lụt. Sau khi lũ rút, các hộ thường phải chờ để thau giếng, xử lý nhiễm trùng mới sử
dụng lại. Giai đoạn sau lũ nhu cầu dùng nước cho sinh hoạt rất lớn để vệ sinh môi trường,
9
nhà cửa. Nếu hướng dẫn, phổ biến các biện pháp phòng chống giếng bị nhiễm bẩn khi
ngập lụt phù hợp thì sau khi nước rút là có nước sử dụng ngay mà không phải chờ thau
rửa. Ví dụ khi mưa lớn có nguy cơ gây ra lũ lụt, chỉ cần hứng nước mưa vào giếng cho
đến khi đầy miệng giếng, sau đó che kín miệng giếng, khi có lũ tràn qua, nguồn nước bị ô
nhiễm không thể xâm nhập vào giếng nên có thể sử dụng ngay sau khi nước lũ rút. Khi
lũ rút là có thể lấy nước giếng để sử dụng mà không sợ bị ô nhiễm, mất vệ sinh.
Ở các giếng, sau lũ phát hiện nước bị đục do nước lụt tràn vào, thì trước khi dùng
nhất thiết phải bơm nước lên bể trữ (đa số các hộ đều có bể trữ nước với khối lượng
khoảng 0,5m
3
) để lắng trong và xử lý hoá chất Cloramin B theo hướng dẫn của Y tế. Các
hộ có bể lọc nên xử lý qua bể lọc trước khi khử trùng.
d) Về công trình vệ sinh: Hầu hết các hộ trong xã đều có nhà vệ sinh riêng, nhưng
phần lớn là nhà tạm, chưa bảo đảm các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường. Trừ một số hộ khá
giả hoặc các hộ trước đây đươc tổ chức Danida hỗ trợ xây nhà vệ sinh theo kiểu hai ngăn
là tương đối tốt. Qua các đợt lũ, bà con đánh giá tốt về nhà vệ sinh thiết kế theo mẫu hố xí
2 ngăn là rất phù hợp với vùng lũ. Khi có lũ dùng đất đắp kín cửa lấy phân và đậy kín nắp
hố thì phân không bị trôi ra ngoài. Mẫu thiết kế này trước đây tổ chức Danida đã áp dụng
khi tài trợ xây nhà vệ sinh. Qua đợt lũ vừa rồi cơ bản vẫn bảo đảm được vệ sinh và tương
đối bền vững, ít bị hư hỏng và mong muốn được hỗ trợ để mỗi nhà sẽ có một hố xí 2 ngăn
này. Tuy nhiên để bảo đảm ổn định thì phải bổ sung thêm kết cấu móng (ảnh 6, ảnh 7 phụ
lục 2).
Sau các đợt lũ, các tổ chức phụ nữ, thanh niên, đều tham gia dọn dẹp nhà cửa,
đường xóm, vệ sinh môi trường với tinh thần trách nhiệm cao, đây là truyền thống tốt,
cần phát huy.
e) Hiện trạng về các giếng nước đang sử dụng
- Giếng đào có đường kính khoảng từ 0,7-1,2m; thành giếng được đúc bằng các
ống bê tông, trừ các giếng đào từ hàng chục năm trước đây (khoảng 10-15 năm) thì
thường là giếng đất, phía gần mặt đất trở lên thành giếng được xây bằng gạch khoảng 1m.
Tuy nhiên, qua nhiều lần ngập lũ về cơ bản các giếng vẫn tồn tại, chỉ rất ít giếng bị sạt lở,
trôi vì có luồng cát, nước xoáy (Ảnh 8, ảnh 9). Khảo sát các giếng đào trong khu vực
cho thấy rằng, địa chất ở khu vực tương đối tốt, giếng đào sâu tới 7-8m không cần thành
giếng mà vẫn tồn tại hàng chục năm nay. Các hộ đào giếng sau này thường dùng ống bi
làm thành giếng để bảo đảm vệ sinh nguồn nước, ngăn không cho nước mặt thấm vào
giếng. Kinh nghiệm đào giếng thường thực hiện vào mùa khô, khi đó nền đất cứng ổn
định hơn, và nếu trong mùa khô giếng đủ nước là đảm bảo đủ cấp nước quanh năm.
- Giếng khoan: Trong những năm gần đây, một số hộ đã sử dụng giếng khoan.
Giếng khoan thường do thợ khoan giếng vì họ có phương tiện, kinh nghiệm. Hơn nữa họ
có kinh nghiệm phát hiện nguồn nước ngầm. Tuy nhiên giếng khoan có xác suất gặp nước
nhiễm sắt nhiều hơn.
10
f) Về các công trình xử lý nước. Phần lớn các hộ có nguồn nước khá tốt, nên sử
dụng ngay sau khi bơm lên do đó cũng không cần có công trình xử lý nước. Thông
thường nước bơm vào bể chứa, rồi sử dụng cho nấu ăn và sinh hoạt. Trừ một số giếng bị
nhiễm sắt có mùi tanh, nước đục hoặc nước bơm lên để có váng, ngả màu vàng thì mới
xử lý trước khi sử dụng. Phương pháp xử lý thông dụng hiện nay là lọc bằng bể cát và
phơi nắng trước khi sử dụng. Các bể lọc cát thường làm theo tập quán và hầu hết không
đúng kỹ thuật nên chất lượng xử lý nước chưa tốt.
Trong quá trình khảo sát, nhóm tư vấn thấy hộ nhà chị Hằng, Anh Thành (xóm 8,
xã Hà Linh, số điện thoại 0393874402) xây dựng làm bể lọc tương đối tốt, dù nước bị
nhiễm sắt nhưng sau khi lọc bằng cảm quan và trải nghiệm của gia đình là rất tốt (Ảnh 10
phụ lục 2). Hỏi gia đình về cách làm, gia đình cho biết họ học cách xử lý nước thông qua
đọc báo. Nếu làm các bể lọc đúng kỹ thuật thì có thể xử lý được cả nước mặt, nước lũ
đọng lại trong các giếng để sử dụng mà không cần phải chờ thau rửa. Nếu có hướng dẫn
kỹ thuật lọc nước thì hiệu quả và khả năng áp dụng vào thực tế rất cao bởi vì đại đa số
người dân rất quan tâm đến chất lượng nước sinh hoạt (Ảnh 3, ảnh 4, ảnh 5 phụ lục 2).
