Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Đề tài: Phân tích tình hình kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông nghiệp tại thành phố Đà Nẵng docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.7 KB, 57 trang )

BÁO CÁO THỰC TẬP
Đề tài:
Phân tích tình hình kinh doanh ngoại tệ
tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông nghiệp tại thành phố Đà Nẵng
Trang:
1
MỤC LỤC
BÁO CÁO THỰC TẬP 1
Đề tài: 1
Phân tích tình hình kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông nghiệp tại
thành phố Đà Nẵng 1
MỤC LỤC 2
PHẦN I 3
PHẦN II 15
TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN VND 42
PHẦN III 44
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với xu hướng phát triển kinh tế thị trường trên thế giới bất kỳ một nước nào
đều phải có quan hệ mua bán , giao dịch , cho vay , thu nợ , đầu tư vốn với các nước khác
. Thực hiện các mối quan hệ trên đã dẫn đến hình thành các quan hệ về tiền tệ , tài chính
quốc tế .
Ngày nay các quan hệ tài chính , tiền tệ quốc tế đã trở thành một yếu tố không thể
thiếu được trong hoạt động của nền kinh tế & ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế thị trường . Kết quả thực hiện các mối quan hệ trên hình thành các khoản thu
chi tiền tệ quốc tế giữa các nước với nhau . Để thực hiện tốt các khoản thu chi tiền tệ
quốc tế cần thiết phải thông qua những tổ chức trung gian đó là các ngân hàng thương
mại . Quá trình thực hiện các khoản thu chi tiền tệ quốc tế giữa các nước với nhau nhất
thiết phải sử dụng tiền tệ nước này hay nước khác , nói chung là ngoại tệ . Chính vì điều
này đã làm cho nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng trở nên quan trọng & và
không thể thiếu trong kinh doanh của ngân hàng


Bên cạnh đó kinh doanh mua bán ngoại tệ là một nghiệp vụ đem lại lợi nhuận cho
NH , đồng thời đadạng hóa được ngoại hình kinh doanh , nâng cao chất liệu trong việc
cung cấp dịch vụ đối với khách hàng .
Chính vì tầm quan trọng của loại hình kinh doanh này & sau quá trình thực tập ,
tìm hiểu tham khảo nên trong chuyên đề này em xin được phép trinhf bày & phân tích về
tình hình kinh doanh ngoại tệ trong một ngân hàng .
Được sự cho phép của Ngân hàng N
o
&PTNT thành phố Đà Nẵng cộng với sự giúp đỡ
của các anh chị trong phòng kinh tế đối ngoại . Bên cạnh đó dưới sự hướng dẫn tận tình
của thầy giáo tiến sĩ Nguyễn Văn Lê chuyên đề đã được hoàn thành với 3 phần :
Phần I : Tổng Quan Về Hoạt Động Kinh Doanh Ngoại Tệ Của NHTM
Phần II : Phân Tích Tình Hình Mua Bán Ngoại Tệ NHN
o
&PTNT Thành Phố
ĐN Giai Đoạn 2002-2003 .
Phần III Tổng Hợp Đánh Giá Quá Trình Kinh Doanh & Những Ý Kiến Đề Xuất .
Trang:
2
Do năng lực bản thân còn hạn chế nên chuyên đề này vẫn còn nhiều sai sót . Em
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp , chỉ dẫn để chuyên đề được hoàn thiện hơn
& làm kinh nghiệm cho bản thân .
Em xin chân thành cảm ơn !
PHẦN I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Trang:
3
I . NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NGHIỆP VỤ
KINH DOANH NGOẠI TỆ.

1 . Ngân Hàng Thương Mại :
1.1 Khái niệm :
Theo luật các tổ chức tín dụng ban hành ngày 12.12.1997 thì Ngân Hàng Thương Mại là
một tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân Hàng & các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan .
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân Hàng với nội
dung chủ yếu , thường xuyên là nhận tiền gởi , sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung cấp các dịch vụ thanh toán
1.2 Đặc điểm về hoạt động kinh doanh
+ Vốn bằng tiền vừa là phương tiện kinh doanh , vừa là mục đích kinh doanh và
đồng thời cũng là đối tượng kinh doanh
+ Sử dụng vốn của người khác để kinh doanh là chủ yếu và hoạt động kinh doanh
trên nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau
+ Một trong những sản phẩm chủ yếu của ngân hàng là tín dụng
+ Giữa các sản phẩm của ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ mang tính liên đới , hoặc
bổ sung hoặc thay thế
+ Hoạt động thống nhất trong hệ thống , giữa các ngân hàng có quan hệ chặt chẽ trong
kinh doanh , vừa phải cạnh tranh , vừa phải liên kết .
+ v v…
1.3 Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân Hàng Thương Mại (NHTM)
- Nghiệp vụ huy động vốn :
Trang:
4
+ Vốn huy động là vốn của các chủ sỡ hữu khác nhau trong xã hội được Ngân
Hàng huy động với trách nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo đúng thỏa thuận . Vốn
huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng ngưồn vốn của Ngân Hàng
Vốn huy động của các NHTM được phân làm 3 nhóm như sau :
+ Vốn huy động từ tiền gởi : đây là hình thức huy động thường xuyên của ngân
hàng . Căn cứ theo đối tượng tiền gởi người ta chia thành :
Tiền gởi của các tổ chức kinh tế

