Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và đầu tư - 7 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.9 KB, 19 trang )


115

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân.
2.3.2.1. Chất lượng các luận chứng kinh tế- kỹ thuật cho quá trình thẩm định
còn hạn chế.
Việc sử dụng, quản lý nguồn vốn đầu tư như thế nào cho hiệu quả, đáp ứng nhu
cầu thiết thực, bức xúc của xã hội là vấn đề quan trọng có tính chiến lược quốc
gia. Đối với một dự án FDI phải quan tâm trước hết đến tính khả thi, tính hiệu
quả kinh tế xã hội của dự án. Để đảm bảo yêu cầu này thì luận chứng kinh tế kỹ
thuật của mỗi dự án phải được trình bày một cách đầy đủ với những số liệu khảo
sát thực tiễn toàn diện, khách quan và phải được thông qua một hội đồng chuyên
môn để thẩm định. Mặc dù từ lâu luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án vẫn
được tiến hành xây dựng song thực tiễn cho thấy bên cạnh những dự án tốt,
nhiều luận chứng kinh tế kỹ thuật vẫn không được xây dựng và thẩm định kỹ
càng, tính khoa học và thực tiễn thấp. Nhiều dự án việc xét duyệt không được
nghiêm túc, không có chuyên gia giỏi xem xét nên tính khả thi của luận chứng
đến mức nào nhiều khi không được thẩm định một cách khoa học. Sự hạn chế
của các luận chứng kinh tế kỹ thuật chính là một khó khăn lớn cho công tác thẩm
định. Hệ quả là bản luận chứng nhiều lúc biến tướng thành một thủ tục hành
chính. Nên chăng cần ban hành những văn bản pháp luật quy định rõ ràng quyền
lợi và trách nhiệm của các bên hữu quan trong dự án để việc xây dựng luận
chứng, xét duyệt và thực thi dự án được nghiêm túc, khoa học, đem lại hiệu quả
hơn.
Bên cạnh đó công tác quản lý các dự án không chỉ cần thiết khi xét duyệt, khi
thực thi mà sau khi hoàn thành cần được kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả của dự
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

116

án so với luận chứng ban đầu. Nếu có sai sót, các bên hữu quan của dự án phải


có trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
2.3.2.2. Hệ thống thông tin chưa hoàn thiện.
Trong thẩm định dự án, thông tin là yếu tố rất quan trọng nhưng nhiều khi công
tác thẩm định thông tin chưa tốt khiến cho nhiều dự án đã được cấp giấy phép
không triển khai được do phía nước ngoài không có năng lực về tài chính. Nhiều
dự án chủ đầu tư nước ngoài không góp đủ vốn theo tiến độ quy định hoặc đóng
góp vốn thấp hơn vốn pháp định. Ví dụ: dự án liên doanh giữa Nhà hàng Xuân
Hương (thành phố Hồ Chí Minh) và công ty PANEXIM (Việt kiều Pháp), giấy
phép cấp ngày 17/09/1990: hai bên đã thành lập Hội đồng quản trị, ban giám
đốc, mở tài khoản, đã lên thiết kế nâng cấp và đã được cấp giấy phép xây dựng
ngày 22/05/1991, cơ sở giải toả xong ngày 30/04/1991 với chi phí 45000USD do
công ty Du Lịch tạm ứng trước cho bên nước ngoài mượn vì đây là một công ty
Việt kiều Pháp có làm ăn với nhiều công ty Việt Nam. Tuy nhiên đến cuối năm
1992, công ty PANEXIM không có đủ năng lực tài chính để triển khai dự án. Vì
thế dự án bị rút giấy phép.
Có trường hợp chủ đầu tư nước ngoài sau khi nhận được giấy phép thì bán lại
giấy phép cho các công ty nước ngoài khác với giá cao hơn để kiếm lời. Ví dụ :
xí nghiệp liên doanh thuốc lá Tây Đô-Hậu Giang. Bên nước ngoài đứng tên xin
giấy phép là một Việt kiều ở Mỹ, nhưng sau khi nhận được giấy phép đầu tư,
ông Việt kiều rút tên khỏi liên doanh và bên đối tác mới là tập đoàn Indonesia.
Tính đến hết năm 2000, đã có 642 dự án bị giải thể trước thời hạn với số vốn
khoảng 8 tỷ USD và số vốn đã được thực hiện là 2,1 tỷ USD, trong đó thời kỳ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