Hơn nữa với phương pháp lọc thông thường (lọc cát), thì các loại vật liệu lọc như
cát, sỏi rất sẵn có ở địa phương, có thể lấy trực tiếp dưới sông, suối, về để dùng.
2.3. Về công tác tổ chức thực hiện dự án (làm giếng, bể lọc, nhà vệ sinh)
a) Đối với Ban quản lý dự án Oxfam huyện
Ban quản lý dự án Oxfam huyện đã tổ chức triển khai các công việc của dự án như
sau :
- Tổ chức họp với lãnh đạo các xã, Ban cứu trợ xã để phổ biến tiêu chi lựa chọn hộ
được hưởng trợ giúp trong đợt này. Tổ chức họp dân để bình bầu dân chủ công khai theo
các tiêu chí đã được thống nhất.
- Tổ chức lập hồ sơ thiết kế và dự toán nhà vệ sinh, giếng nước
- Thảo luận và quyết định phướng án tổ chức triển khai xây dựng nhà vệ sinh và
giếng nước.
Nhìn chung các hộ được nhận trợ giúp đều đúng đối tượng, nên không xảy ra thắc
mắc, khiếu kiện. Việc quyết định lựa chọn nhà thầu để xây dựng nhà vệ sinh và khoan
giếng cho bảo đảm tiến độ và yêu cầu kỹ thuật là phù hợp. Giao các hộ dân tự tổ chức đào
giếng (giếng khơi) là hợp lý để bảo đảm tiến độ. Khi hoàn thành công trình bảo đảm chất
lượng, Ban quản lý dự án huyện sẽ trực tiếp nghiệm thu và thanh toán.
b) Đối với Chính quyền xã, thôn và Ban cứu trợ xã
Ban cứu trợ xã thường do chủ tịch hoặc phó chủ tịch trực tiếp chỉ đạo, cùng với sự
tham gia của các tổ chức xã hội như phụ nữ, cựu chiến binh…. Các thành viên trong nhiệt
tình tham gia các hoạt động của Ban, như:
11
- Xác định các đối tượng theo tiêu chí nghèo, bị thiệt hại trong lũ. Công khai mức
hỗ trợ (giếng khoảng 2 triệu đ/giếng; Nhà vệ sinh 4 triệu đồng/ cái, bể lọc 1 triệu / bể)
- Phân số lượng công trình cho các các thôn theo tỷ lệ hộ nghèo trong thôn
- Các hộ đăng ký loại công trình cần thiết (giếng, bể lọc hoặc nhà vệ sinh). Ban
cứu trợ xã phối hợp với lãnh đạo, đoàn thể các thôn tổ chức họp và bắt thăm để xác định
danh sách các hộ được hỗ trợ với từng loại công trình (trừ các hộ đã được Danida hỗ trợ
thì không được hỗ trợ lần này).
- Các hộ viết cam kết phối hợp thực hiện và bố trí đủ vốn đối ứng để hoàn thành
công trình, nhất là giếng khoan. Tuy nhiên, đối với những hộ khó khăn, hộ hoàn cảnh gia
đình già yếu mặc dù đã cam kết, nhưng tính khả thi cũng không cao, vì họ không có tiền.
c) Một số vấn đề phát sinh cần nghiên cứu xem xét:
- Dù các hộ rất phấn khởi với sự giúp đỡ của Oxfam, nhưng họ cho rằng mức hỗ
trợ chưa thật phù hợp giữa các công trình khác nhau. Chẳng hạn nhà vệ sinh với mức hỗ
trợ (200 USD, khoảng 4,2 triệu), mức này là tương đối đủ để xây dựng công trình mà hộ
hưởng lợi không cần đóng góp thêm; nhưng với giếng với mức hộ trợ (100 USD, khoảng
2,1 triệu đồng) thì hộ hưởng lợi phải đóng góp thêm khá nhiều. Theo các hộ dân cho biết,
để làm một giếng khoan hoàn chỉnh với độ sâu từ 25-30m có giá khoảng 3,5 triệu, như
vậy gia đình phải đóng góp thêm 1,5 triệu. Nếu làm 1 giếng đào hoàn chỉnh (phải thuê
thợ đào) theo mẫu thiết kế với độ sâu 15-20m thì giá thành trong khoảng 5-7 triệu đ/giếng
thì mức đóng góp còn cao hơn. Mức đóng góp này đối với hộ nghèo trong giai đoạn này
(trong mùa giáp hạt) là khó thực hiện nhất là hộ già yếu, neo đơn. Nếu điều chỉnh mức hộ
trợ theo hướng bù trừ cho nhau giữa nhà vệ sinh và giếng nước (bình quân 150 USD/công
trình) thì có lẽ sẽ tốt hơn.
Trong quá trình xem xét lựa chọn các hộ được trợ giúp, Ban quản lý xã vẫn dựa
vào bình bầu của bà con (theo tiêu chi của Huyện) mà chưa xem xét kỹ điều kiện của
từng hộ, những thuận lợi, khó khăn và mong muốn cụ thể của từng hộ nên vẫn còn có
những bất hợp lý, ví dụ hộ ông Nguyễn Đình Chính
1
xóm 9 -Hà Linh hiện đã có giếng
sâu 12 m mà vẫn trong diện được hỗ làm giếng, trong khi bể lọc chưa có, nhà chị Phan thị
Hồng xóm 8 - Hà Linh hộ nằm ở vùng thấp đang thuộc diện di chuyển lên vùng cao.
III. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ CÁC MẪU NƯỚC VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI
PHÁP XỬ LÝ PHÙ HỢP
3.1. Về đánh giá chất lượng nước với các mẫu phân tích
a) Phương pháp đánh giá: Đánh giá chất lượng nước dựa vào kết quả phân tích ở
phòng thí nghiệm do Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Hà tĩnh (theo chỉ tiêu của Bộ y tế) và
theo kinh nghiệm thực tế ở địa phương đối với nước sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt
b) Đánh giá chung về chất lượng nước ở các xã thuộc dự án:
Từ kết quả phân tích mẫu nước và thực tế khảo sát kiểm tra tại xã có thể rút ra các
đánh giá như sau:
1
Hiện tại đã có giếng sâu 12m, thành xây gach tư cốt -1 đến +0,7. Gia đình dự kiên sử dụng tiền hỗ trợ để đào sâu
thêm 3m và bỏ bi. Theo kinh nghiệm, giếng đang sử dụng tốt trong 5 hoặc 10 năm nữa. Tuy nhiên chưa có bể lọc,
nếu làm bể lọc sẽ hiệu quả hơn.
12
1) Nhìn chung chất lượng nguồn nước sử dụng hiện nay là tương đối tốt, đảm bảo
các yêu cầu vệ sinh để sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt.
2) Về trữ lượng nguồn khá dồi dào, đáp ứng đủ yêu cầu của nhân dân. Chỉ trừ
những năm có hạn nghiêm trọng, các giếng đào nông mới bị thiếu nước.
3) Một số mẩu nước chưa đạt yêu cầu về chất lượng. Các chỉ tiêu chưa đạt chủ yếu
là hàm lượng sắt, độ đục, độ pH; những nơi nước có nhiều sắt (nước ngả màu vàng rõ rệt,
làm vàng thành bể ). Tuy nhiên mức độ ô nhiễm này không nghiêm trọng mà chỉ cần sử
dụng các biện pháp xử lý thông thường là sử dụng được. Ví dụ nếu nước vẫn đục, hoặc có
hàm lượng sắt cao chỉ cần xử lý bằng bể lọc cát (lọc chậm). Và đặc biệt lưu ý đến chiều
dày lớp cát lọc cho phù hợp với từng giếng. Qua kiểm tra thực tế, kết hợp kinh nghiệm xử
lý nước, thông thường chều dày lớp vật liệu lọc khoảng 50-70cm là đạt tiêu chuẩn (trong
đó sỏi 10-20 cm; cát 40-50cm)
5) Trong số các mẫu nước phân tích, có một mẩu bị nhiễm vi sinh. Nguyên nhân
do giếng đào gần chuồng bò (cách chuồng bò khoảng 3m). Đây là vấn đề cần lưu ý khi
hướng dẫn người dân lựa chọn ví trí đào giếng và quản lý bảo quản giếng trong quá trình
sử dụng. Tuyệt đối không bố trí giếng ở gần các nơi ô nhiễm, bẩn thỉu, thấp trũng như
chuồng chăn nuôi gia súc, nơi chưa nước tù đọng…làm ô nhiễm nguồn nước giếng. Khi
phát hiện nuớc bị nhiễm vi sinh phải đun sôi trước khi uống (Chi tiết xem phụ lục 1)
3.2. Kiến nghị một số giải pháp công trình xử lý nước:
Căn cứ kết quả khảo sát và kết quả phân tích một số mẫu nước của các xã thuộc
huyện Hương Khê và Vũ Quang kết hợp với kinh nghiệm thực tế về xử lý nước ở Việt
nam, Nhóm tư vấn đề xuất một số phương pháp xử lý nước bị ô nhiễm như sau:
a) Phương pháp lọc chậm
Phương pháp này áp dụng cho những hộ mà nguồn nước bị nhiễm sắt, có mùi
tanh, có váng màu vàng và nước đục, cấu tạo bể lọc (xem hình 1). Hệ thống lọc gồm 2
phần, phần lọc và phần chứa. Các giếng có mùi tanh cần xử lý theo phương pháp này.
+ Phần lọc là một ống bê tông đường kính trong 50-60 cm. Bên trong rải các lớp
vật liệu lọc gồm: Lớp trên cùng là lớp cát, có chiều dày khoảng 45-65 cm, căn cứ vào
chất lượng nước sau khi lọc có thể tăng hoặc giảm bớt chiều dày lớp cát lọc cho phù hợp.
Cát lấy từ sông Ngàn Sâu về cần sàng loại bỏ các tạp chất trước khi sử dụng. Lớp tiếp
theo là sỏi nhỏ có chiều dày khoảng 10-15 cm. Ở những nơi có điều kiện có thể bố trí
thêm một lớp than củi xen giữa lớp cát và sỏi dày 10-15 cm. Sỏi lấy từ sông, suối về được
rửa sạch và loại bỏ các tạp chất trước khi cho vào bể lọc. Ở những hộ có nồng độ sắt cao
khi đưa vào bể lọc nên cho chảy qua vòi hoa sen để tăng tốc độ ôxi hóa của sắt như hình
2.
Hình 1 Sơ đồ lọc chậm áp dụng tại huyện Vũ Quang
13
Hình 2.
+ Phần bể chứa dùng để chứa nước sau khi lọc. Bể chứa đựơc đúc bằng bê tông
như bản vẽ.
14
Các hộ đã có bể lọc nhưng làm chưa đúng kỷ thuật có thể tham khảo kết cấu này để
điều chỉnh lại cho phù hợp.
b) Phương pháp lọc nhanh
Trong mùa lũ, khi các giếng nước và các bể lọc đều bị ngập mà không thể tiếp cận
được với các nguồn nước sạch khác có thể vận dụng một số phương pháp lọc nước đơn
giản như sau để có nước sử dụng.
Lọc bằng xô chậu:
+ Chuẩn bị dụng cụ:
- Xô nhựa hoặc xô tôn.
-Vòi nước (vòi nhựa hoặc bằng ống tre tự tạo).
- Cát , sỏi.
+ Cách làm:
-Đục lỗ gần dưới đáy xô để lắp vòi nước .
-Vặn chặt vòi, nếu vòi tre thì có thể lấy đất sét để trám kín.
-Đổ lớp sỏi có đường kính hạt từ 5 – 10mm, dày từ 25- 5cm phía dưới đáy xô
thùng, sau đó đổ tiếp lớp cát đường kính 0,15 - 0,35mm dày khoảng 15 – 20cm
lên trên lớp sỏi.
+ Cách sử dụng:
- Đổ nước nguồn vào xô (thùng) đã chứa đủ vật liệu lọc như trên hình vẽ để nước
chảy qua vòi hứng nước để dùng.
- Khi nước chảy ra khỏi vòi là nước trong thì có thể dùng cho sinh hoạt.
- Nếu nước chảy ra chưa trong thì cần lọc lại lần nữa.
Phương pháp này áp dụng trong trường hợp khẩn cấp như trong lúc ngập lũ, sau
lũ khi mà chưa khôi phục được các công trình lọc chậm của hộ gia đình.
Lọc bằng bình lọc
Vật liệu
1- Xô chứa .
2- Lớp cát lọc.
3 - Lớp sỏi lọc.
4- Vòi nước (có thể làm bằng
tre hoặc trúc).
5- Chậu chứa nước đã lọc.
15
+ Vật liệu làm bình lọc
- Xô nhựa hoặc thùng dung tích tùy ý.
- Vỏ chai nước khoáng (vỏ nhựa PET)
- Bông sợi hoặc vải xô.
- Than củi hoặc than gáo dừa (tốt nhất là than hoạt
tính )
- Hoá chất : Chất keo tụ PAC , chất khử trùng
clorine.
+ Làm bình lọc:
- Lấy vỏ chai nhựa nước khoáng loại 500ml cắt bỏ
đáy chai.
- Đục thủng nắp chai để cắm ống nhựa dẻo để cho
nước chảy ra.
- Bỏ vật liệu lọc như hình vẽ.
3.3. Đề xuất các giải pháp quan trắc chất lượng nước và xử lý ứng phó khi có lũ
1. Trước khi lấy nước sử dụng cần phải được kiểm tra kỹ. Theo kinh nghiệm, nước
được coi là sạch khi nó không có màu, không mùi, không vị. Trong suốt, không vẩn đục,
không có tạp chất lạ lắng đọng và không có vi trùng và các chất gây bệnh. Các nguồn
bơm lên có màu vàng, bị vẫn đục nhất thiết phải xử lý trước khi sử dụng như lọc cát
(theo hướng dẫn). Trước khi uống phải đun sôi.
2. Khí có lũ về cần bịt kín miệng giếng để tránh nguồn nước nhiễm bẩn chảy vào.
Mỗi hộ nên may sẵn tấm bịt miệng giếng bằng tấm vải bạt dứa, có rút dây thừng hoặc dây
chun để thuận lợi trong triển khai nhanh công tác bịt giếng (không dùng vải mưa, ninon
để vì dễ bị bung khi nước ngấm vào giếng do không khí không thoát được)
3. Để không cho nước ô nhiễm chảy vào giếng, khi có lũ nên hứng nước mưa cho
đầy miệng giếng (hứng từ mái nhà, hoặc làm bạt hứng, trừ mái nhà lợp bằng tấm
proximăng) sau đó bịt kín miệng giếng. Phương pháp này rất đơn giản hiệu quả, dể thực
hiện.
Đối với giếng khoan, phần ống nhựa giếng nhô lên khỏi mặt đất phải bịt kín ống
giếng và đóng cọc định vị xung quanh để ngăn các vật trôi nổi va chạm vào ống làm gẫy
ống
4. Các bể lọc nước cần bịt kín phần miệng. Những vị trí có khả năng có dòng nước
lũ chảy mạnh, dòng nước xoáy cần phải chằng, chống tránh bị trôi.
5. Các hộ gia đình cần chuẩn bị sẵn các phương tiện, công cụ trước mùa lũ để ứng
phó khí lũ về, như:
- Chuẩn bị các dụng cụ trữ nước như can, xô chậu… và các dụng cụ hứng nước
mưa để ăn uống, sinh hoạt trong những ngày ngập lũ.
16
- Chuẩn bị các vật tư vật liệu để xử lý nước như xô chậu, phèn chua, thuôc sát
trùng, các tấm bịt miệng giếng, bể lọc.…
6. Sau lũ cần xử lý nước giếng theo hướng dẫn của ngành y tế. Mỗi gia đình nên
xây một bể lọc như đề xuất ở trên để chủ động nguồn nước sử dụng.
IV. CÁC KIẾN NGHỊ VỀ THIẾT KẾ VÀ THI CÔNG GIẾNG,
BỂ LỌC, NHÀ VỆ SINH
4.1 Công trình nhà vệ sinh
- Mẫu thiết kế do Ban quản lý dự án huyện đề xuất cơ bản đáp ứng các yêu cầu kỹ
thuật. Tuy nhiên kết cấu móng là chưa phù hợp do không có móng, khi có lũ dễ bị trôi
hoặc đổ. Đề nghị bổ sung kết cấu móng. Nhóm tư vấn đã đề xuất sửa đổi thiết kế và Ban
quản lý dự án đã tiếp thu và đã chỉnh sửa lại thiết kế;
- Địa điểm/thiết kế xây dựng công trình phải đảm bảo về vệ sinh môi trường,
nhưng cũng nên tạo điều kiện thuận lợi, dễ tiếp cận cho người sử dụng, đặc biệt là phụ
nữ, trẻ em và người cao tuổi;
- Để đảm bảo công trình xây dựng có chất lượng tốt, cần huy động sự tham gia
giám sát của cộng đồng bằng cách tập huấn hướng dẫn cho họ biết về kết cấu, chủng loại
vật tư xi măng, gạch, cát đá …. Tổ tư vấn đã soạn thảo tài liệu hướng dẫn giám sát cộng
đồng và đã lồng ghép tập huấn giám sát cộng đồng trong hội thảo phổ biến kết quả nghiên
cứu nguồn nước. Phương pháp/tài liệu giám sát này nên được áp dụng rộng rãi hơn nữa
trong vùng có dự án;
- Do thời gian thi công hạn hẹp, nên việc thi công các công trình phải được tiến
hành đồng loạt tại tất cả các xã mục tiêu;
- Tăng cường vai trò của Ban cứu trợ xã và sự phối hợp của cán bộ Oxfam trong
kiểm tra, hướng dẫn giám sát, kiểm tra chất lượng, đối với hộ hưởng lợi trực tiếp và nhà
thầu.