117

1996-2000 có 406 dự án giải thể và vốn đăng ký là 6,56 tỷ USD, tăng 69% về số
dự án và gấp 4,3 lần về vốn giải thể so với 5 năm trước. Nguyên nhân việc số dự
án bị giải thể tăng lên một mặt do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu
vực, do môi trường kinh doanh ở Việt Nam còn nhiều mặt kém thuận lợi , do

Việt Nam có sự điều chỉnh định hướng thu hút đầu tư nước ngoài trong một số
lĩnh vực. Nhưng mặt khác còn do phần lớn các dự án bị giải thể thời kỳ này đã
được cấp giấy phép đầu tư giai đoạn từ năm 1995 trở về trước, trong đó có
những dự án ngay trong quá trình thẩm định tuy đã có những ý kiến phân vân về
tính khả thi (lựa chọn đối tác không phù hợp, dựa trên những dự báo không
chính xác về cung cầu…) nhưng vẫn được cấp giấy phép đầu tư vì những lý do
khác nhau.
Bên cạnh đó, thông tin về các chủ đầu tư nước ngoài nhiều khi sai lệch khiến
cho công tác thẩm định khá vất vả. Cụ thể trong dự án cấp nước BOT vừa nêu
trong phần ví dụ, thông tin do các chủ đầu tư nước ngoài cung cấp ghi trong hồ
sơ dự án rất khả quan. Tuy nhiên, trong quá trình thẩm định đã phát hiện không
phải mọi thông tin về các công ty đầu tư đều đúng sự thật. Nghiên cứu tiền khả
thi của dự án đó đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua về nguyên tắc, gồm 4
công ty đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, công ty A- với tư cách là nhà đầu tư
chính, đóng góp 60% vốn pháp định- không còn tồn tại nữa, nhưng đã đứng dưới
danh nghĩa một tên khác để tham gia đầu tư.
2.3.2.3. Hệ thống luật pháp, chính sách đang trong quá trình hoàn thiện nên chưa
đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán trước được, gây khó khăn không ít cho quá
trình thẩm định dự án.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

118

Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao. Một số luật pháp, chính sách
liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài thay đổi nhiều. Có những trường hợp
chưa tính kỹ đến lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nên đã làm đảo lộn phương
án kinh doanh và gây thiệt hại cho họ. Nhiều vướng mắc liên quan đến phạm vi
điều chỉnh của các luật chuyên ngành như luật đất đai, quản lý ngoại hối, công
nghệ môi trường, lao động, xuất nhập cảnh, pháp lệnh thi hành án…chậm được
sửa đổi khiến cho nhiều khi cán bộ thẩm định không có được những cơ sở rõ

ràng và cập nhật để tiến hành thẩm định. Thêm vào đó, nhiều văn bản dưới luật
ban hành chậm so với quy định. Một số văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành,
địa phương có xu hướng xiết lại, thêm quy trình dẫn đến tình trạng “trên thoáng
dưới chặt”, một số chính sách mới của Chính phủ chậm được đưa vào cuộc sống
hoặc không được cơ quan cấp dưới chấp hành nghiêm chỉnh làm giảm lòng tin
của cộng đồng đầu tư nước ngoài.
2.3.2.4. Công tác quy hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể.
Các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu với động cơ tìm kiếm lợi
nhuận và nhằm vào thị trường tiêu thụ nội địa gần 80 triệu dân. Nhưng một mặt,
quy mô của thị trường Việt Nam còn nhỏ bé, sức mua thấp, nhất là vùng nông
thôn. Mặt khác ta lại chủ trương khuyến khích đầu tư hướng về xuất khẩu, nhiều
dự án phải xuất khẩu trên 80% nên tính khả thi của dự án không cao. Nhiều lĩnh
vực đầu tư có sức hấp dẫn nhưng vào thời điểm hiện nay đã và đang bão hoà
(khách sạn, văn phòng cho thuê, lắp ráp ôtô xe máy, hàng điện tử gia dụng…).
Tình hình trên cộng với ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực đã
làm cho công suất huy động của nhiều sản phẩm thuộc khu vực đầu tư nước
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