4.2. Về công trình giếng nước và bể lọc
- Cần lựa chọn vị trí đào giếng thích hợp, không đào giếng gần nguồn gây ô nhiễm
như chuồng, trại chăn nuôi gia súc, các vị trí tù, đọng nước….
- Để tránh nước bẩn ngấm xuống giếng, nền giếng nên đổ bê tông.
- Đối với các giếng đào, hàng năm cần kiểm tra rò rỉ giữa các ống giếng
- Đối với bể lọc, sau khi góp ý với BQLDA Oxfam huyện Vũ Quang, thiết kế đã
được điều chỉnh cho phù hợp, nhưng kinh phí xây dựng cho từng bể lọc không thay đổi
(xem hình 1 & 2 trang 14 và ảnh minh họa ở phần cuối báo cáo này).
17
4.3. Về tổ chức thực hiện
- Với các hộ tự đào giếng, cần khuyến cáo quy trình và biện pháp đào để bảo đảm
an toàn trong quá trình đào. Nhất là các hộ cải tạo, sửa chữa… tránh sụt, sạt, lở đất gây
nguy hiểm đên tính mạng người đào.
- Một số hộ quá nghèo, không có khả năng đóng góp kinh phí, chính quyền xã
hoặc các tổ chức đoàn thể tìm cách trợ giúp như cho vay trả dần…
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Nhóm tư vấn đã hoàn thành các nội dung đề ra theo TOR và bản đề cương thực
hiện đã được Oxfam chấp thuận.
- Báo cáo đã đáp ứng đủ các kết quả mong đợi. Kết quả nghiên cứu rút ra từ khảo
sát, phân tích mẫu nước và đúc rút từ thực tế, kinh nghiệm có tính khoa học cao. Các đề
xuất của nhóm tư vấn đều được lãnh đạo, các tổ chức đoàn thể và nhân dân ủng hộ.
- Báo cáo của nhóm tư vấn đã giúp ích tốt cho Ban quản lý dự án huyện, Ban cứu
trợ xã triển khai thực hiện tốt các nội dung của dự án. Bảo đảm công trình do Oxfam tài
trợ phát huy hiệu quả tốt, thiết thực phục vụ lợi ích của người nghèo và phù hợp với đặc
điểm sinh hoạt của nhân dân. Kết quả thực hiện dự án là mẫu hình tốt để nhân rộng ra các
hộ khác (ngoài các hộ được trợ giúp) và các thôn xã khác trong huyện.
Kiến nghị: Đề nghị Oxfam tăng cường hoạt động kiểm tra giám sát để đôn đốc
các Ban quản lý dự án huyện hoàn thành đúng tiến độ.
Đề nghi Ban quản lý dự án huyện nghiên cứu giải pháp hỗ trợ những hộ quá nghèo
không đủ khả năng đóng góp thêm chi phí xây dựng công trình (giếng nước).
Nhóm chuyên gia xin cảm ơn sự hợp tác, phối hợp với tinh thần trách nhiệm cao
của các cán bộ thuộc tổ chức Oxfam, các Ban quản lý dự án huyện, lãnh đạo chính quyền,
các tổ chức xã hội và bà con nhân dân các xã trong vùng dự án tham gia giúp đỡ, cung
cấp thông tin cho Nhóm tư vấn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Thay mặt nhóm tư vấn
Đoàn Thế Lợi
18
Phụ lục 1:
Các thông tin chung về mẫu nước lựa chọn để phân tích
a) Các mẫu tại huyện Hương Khê
TT Mã
số
Tên hộ Thôn,
xóm
Xã Ghi chú
1 4 Hồ Đức
Ngọc
Mỹ
Trung
Phương
Mỹ
Đại diện cho hầu hết các giếng đào, qua đêm mặt
giếng có váng và có mùi hơi tanh
2 11 Phạm Văn
Bảy
Xóm 1 Phương
Điền
Đại diện các giếng đào các thôn 1, 2, 3 nước bơm lên
để ngả màu vàng, có váng trên mặt, chất lượng cảm
nhận là chưa tốt
3 12 Lê văn Hải xóm 10 Phương
Điền
Đại diện cho nước giếng khơi dưới chân đồi, thấp,
mạch ngang, khi mưa nước đục, mực nước dâng lên
gần mặt đất, nước lúc lấy mẫu nhìn hơi đục
4 13 Nguyễn văn
Thành
Xóm 8 Hà
Linh
Nước giếng khoan sau khi lọc cát, than, sỏi (dày 60-
70cm). Khi chưa lọc nước có màu vàng, mùi tanh,
không dùng được ngay. Sau khi lọc gia đình đánh giá
chất lượng nước tốt.
5 14 Nguyễn
Văn Kính
Tân
Đình
Lộc
Yên
Đại diện giếng đào có độ sâu từ 8-12m hiện đang sử
dụng để ăn uống
6 15 Giếng dùng
chung
Xóm 1 Phúc
Đồng
Đại diện giếng gần ruộng canh tác (không có thành
bảo vệ, dễ bị nước ô nhiễm bên ngoài chảy xuống,
nhất là trâu bò đi lại trên đường). Về mùa khô khoảng
30 hộ sử dụng giếng này để ăn uống và sinh hoạt
7 01 Nguyễn
Tuấn Huế
Xóm 2 Phúc
Đồng
Đại diện cho các giếng đào phổ biến đang được sử
dụng ở trong xã có độ sâu từ 8-14m
b) Các mẫu tại huyện Vũ Quang
TT Mã
số
Tên hộ Thôn,
xóm
Xã Ghi chú
1 2 Nguyễn Thế
Kỷ
Hội
Trung
Đức
Liên
Đại diện cho hầu hết nước giếng khoan, giếng đào
bơm lên có váng, mùi hơi tanh
2 3 Liên
Hoà
Đức
Liên
Nước giếng đào, giếng khoan có biểu hiện váng và có
mùi hơi tanh sau xử lý lọc cát chưa đúng kỹ thuật thời
gian loc 5 phút, độ sâu tầng cát sỏi lọc 30cm
3 5 Nguyễn Văn
Bường
Thôn
10
Hương
Thọ
Đại diện cho nước giếng khơi gần chuồng trại gia súc,
nhưng cảm quan chất lượng cũng là tốt
4 6 Trần Đình
Đàn
Thôn
11
Hương
Thọ
Nước giếng sau lọc cát sỏi 30cm, chưa đúng kỹ thuật,
cảm quan chưa đảm bảo
5 7 Nguyễn Thị
Quế
Xóm 2 Ân Phú Đại diện giếng đào sâu từ 8-12m (phổ biến ở các thôn
1, 2, 3). Nước hơi đục, chưa tốt
6 8 Nguyễn Thị
Quế
Xóm 2 Ân Phú Giếng đào có mùi tanh và đã lọc (cát, sỏi, than 30cm).
7 9 Trần Thanh
Phúc
Xóm 2 Ân phú Đại diện cho nước giếng khoan có bị ô nhiễm chưa
qua xử lý
8 10 Sông Ngàn
Sâu
Thôn 2 Đức
Giang
Đại diện nguồn nước mặt, sông suối
19
Phụ lục 2:
Bảng tổng hợp kết quả phân tích và đánh giá chất lượng các mẫu nước
I. Tại Huyện Hương Khê
TT Tên hộ, thôn xã, nguồn
nước
Chất lượng nước Các ảnh hưởng nếu
sử dụng trực tiếp
Khuyến cáo biện
pháp xử lý (đặc biệt
sau lũ)
1 Hồ Đức Ngọc, Thôn
Mỹ Trung, Xã Phương
Mỹ. Đại diện cho hầu
hết các giếng đào có
váng và có mùi hơi
tanh (mẫu này có số
lượng nhiều nhất trong
vùng)
- Có 16/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 2/18 chỉ tiêu chưa
đạt, tuy nhiên đều
là các chỉ tiêu dễ xử
lý
Các chỉ tiêu không
đạt ít tác động tới
sức khoẻ. Khi sử
dụng để nấu ăn dễ bị
mất mùi thực phẩm
như mất mùi chè
- Nên lắng và phơi
nắng trước khi sử
dụng.
- Tốt nhất nên lọc
qua bể lọc chậm như
đề xuất của tư vấn)
trước khi sử dụng
2 Phạm văn Bảy, Xóm 1,
Xã Phương Điền Đại
diện nước giếng đào
nước bơm lên để ngả
màu vàng, có váng trên
mặt
- Có 16/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 2/18 chỉ tiêu chưa
đạt là sắt và mùi dễ
xử lý.
- 2 chỉ tiêu vi sinh
đạt nhưng ở mức
hơi cao.
Các chỉ tiêu không
đạt ít tác động tới
sức khoẻ, sử dụng
để nấu ăn dễ bị mất
mùi thực phẩm như
mất mùi chè
- Nên lọc qua bể lọc
chậm (như đề xuất
của tư vấn) trước khi
sử dụng
- Nên khử trùng
bằng Cloramin B
hoặc đun sôi trước
khi uống
3 Lê văn Hải, xóm 10, xã
Phương Điền; Đại diện
cho nước giếng khơi
dưới chân đồi, thấp,
mạch ngang, khi mưa
nước đục, mực nước
dâng lên gần mặt đất
- Có 17/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 1/18 chỉ tiêu chưa
đạt nhưng đó là
màu sắc dễ xử lý.
- Có vi sinh
Các chỉ tiêu không
đạt ít tác động tới
sức khoẻ. Cảm giác
sử dụng chưa thực
sự yên tâm
- Nên lọc qua bể lọc
chậm (như đề xuất
của tư vấn ) trước
khi sử dụng
- Đun sôi trước khi
uống
4 Nguyễn Văn Thành,
Xóm 8, Xã Hà Linh
(Nước giếng khoan, có
mùi tanh đã lọc cát,
than, sỏi tổng lớp cát,
than, sỏi 60-70cm
- Có 17/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 1/18 chỉ tiêu chưa
đạt (hàm lượng sắt
hơi cao hơn mức
bình thường )
Chỉ tiêu không đạt
không tác động tới
sức khoẻ.
Nên chỉnh sửa bể
lọc theo mẫu của tư
vấn đề xuất
5 Nguyễn Văn Kính,
Xóm Tân Đình, Xã
Lộc Yên (Là nguồn
- Có 14/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 4/18 chỉ tiêu chưa
Chỉ tiêu không đạt
không tác động tới
sức khoẻ. Sử dụng
- Nên lọc qua bể lọc
chậm (như đề xuất
của tư vấn) trước khi
20
chủ yếu trong xã) đạt là màu sắc, mùi
vị, độ đục và sắt
để nấu ăn dễ bị mất
mùi thực phẩm như
mất mùi chè
sử dụng
6 Giếng đất làng, Xóm 1,
Xã Phúc Đồng
(nhiều người dùng
trong mùa khô, hạn)
- Có 16/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 2/18 chỉ tiêu chưa
đạt, màu sắc và sắt
dễ xử lý. Vẫn có
dấu hiệu của vi sinh
Các chỉ tiêu không
đạt ít tác động tới
sức khoẻ. Cảm giác
sử dụng chưa thực
sự yên tâm
- Cần lắng và xử lý
vi khuẩn bằng
CloraminB
- Đun sôi trước
uống.
7 Nguyễn Tuấn Huế,
Xóm 2, Xã Phúc Đồng;
Đại diện cho các giếng
khơi, giếng đào phổ
biến đang được sử
dụng ở trong xã có độ
sâu từ 8-14m
- Có 15/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 3/18 chỉ tiêu chưa
đạt gồm màu sắc,
độ đục, mùi vị, và
hàm lượng sắt
Cảm giác nước
không ngon. sử
dụng để nấu ăn dễ bị
mất mùi thực phẩm
như mất mùi chè
- Nên lắng và phơi
nắng trước khi sử
dụng.