119

ngoài đạt thấp. Việc cấp phép những năm đầu trong một vài lĩnh vực cũng còn
hiện tượng thiên về số lượng, nặng về thay thế nhập khẩu, tuy có bổ sung hàng
hoá cho thị trường, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu, nhưng tình trạng này kéo dài
không kịp thời điều chỉnh đã dẫn đến chênh lệch cung cầu, tạo sức ép lớn đối với
sản xuất một vài sản phẩm trong nước.
Cũng do thiếu quy hoạch cụ thể nên một mặt các địa phương phải chờ xin ý
kiến của các cơ quan trung ương mất nhiều thời gian, mặt khác dẫn đến tình
trạng quan điểm xử lý đối với dự án không nhất quán.
Hình thức đầu tư nước ngoài cũng chưa phong phú. Hơn 10 năm qua, đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam thực hiện theo 4 hình thức là doanh nghiệp liên doanh,

doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Hợp đồng hợp tác kinh doanh và hợp đồng
BOT. Tuy nhiên các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập theo
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong chỉ đạo và điều hành ta dành ưu
tiên cho hình thức liên doanh nhưng chính doanh nghiệp liên doanh lại có tỷ lệ
lỗ vốn, giải thể nhiều nhất, mâu thuẫn giữa các bên liên doanh là khá phổ biến.
Hình thức hợp đồng BOT tuy được khuyến khích phát triển và thực tế đã chứng
minh là chứa đựng rất nhiều lợi thế đặc biệt đối với các nước đang phát triển
trong các dự án mang tính chất phúc lợi công cộng, xây dựng cơ sở hạ
tầng…nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan vẫn chưa thực sự phát huy được
sức mạnh của mình cho dù nhà nước đã tạo nhiều điều kiện khuyến khích phát
triển. Trong quá trình thẩm định các dự án BOT, nếu không có một hệ thống toà
án tin cậy, không có khả năng đứng ra bảo vệ quyền lợi của từng cá nhân và xí
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

120

nghiệp thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không cảm thấy yên tâm khi đưa ra
những cam kết đầu tư lâu dài ở Việt Nam.
2.3.2.5. Thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài còn quá
rườm rà.
Việc xin cấp giấy phép đầu tư, thủ tục thuê đất, xin giấy phép xây dựng cũng
như các thủ tục triển khai thực hiện dự án còn nhiều phức tạp. Công tác lập hồ
sơ dự án còn nhiều thiếu sót, sơ sài và buộc phải sửa đổi bổ sung khiến thời gian
thẩm định và cấp giấy phép kéo dài. Đặc biệt khi được cấp giấy phép đầu tư, để
có được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các chủ đầu tư phải mất khá nhiều
thời gian mới triển khai thực hiện được dự án. Việc phức tạp trong thủ tục cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện đang là một vấn đề nổi cộm và làm ảnh
hưởng rất lớn đến công tác thẩm định dự án.
Bên cạnh đó, phương thức quản lý cồng kềnh, các thủ tục rắc rối phiền hà
kéo dài thời gian làm giảm lại tiến độ phê chuẩn và thực hiện dự án. Do vậy bên

cạnh Luật đầu tư nước ngoài, các văn bản dưới luật cũng phải nhằm mục tiêu
khắc phục những bất hợp lý nảy sinh. Thi hành chế độ một cửa có hiệu lực, điều
chỉnh hệ thống giá cả có liên quan nhằm giảm chi phí cho nhà đầu tư , chú trọng
đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm định dự án. Ngoài ra cần huỷ
bỏ những ràng buộc hệ thống ngân hàng và các dịch vụ kèm theo nhằm tạo môi
trường thông thoáng cho các nhà đầu tư. Thành lập các khu vực mậu dịch tự do,
khu chế xuất cho các ngành công nghiệp xuất khẩu…là giải pháp hữu hiệu thu
hút FDI và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào công cuộc kinh
doanh ở Việt Nam.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

121

2.3.2.6. Mặt thẩm định công nghệ còn thiếu nhiều kinh nghiệm.
Chuyển giao công nghệ là một thành tố quan trọng của đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài
được thực hiện không theo các quy định của pháp luật (chẳng hạn như không lập
và ký kết hợp đồng hoặc chỉ ký kết hợp đồng giữa bên giao và bên nhận mà
không trình để phê duyệt…) làm cho cơ quan thẩm định rất khó có những căn cứ
chính xác và nhất quán để thực hiện công tác thẩm định về mặt công nghệ.
Nhiều hợp đồng chuyển giao công nghệ được ký kết giữa các bên là do bên nước
ngoài soạn thảo sẵn với những điêù khoản có lợi cho họ, trách nhiệm của bên
giao không rõ ràng và có những điều khoản trái với quy định của pháp luật Việt
Nam, chi phí chuyển giao công nghệ không hợp lý, vượt quá nhiều so với quy
định. Những hợp đồng đó thường bị sửa lại nhiều lần làm kéo dài thời gian phê
duyệt. Bên cạnh đó cũng chưa có được một đội ngũ cán bộ thẩm định thực sự
thông thạo về các thiết bị công nghệ hiện đại cũng như thông thạo ngoại ngữ và
luật pháp quốc tế dẫn đến nhiều trường hợp công nghệ đưa vào không đáp ứng
được mục tiêu của dự án đề ra. kinh nghiệm thẩm định giá và mức độ tiên tiến
của công nghệ và máy móc còn nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả thấp, đặc biệt là

trong các dự án liên doanh rất nhiều dự án bị giải thể trước thời hạn.
2.3.2.6. Chưa có sự thống nhất giữa Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư
trong đánh giá thẩm định dự án.
Thông thường, những kết quả đánh giá thẩm định do Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đưa ra sau quá trình thẩm định là những căn cứ trực tiếp để Chính phủ ra quyết
định đầu tư và cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