- Tốt nhất nên lọc
qua bể lọc chậm như
đề xuất của tư vấn)
trước khi sử dụng
II. Huyện Vũ Quang
TT
Tên hộ, thôn xã,
nguồn nước
Chất lượng nước Các ảnh hưởng nếu
sử dụng trực tiếp
Khuyến cáo biện
pháp xử lý (đặc biệt
sau lũ)
1 Nguyễn Thế Kỷ,
Thôn Hội Trung, Xã
Đức Liên. Nước
giếng khoan, giếng
đào bơm lên có
váng, mùi hơi tanh
- Có 15/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 3/18 chỉ tiêu chưa
đạt gồm pH, mùi vị
và sắt.
Các chỉ tiêu không
đạt ít tác động tới
sức khoẻ; Sử dụng
để nấu ăn dễ bị mất
mùi thực phẩm như
mất mùi chè
Nên lọc qua bể lọc
chậm (như đề xuất
của tư vấn ) trước khi
sử dụng
2
Phan Hữu Toàn,
Thôn Liên Hoà, Xã
Đức Liên; Nước
giếng đào, giếng
khoan có biểu hiện
váng và có mùi hơi
tanh (đã xử lý lọc
cát chưa đúng kỹ
thuật, thời gian loc
5 phút, độ sâu tầng
cát sỏi lọc 30cm
- Có 16/18 chỉ tiêu
đạt
- 2/18 chỉ tiêu chưa
đạt là Nitrat (NO
3
-
)
và, mùi tanh.
Các chỉ tiêu không
đạt ít tác động tới
sức khoẻ
Nên sửa lại bể lọc
(như đề xuất của tư
vấn )
Nguyễn Văn
Bường, xóm 10, xã
Hương Thọ; Nguồn
nước giếng đào gần
- Có 16/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 2/18 chỉ tiêu chưa
Dễ gây ra các bệnh
đường ruột; Sử
dụng để nấu ăn dễ
bị mất mùi thực
- Nên lọc qua bể lọc
chậm (như đề xuất
của tư vấn) kết hợp
21
3 chuồng trại gia xúc
(3m)
đạt là Nitrat (NO
3
-
)
và, mùi tanh.
- Nhiễm vi sinh
(Biểu hiện rất rõ về
vi khuẩn )
phẩm như mất mùi
chè
phơi năng trước khi
sử dụng
- Nên khử trùng bằng
Cloramin B hoặc đun
sôi trước khi uống
4
Trần Đình Đàn,
Xóm 11, Xã Hương
Thọ; Nước giếng
lây lên đã được lọc
cát sỏi (30cm) chưa
đúng kỹ thuật,
- Có 15/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 3/18 tiêu chuẩn
chưa đạt, màu sắc,
mùi vị, và hàm
lượng sắt
Các chỉ tiêu không
đạt ít tác động tới
sức khoẻ; Sử dụng
để nấu ăn dễ bị mất
mùi thực phẩm như
mất mùi chè
Nên sửa lại bể lọc
(như đề xuất của tư
vấn)
5
Nguyễn thị Quế,
Xóm 2, Xã Ân Phú;
Đại diện giếng đào
có độ sâu từ 8-12m
của hầu hết các
giếng thôn 1, 2, 3
(trước khi lọc)
- Có 14/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 4/18 chỉ tiêu chưa
đạt màu sắc, độ đục,
mùi vị, sắt .
- Có dấu hiệu nhiễm
vi sinh
Dễ gây ra các bệnh
đường ruột; Sử
dụng để nấu ăn dễ
bị mất mùi thực
phẩm như mất mùi
chè
- Nên lọc qua bể lọc
chậm (như đề xuất
của tư vấn ) trước khi
sử dụng
- Nên khử trùng bằng
Cloramin B hoặc đun
sôi trước khi uống
6
Nguyễn thị Quế,
Xóm 2, Xã Ân Phú
(Sau khi đã lọc qua
cát, sỏi, than 30cm)
- Sau khi lọc, tất cả
17/18 chỉ tiêu đều
đạt yêu cầu cho
phép
- 1/18 chỉ tiêu
không đạt đó là
Nitrat (NO
3
-
)
Sử dụng tốt - Chú ý giữ vệ sinh
và thường xuyên và
thay cát lọc
7
Trần Thanh Phúc,
Xóm 2, Xã Ân Phú;
Đại diện cho nước
giếng khoan có bị ô
nhiễm chưa qua xử
lý
- Có 14/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 4/18 chỉ tiêu chưa
đạt, màu sắc, độ
đục, mùi vị, sắt
Các chỉ tiêu không
đạt không ảnh
hướng lớn tới sức
khoẻ. Sử dụng để
nấu ăn dễ bị mất
mùi thực phẩm như
mất mùi chè do
hàm lượng sắt cao
- Nên lọc qua bể lọc
chậm (như đề xuất
của tư vấn ) trước khi
sử dụng
8
Nước Sông Ngàn
sâu (thôn qua Thôn
2, xã Đức Giang).
Thường sử dụng khi
giếng không còn
nước vào mùa khô
- Có 15/18 chỉ tiêu
đạt yêu cầu
- 3/18 chỉ tiêu chưa
đạt là màu sắc,
Nitrat (NO
3
-
) và sắt
(nhưng ở mức thấp)
- Có dấu hiệu của vi
khuẩn
Các chỉ tiêu không
đạt không ảnh
hướng lớn tới sức
khoẻ.
- Để lắng trong bể
trong bể chứa trước
khi sử dụng.