122

không có sự thống nhất trong đánh giá dự án giữa Chính phủ và Bộ Kế hoạch và
Đầu tư. Cụ thể, trong dự án cấp nước BOT vừa được lấy làm ví dụ, mặc dù kết
quả đánh giá thẩm định do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra về dự án là còn nhiều
vấn đề tồn tại, nhiều vấn đề còn nghi vấn cần phải xem xét kỹ lưỡng mới có thể
đưa ra kết luận cuối cùng, tuy nhiên dự án vẫn được Chính phủ chấp nhận và
thông qua. Nguyên nhân của vấn đề trên có thể ở chỗ chưa có những tiêu chuẩn
cụ thể để đánh giá xếp loại dự án, chưa có quy định chi tiết về những điều kiện
dự án cần phải đạt đủ để được cấp giấy phép đầu tư.
Chương 3:
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3.1. Triển vọng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
3.1.1. Bối cảnh tình hình.
Những thuận lợi:
Tình hình kinh tế- xã hội của nước ta tiếp tục ổn định và phát triển. Đặc biệt,
những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới đã làm cho thế và
lực của ta mạnh lên, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Sự
phát triển có nhiều triển vọng của nền kinh tế trong môi trường chính trị xã hội
cơ bản ổn định, môi trường hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi
cùng với những tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động của đát nước sẽ tạo nhiều

điều kiện thuận lợi để tiếp tục thu hút mạnh hơn nữa các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

123

Môi trường kinh doanh nói chung và môi trường đầu tư nói riêng không ngừng
được cải thiện; công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài đã rút ra được
nhiều bài học kinh nghiệm và dần đi vào nền nếp; đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài ngày một trưởng thành.
Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang gia tăng mạnh cùng với sự phát triển nhảy
vọt của cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đã thúc
đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức, tạo nên sự dịch chuyển mạnh cơ cấu kinh
tế quốc tế và gia tăng mạnh các dòng chuyển vốn trên thế giới.
Mặt khác, kinh tế thế giới đã phục hồi và tăng trưởng trở lại. Thời gian tới, Châu
á- Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động của thế giới. Trong
bối cảnh đó, nước ta cũng có những cơ hội thuận lợi để thu hút thêm các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Những khó khăn.
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Nhịp độ
tăng trưởng kinh tế 5 năm qua chậm dần. Năm 2000 có chiều hướng tăng lên
nhưng chưa đạt được mức tăng trưởng cao như 5 năm đầu thập niên 90. Cơ cấu
kinh tế dịch chuyển chậm, tích luỹ nội bộ nên kinh tế còn thấp, các cân đối vĩ mô
còn thiếu vững chắc.
Môi trường kinh doanh, đầu tư còn nhiều hạn chế. Nhu cầu thị trường tăng
chậm, dung lượng thị trường nhỏ và sức mua trong nước còn rất thấp trong khi
cung về nhiều sản phẩm trong nước đã bão hoà. Quản lý nhà nước về đầu tư
nước ngoài còn bất cập, đặc biệt thủ tục hành chính còn phiền hà, tình trạng chấp
hành chưa nghiêm luật pháp chính sách còn khá phổ biến.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


124

Cạnh tranh trong thu hút các dự án đầu tư nước ngoài trên thế giới và trong khu
vực diễn ra ngày càng gay gắt. Hiện nay, ba phần tư vốn đầu tư nước ngoài trên
thế giới là đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển do sự tăng
cường liên kết giữa các công ty đa quốc gia của Mỹ, Nhật, Tây Âu. Một phần tư
số vốn đầu tư nước ngoài còn lại chảy vào các nước đang phát triển nhưng chủ
yếu bị thu hút vào các nươcs công nghiệp mới (NICS) hoặc vào các thị trường
đầu tư lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Brazil, Mêhico…Trong bối cảnh đó, các
nước trong khu vực đã và đang cải thiện mạnh môi trường thu hút đầu tư nước
ngoài nhằm vượt lên trên các nước khác, coi đó là giải pháp chiến lược phục hồi
và phát triển kinh tế. Chính điều này tạo nên sức cạnh tranh mạnh và là thách
thức to lớn với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hiện nay môi trường đầu tư tại
Việt Nam đang bị đánh giá là mất dần tính cạnh tranh và độ rủi ro trong kinh
doanh cao hơn các nước trong khu vực.
Sau khủng hoảng kinh tế khu vực và dựa vào kinh nghiệm thực tế tại Việt Nam,
các nhà đầu tư nước ngoài đa đánh giá Việt Nam đúng hơn và trở nên thận trọng,
không đầu tư ồ ạt theo hướng đón đầu như những năm đầu 90 mà thực hiện
chính sách đầu tư phù hợp với tình hình kinh tế và sức mua thực tế của người
dân Việt Nam. Việc thực hiện từng bước tự do hoá thương mại và đầu tư theo lộ
trình AFTA, khu vực đầu tư ASEAN (AIA) cũng được các nhà đầu tư nước
ngoài tính toán khi lựa chọn địa điểm đầu tư , thực hiện phân công lao động
quốc tế đối với các nước trong khu vực ASEAN, tuỳ thuộc môi trường đầu tư,
tiềm lực kinh tế, nguồn tài nguyên nhân lực tại chỗ, quy mô thị trường của mỗi
nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

125


3.1.2. Triển vọng
Khả năng vốn thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 5 năm tới sơ
bộ ước tính trên 11 tỷ USD, dựa vào nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực
hiện từ các dự án đã được cấp giấy phép từ những năm trước nhưng chưa hoặc
đang tiếp tục triển khai và dựa vào vốn thực hiện của các dự án cấp mới trong
cùng kỳ, trong đó dự kiến:
+ Số vốn của các dự án đã cấp phép nhưng chưa thực hiện (khoảng trên dưới 15
tỷ USD) sẽ tiếp tục thực hiện khoảng 4-5 tỷ USD.
+ Số dự án triển khai có hiệu quả, dự kiến tăng vốn khoảng 2 tỷ USD
+ Số vốn thực hiện của các dự án cấp mới khoảng 4-5 tỷ USD.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành, lĩnh vực.
Định hướng chung là khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút các dự án vào các
ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu, cơ khí, điện tử, dầu khí, xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều
việc làm, khai thác thế mạnh về tài nguyên, nguyên liệu.
Trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, khuyến khích và có chính sách ưu đãi thoả
đáng đối với các dự án chế biến sản phẩm nông lâm ngư nghiệp gắn với việc
phát triển các vùng nguyên liệu để phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước;
chú trọng các dự án ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất các giống mới có
chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; khuyến khích các dự án công nghiệp phục vụ
nông nghiệp, các dự án dịch vụ nông thôn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

126

Trong lĩnh vực công nghiệp, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa hướng
vào những ngành sản xuất hàng xuất khẩu, những ngành sử dụng nhiều lao động,
vừa chú trọng những ngành có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Cụ thể:
- Tiếp tục thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các lĩnh vực
quan trọng: tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, phát triển các cơ sở công

nghiệp hạ nguồn dầu khí.
- Thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản Việt Nam
- Sản xuất linh kiện, lắp ráp thiết bị xe máy, thi công xây dựng, thiết bị kỹ
thuật cho ngành vận tải, thiết bị phụ tùng cho các ngành công nghiệp.
- Phát triển nguyên liệu hoá chất cơ bản, vật liệu mới, chất bảo vệ thực vật,
nguyên liệu nhựa.
- Các dự án may mặc, da giầy xuất khẩu; các dự án sản xuất công cụ, đồ
dùng gia đình.
- Các dự án điện tử, điện gia dụng, phần mềm tin học, điện tử y tế phục vụ
nhu cầu trong nước và xuất khẩu
- Các dự án sản xuất các loại dược phẩm thay thế hàng nhập khẩu, sản
xuất thiết bị y tế…
Trong lĩnh vực dịch vụ, tập trung khuyến khích phát triển các dự án phát triển
hạ tầng kỹ thuật kinh tế, cơ sở hạ tầng ngành du lịch, các dịch vụ tin học, chuyển
giao công nghệ
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài theo địa bàn, đối tác nước ngoài.
Tiếp tục thu hút các dự án vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai
trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