- Đun sôi trước khi
uống
22
Phụ lục 3:
Kết quả phân tích các mẫu nước
I. Huyện Hương Khê
Mẫu số: 1 (mã số mẫu 4):
Loại nước giếng khoan: Đại diện cho hầu hết các giếng đào, qua đêm mặt giếng có váng và có
mùi hơi tanh
Địa điểm mẫu: Hồ Đức Ngọc, Thôn Mỹ Trung, Xã Phương Mỹ - Hương Khê
TT Tên chỉ tiêu Ðơn vị
tính
Kết
quả
PT
TC cho
phép
Đánh
giá
Đánh giá chất lượng và
khuyến cáo sử dụng và xử lý
1 Màu sắc TCU 25 15 K. đạt
1) Đánh giá chung so với tiêu
chuẩn Việt nam về nước sinh
hoạt:
- Có 16/18 chỉ tiêu phân tích
đạt theo Tiêu chuẩn cho phép
- 2/18 tiêu chuẩn chưa đạt, tuy
nhiên nếu được lắng thông
thường thì các chỉ tiêu như màu
sắc, mùi vị sẽ được xử lý; đồng
thời hàm lượng sắt mằc dù
không vi phạm tiêu chuẩn xũng
sẽ được xử lý từ thể hoà tan di
động về trạng thái kết tủa và
lắng
2) Nếu không xử lý thì nhìn
chung ít tác động tới sức khoẻ,
sử dụng để nấu ăn dễ bị mất
mùi thực phẩm như mất mùi
chè nguyên nhân chính do
vẫn còn sắt ở dạng hòa tan di
động.
3) Nếu có thể cần phải khuyến
cáo giải pháp xử lý như thế
nào:
- Cần phải lắng, phơi nước
trước khi sử dụng
2 Mùi vị (lúc vừa
lấy mẫu)
hơi
tanh
K. có
mùi, vị lạ
K. đạt
3 Ðộ đục NTU 0,26 5 Đạt
4 pH
(a)
5,75 5,5-8,5 Đạt
5 Ðộ cứng mg/l 40 350 Đạt
6 Tổng chất rắn hoà
tan (TDS)
mg/l 55 1500 Đạt
7 Amoni, tính theo
(NH
4
+
)
mg/l 0 3,0 Đạt
8 Asen mg/l 0 0,05 Đạt
9 Clorua (Cl
-
) mg/l 52 300 Đạt
10 Florua (F
-
) mg/l 0,44 1,0 Đạt
11 Sắt (Fe) mg/l 0,255 0,5 Đạt
12 Mangan (Mn) mg/l 0,038 0,5 Đạt
13 Nitrat (NO
3
-
)
tính theo N
mg/l 0,415 1,0 Đạt
14 Nitrit (NO
2
-
) tính
theo N
mg/l 0,02 1,0 Đạt
15 Sunphát (SO
2
-
) mg/l 5,0 400 Đạt
16 Ðộ ô xy hoá mg/l 0,38 4 Đạt
17
Coliform Col/
100ml
0 50 Đạt
18 E-Coli F.c/10
0ml
0 20 Đạt
Ghi chú: So sánh với QCVN 02 : 2009/BYT về chất lượng nước sinh hoạt.
.
23
Mẫu số: 2 (mã số mẫu 11):
Loại nước giếng khoan: Đại diện nước giếng đào các thôn 1, 2, 3 nước bơm lên để ngả màu
vàng, có váng trên mặt, chất lượng được người dân đánh giá cảm quan là chưa tốt
Địa điểm mẫu: Phạm văn Bảy, Xóm 1, Xã Phương Điền - Hương Khê
TT Tên chỉ tiêu Ðơn
vị
tính
Kết
quả
PT
TC cho
phép
Đánh
giá
Đánh giá chất lượng và
khuyến cáo sử dụng và xử lý
1 Màu sắc TCU 0 15 Đạt
1) Đánh giá chung so với tiêu
chuẩn Việt nam về nước sinh
hoạt:
- Có 15/18 chỉ tiêu phân tích đạt
theo Tiêu chuẩn cho phép
- 3/18 tiêu chuẩn chưa đạt, tuy
nhiên nếu được lắng, lọc cát
thông thường thì các chỉ tiêu
như mùi vị, Sắt sẽ được xử lý,
còn NO
3
cũng sẽ giảm hàm
lượng và cũng có thể được xử
lý về tiêu chuẩn cho phép.
2) Nếu không xử lý thì cảm giác
nước không ngon, sử dụng để
nấu ăn dễ bị mất mùi thực phẩm
như mất mùi chè nguyên nhân
chính do chỉ tiêu hàm lượng sắt
cao hơn TCCP.
3) Nếu có thể cần phải khuyến
cáo giải pháp xử lý như thế nào:
- Nên khử trùng bằng Cloramin
B theo hướng dẫn của Bộ Y tế
hoặc đun nấu chín sôi kỹ.
- Cần lắng trong bể trước khi
dùng. Về lâu dài vẫn cần lọc
chậm
2 Mùi vị (lúc vừa
lấy mẫu)
hơi
tanh
K. có
mùi, vị lạ
K. đạt
3 Ðộ đục NTU 0,35 5 Đạt
4 pH
(a)
7,07 5,5-8,5 Đạt
5 Ðộ cứng mg/l 95 350 Đạt
6 Tổng chất rắn hoà
tan (TDS)
mg/l 112 1500 Đạt
7 Amoni, tính theo
(NH
4
+
)
mg/l 0 3,0 Đạt
8 Asen mg/l 0 0,05 Đạt
9 Clorua (Cl
-
) mg/l 42 300 Đạt
10 Florua (F
-
) mg/l 0,89 1,0 Đạt
11 Sắt (Fe) mg/l 0,72 0,5 K. Đạt
12 Mangan (Mn) mg/l 0,027 0,5 Đạt
13 Nitrat (NO
3
-
)
tính theo N
mg/l 1,605 1,0 K. Đạt
14 Nitrit (NO
2
-
) tính
theo N
mg/l 0,017 1,0 Đạt
15 Sunphát (SO
2
-
) mg/l 0 400 Đạt
16 Ðộ ô xy hoá mg/l 0,68 4 Đạt
17
Coliform Col/1
00ml
17 50 Đạt
18 E-Coli F.c/10
0ml
5 20 Đạt
Ghi chú: So sánh với QCVN 02 : 2009/BYT về chất lượng nước sinh hoạt.
24