127

sở phát huy thế mạnh của các vùng phụ cận về nguyên liệu, lao động và nguồn
lực khác. Có chính sách ưu đãi hơn nữa các dự án vào các khu công nghiệp tập
trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt.
Đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động trong các tình
huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước ngoài ở khu vực Đông
á, ASEAN vào các dự án mà họ có nhiều kinh nghiệm và thế mạnh, tăng cường
thu hút mạnh các dự án từ các nước công nghiệp phát triển nhằm tranh thủ tiềm
lực kinh tế và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Có kế hoạch vận động trực tiếp các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực lớn về
vốn, công nghệ, thị trường quốc tế đầu tư vào Việt Nam, đồng thời chú ý đến cả
các dự án có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại.
3.2. Giải pháp.
3.2.1. Giải pháp về lựa chọn đối tác tham gia đầu tư thận trọng hơn.
Đối tác nước ngoài là một yếu tố quan trọng và lựa chọn đúng đắn đối tác là điều
kiện tiên quyết để có được những dự án thành công. Tuy nhiên, đối tác nước
ngoài rất đa dạng, ở nhiều khu vực, nhiều nước khác nhau trên thế giới nên việc
tìm hiểu về đối tác và luật lệ của họ không phải dễ dàng. Vì vậy cần phải đẩy
mạnh hoạt động tư vấn đầu tư để giúp các chủ đầu tư có cơ hội lựa chọn đúng
đối tác. Đối tác nước ngoài phải được lựa chọn thẩm tra chính xác. Đã đến lúc
không phải bất cứ loại đối tác nào chúng ta cũng hoan nghênh như trong mấy
năm đầu thực hiện đầu tư. Lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần chú ý tới các
tiêu chuẩn sau:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

128

+ Thiện chí làm ăn lâu dài ở Việt Nam; kiên quyết phát hiện và loại trừ các đối
tác có tư tưởng làm ăn chộp giật, mánh mung và thậm chí lừa đảo. Có những đối
tác đến Việt Nam không phải là bạn mà sử dụng các tiểu sảo trong giao tiếp,
tranh thủ tình cảm trong giao tiếp, tình cảm của bạn hàng bằng những lợi hoa
mỹ, bằng quà kỷ niệm hoặc bằng những chuyến đi thăm quan nước ngoài để đạt
được những ý đồ của họ.
+ Có năng lực cần thiết về tài chính đủ để thực hiện dự án đầu tư.
+ Có khả năng, kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể. Sẵn sàng
chuyển giao công nghệ cần thiết vào Việt Nam.
+ Cần sớm phát hiện và có biện pháp xử lý hữu hiệu đối với một số đối tác vào
Việt Nam với mục tiêu phi kinh tế. Để làm được việc này cần có sự tham gia của
các cơ quan chức năng của nhà nước, phải đặt mục tiêu hiệu quả kinh tế-xã hội

lên hàng đầu.
Để đạt mục tiêu đó, Việt Nam đã rất mong muốn được “là bạn với tất cả các
nước” không phân biệt chế độ chính trị xã hội.
Bên cạnh đó, cũng cần phải thực hiện chuyển đổi đối tác đầu tư. Việt Nam cần
tập trung tăng cường hợp tác trực tiếp với các nước phát triển có tiềm lực kinh tế
mạnh, các công ty đa quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế giới để tranh thủ được
công nghệ gốc, tiếp cận với cách thức quản lý hiện đại, tạo điều kiện cho Việt
Nam hội nhập vào thị trường quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải chú ý thu hút
các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ngoài vì đó là doanh nghiệp năng động,
thích ứng nhanh với những biến động của thị trường, phù hợp với đối tác Việt
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

129

Nam về khả năng góp vốn, năng lực tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm quản lý và
có điều kiện tạo nhiều việc làm.
Đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động trong các tình
huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước ngoài ở khu vực Đông
á, ASEAN vào các dự án mà họ có nhiều kinh nghiệm và thế mạnh như chế biến
nông sản, sản xuất hàng xuất khẩu, dịch vụ…cần tăng cường thu hút mạnh đầu
tư nước ngoài từ các nước công nghiệp phát triển như Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật
Bản nhằm tranh thủ tiềm lực về tài chính, công nghệ, kỹ thuật hiện đại, nâng cao
tiềm lực kinh tế và năng lực cạnh tranh của nên kinh tế.
Đối với dự án đầu tư theo chương trình của Chính phủ, các dự án trọng điểm của
các Bộ, ngành, UBND và Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh, các tổ chức
kinh tế Việt Nam có liên quan cần tổ chức đấu thầu lựa chọn đối tác thực hiện dự
án theo quy định của Quy chế đấu thầu và Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng.
Đối với các dự án khác, tuỳ tình hình cụ thể có thể sử dụng các phương thức
thích hợp để xác định, lựa chọn được các đối tác đầu tư đáp ứng được yêu cầu.
3.2.2. Giải pháp về cải cách thủ tục hành chính.

Để làm cho công tác thẩm định thêm tiện lợi, nhanh chóng và chính xác, cần đẩy
nhanh hơn nữa tiến độ cải cách thủ tục hành chính, khắc phục sự trì trệ trong các
cơ quan quản lý nhà nước, đơn giản hoá các thủ tục hành chính theo nguyên tắc
“một cửa”, “một đầu mối”, nhất là thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Khi tiến hành thẩm định dự án, các cơ quan cần tiến hành đồng thời, nếu
chấp nhận chẳng hạn về quyền sử dụng đất cần phải tiến hành giải phóng mặt
bằng ngay để khi nhận được giấy phép đầu tư có thể đưa dự án vào thực hiện.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

130

Các cơ quan phụ trách hợp tác và đầu tư là cơ quan duy nhất tiếp nhận hồ sơ và
giải quyết các công việc tiếp theo, đồng thời thay mặt nhà đầu tư đi liên hệ với
các cơ quan hữu quan rồi trả lời cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho
họ khi đăng ký. Về hồ sơ đăng ký cấp giấy phép đầu tư, các cơ quan chức năng
phải thông báo công khai các loại giấy tờ cần có, riêng các loại dự án có tỷ lệ
xuất khẩu từ 80% trở lên và một số lĩnh vực khác do Bộ Kế hoạch và Đầu tư
công bố, nhà đầu tư phải đăng ký theo mẫu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nên
chăng cần tiến tới tiêu chuẩn hoá và thống nhất hoá thủ tục cấp giấy phép đầu tư
từ địa phương đến trung ương và phổ biến rộng rãi các tiêu chuẩn ấy trong và
ngoài nước. Về lâu dài, cần thiết phải xây dựng một cơ chế cấp giấy phép và
quản lý thông tin phù hợp với các chuẩn mực khu vực và quốc tế để đảm bảo
tính minh bạch rõ ràng và tính cạnh tranh trong môi trường đầu tư Việt Nam.
3.2.3. Giải pháp về nâng cao chất lượng khai thác, xủ lý và lưu trữ thông tin .
Thông tin là một yếu tố rất quan trọng để tiến hành công tác thẩm định và là điều
kiện tiên quyết để lựa chọn được những dự án đầu tư có chất lượng tốt. Do đặc
trưng của các đối tác nước ngoài là rất đa dạng về đặc điểm, hoàn cảnh địa lý và
môi trường nên việc khai thác, thu thập thông tin phục vụ cho công tác thẩm
định là một công việc hết sức tốn kém về công sức, tiền bạc và thời gian. Thông
tin có thể thu thập ở rất nhiều nguồn, tuy nhiên không phải nguồn tin nào cũng

đáng tin cậy.Nên tìm hiểu các thông tin một cách chính thống qua các cơ quan
đại diện ngoại giao, thương mại kinh tế của Việt Nam ở nước ngoài, các ngân
hàng, các công ty kiểm toán tư vấn đầu tư trong và ngoài nước. Ngoài ra, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cũng có thể đa dạng hóa nguồn thông tin từ các bạn hàng của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

131

đối tác để nắm được tình hình tài chính, quan hệ thanh toán, tư cách , uy tín và
năng lực của nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với đó là việc thuê các công ty kiểm
toán có uy tín xác định tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cần thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý nhà
nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đẩy mạnh
quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ tư vấn quốc tế để có nguồn
thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật và vận động đầu tư. Bên
cạnh đó, thiết lập và duy trì mối quan hệ lâu dài với các đối tác cũng là một
trong những giải pháp không kém phần hiệu quả để giải quyết vấn đề thiếu hụt
thông tin. Việc thiết lập được mối quan hệ lâu dài sẽ giảm chi phí và thời gian
thu thập thông tin, chưa kể đến thông tin thu thập được chắc chắn sẽ có tính
chính xác cao hơn.
Trong phạm vi quốc gia, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động phức tạp,
liên quan đến thẩm quyền và trách nhiệm của những cơ quan quản lý khác nhau.
Vì vậy để tạo được nguồn thông tin tốt cho công tác thẩm định cần có sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước ở các cấp. Vấn đề then chốt là nhằm
đảm bảo duy trì chế độ báo cáo định kỳ theo quy định. Ngoài chế độ báo cáo
thống kê theo quy định chung của nhà nước, các Sở kế hoạch và đầu tư cần có
báo cáo và thông tin nhanh về tình hình đầu tư nước ngoài trên địa bàn để Bộ Kế
hoạch và Đầu tư kịp thời nắm bắt và xử lý các vấn đề phát sinh.
Những năm gần đây, chúng ta đã có một bước nhảy vọt trong ngành viễn thông,

trong mạng thông tin kinh tế giúp cho việc khai thác thông tin được nhanh chóng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

132

và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có một định huớng cụ thể, chưa
có một hoạch định đúng đắn để mạng thông tin toàn cầu phục vụ đắc lực và tối
đa cho các cơ quan cần nắm bắt thông tin như cơ quan thẩm định. Vấn đề mấu
chốt hạn chế việc khai thác mạng thông tin toàn cầu này là giá cước truy nhập,
cước viễn thông quốc tế của chúng ta còn cao mặc dù trong thời gian gần đây
cũng đã có sự điều chỉnh giảm giá cước. Thiết nghĩ Tổng cục bưu điện cần tiếp
tục có những cải tiến nhằm đạt tới một mức giá chung bằng các nước trong khu
vực và trên thế giới để thông tin có thể đến được những đối tượng có nhu cầu
một cách hiệu quả và ít tốn kém hơn.
Để có được nguồn thông tin tốt thì vấn đề lưu trữ và xử lý thông tin cũng hết sức
quan trọng. Với sự giúp đỡ của công nghệ tin học, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần
xây dựng và không ngừng hoàn thiện những phương pháp thu thập, phân tích ,
xử lý và lưu trữ thông tin có hiệu quả. Trung tâm thông tin của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã và đang là một nguồn cung cấp thông tin quan trọng phục vụ không
nhỏ cho công tác của Bộ. Tuy nhiên cũng cần phải cải tiến hơn nữa hoạt động
của đội ngũ nhân viên trong việc khai thác và xử lý các thông tin trên mạng máy
tính, đồng thời nâng cấp hệ thống máy tính để khai thác có hiệu quả hơn nguồn
thông tin cả về số lượng và chất lượng.
3.2.4. Giải pháp về xây dựng một quy trình thẩm định hợp lý.
Khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thẩm định dự án là thực hiện các
công việc thẩm định. Để thực hiện tôt khâu này cần phải có một quy trình thực
hiện thẩm định hợp lý, khoa học. Do nhiệm vụ tổng quát của công tác thẩm định
dự án là: Thứ nhất: phân tích đánh giá tính khả thi của dự án về các mặt. Thứ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


133

hai: đề xuất kiến nghị với nhà nước liệu chấp nhận hay không chấp nhận dự án.
Tức công việc thứ nhất chủ yếu là xem xét đánh giá chuyên môn, công việc thứ
hai là lựa chọn phương án và điều kiện phù hợp nên để công tác thẩm định được
cặn kẽ và chính xác, việc tổ chức thẩm định dự án nên chia các thành viên tham
gia thẩm định thành hai khối:
+ Khối chuyên môn: gồm các cơ quan chuyên môn hoặc chuyên gia có trình độ
chuyên môn cao liên quan đến nội dung dự án.
+ Khối quản lý: gồm các cơ quan hoặc chuyên gia về quản lý (ngành, l•nh thổ)
có hiểu biết chung về chuyên môn nhưng có thể không sâu về chuyên ngành.
Đối với khối tư vấn về chuyên môn, có thể có các cách sử dụng tư vấn sau:
. Thành lập nhóm chuyên gia: bao gồm các chuyên gia làm việc tại các Bộ, sở
quản lý chuyên ngành, có thể có thêm vài chuyên gia độc lập từ các viện nghiên
cứu, trường đại học bên ngoài. Trong những trường hợp cần thiết, nhóm chuyên
gia này có thể chia thành các tiểu ban chuyên môn để thực hiện đánh giá theo
từng nôị dung chuyên môn. Ví dụ: tiểu ban công nghệ, tiều ban xây dựng, tiểu
ban kinh tế…
. Các tư vấn độc lập trong và ngoài nước: đó là các tổ chức hoặc cá nhân có trình
độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực có liên quan. Các tổ chức tư vấn hoặc
chuyên gia này làm nhiệm vụ phản biện toàn bộ hoặc từng phần dự án theo
chuyên đề.
Tuỳ thuộc nội dung, tính chất dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể trình
người có thẩm quyền quyết định thành lập Nhóm chuyên gia hoặc chọn tư vấn
phản biện để tiến hành thẩm định các dự án. Cách thức sử dụng tư vấn chuyên
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×