Tiền gởi của các tổ chức tín dụng
Tiền gởi của kho bạc nhà nước
Tiền gởi của cá nhân
Vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá : Đây là một dạng huy động không thường
xuyên , NH chỉ huy động khi thiếu vốn , bao gồm : chứng chỉ tiền gởi ngắn hạn (kỳ
phiếu) và chứng chỉ tiền gửi dài hạn (trái phiếu NH)
Vốn huy động từ đi vay
Bao gồm : + Vay NH nhà nước
+ Vay các tổ chức tín dụng
- Nghiệp vụ cho vay :
Đây là nghiệp vụ đặc trưng nhất của NHTM , sử dụng phần lớn nguồn vốn của
NH , tạo ra thu nhập chủ yếu cho NH và đồng thời cũng hàm chứa khả năng rủi ro lớn .
Căn cứ vào thời hạn cho vay thì nghiệp vụ cho vay của NH có thể chia thành :
. Cho vay ngắn hạn : Thời hạn dưới 1 năm
. Cho vay trung hạn : Thời hạn từ 1 đến 5 năm
. Cho vay dài hạn : Thời hạn trên 5 năm
- Các nghiệp vụ khác
+ Nghiệp vụ thanh toán trung gian : Đây là nghiệp vụ chủ yếu thường xuyên nhất
của một NHTM
+ Nghiệp vụ bảo lãnh (Bảo lãnh tín dụng , mở L/C) nghiệp vụ này không sử dụng
nhiều vốn của NH nhưng đem lại thu nhập rất lớn cho NH .
+ Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ : Là một trong những nghiệp vụ kinh doanh đem lại
cho NH nhiều lợi nhuận . Mục đích của hoạt động mua bán ngoại tệ là để đáp ứng nhu
cầu về ngoại tệ của khách hàng một cách nhanh chóng và thuận lợi nhất , nâng cao chất
lượng trong việc cung cấp dịch vụ đối với khách hàng , thu lợi nhuận từ chênh lệch tỷ giá
mua bán .
2 . Các Nghiệp Vụ Mua Bán Ngoại Tệ :
Trang:
5
2.1 Nghiệp vụ mua bán giao ngay (spot)

• Nghiệp vụ mua bán giao ngay là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà việc giao
ngoại tệ được thực hiện ngay hay chậm nhất là trong vòng hai ngày làm việc
kể từ khi hợp đồng mua bán ngoại tệ được ký kết trên cở sở tỷ giá giao ngay .
Trong nghiệp vụ , thời gian tối đa để hoàn tất nghiệp vụ là 2 ngày làm việc . Sở dĩ
có 2 ngày làm việc là do thông lệ quốc tế trong mua bán ngoại hối thì 2 ngày làm việc là
khoản thời gian cần thiết để thực hiện các bút toán chuyển tiền giữa các ngân hàng
• Để tiến hành nghiệp vụ hối đoái giao ngay , các nhà kinh doanh hối đoái phải
xác định tỷ giá chéo phù hợp với yêu cầu giao dịch , sau đó trên cơ sở tỷ giá
này kết hợp với lượng ngoại tệ giao dịch để xác định số đối khoản cần phải
trao đổi với nhau giữa 2 bên mua bán vào ngày hiệu lực thông thường
2.2 Nghiệp vụ chuyển hối :
Arbitrage là một kỹ thuật nghiệp vụ rút ra từ nghiệp vụ hối đoái giao ngay . Kỹ
thuật này nhằm giao dịch trực tiếp ngoại tệ với ngoại tệ mà không thông qua b tệ . Để
tiến hành nghiệp vụ này người kinh doanh cần phải xác định rõ :
+ Những tỷ giá chéo cần được xác định ?
+ Trị giá khoản tiền cần được áp dụng là bao nhiêu ?
+ Nếu còn dư thì giải quyết theo tỷ gia nào ?
+ Có lợi hơn so với việc xác định tỷ giá thông qua bản ngoại tệ không ?
Thực chất của kỹ thuật Arbitrage là tận dụng sự chênh lệch giữa tỷ giá của các ngoại tệ là
khác nhau để tiến hành giao dịch trực tiếp ngoại tệ với nhau . Người ta chỉ giao dịch qua
bản tệ đối với bộ phận ngoại tệ dư (hoặc thiếu) mà thôi .
Có 2 loại Arbitrage
+ Chuyển hối thông thường : là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ để chuyển từ đồng
tiền này sang đồng tiền khác .
+ Chuyển hối đầu cơ hay còn gọi là nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỷ giá .
Thực chất là lợi dụng sự chênh lệch giá của đồng tiền trên những thị trường khác nhau để
kiếm lời.
2.3 Nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn .(Forward)
* Nghiệp vụ hối đoái có kỳ hạn là nghiệp vụ biểu hiện bằng một hợp đồng giữa một
bên là ngân hàng và một đối tác khác nhằm đổi một loại tiền này lấy một loại tiền khác

tại một thời điểm khác trong tương lai nhưng các dữ kiện như tỷ giá , loại tiền , số
lượng , ngày hiệu lực đều đã được hai bên xác định cụ thể vào lúc k hợp đồng
Trang:
6
Hợp đồng kỳ hạn có ưu điểm là đáp ứng được của cả hai bên về quy mô giao dịch
lẫn ngày tiến hành hoán đổi . Nhưng nhược điểm của loại hợp đồng này là không được
hủy bỏ đơn phương . Do vậy đây không phải là hợp đồng mang tính linh hoạt và dễ bán
* Tỷ giá trên thị trường có kỳ hạn được xác định căn cứ trên cung và cầu của ngoại tệ
trái với tỷ giá hối đoái trao ngay , không có dự định giá cho giao dịch có kỳ hạn . Tỷ giá
có kỳ hạn được xác định ngay khi thỏa thuận , dựa vào tỷ giá giao ngay về các đồng tiền
đó trừ đi hay cộng thêm vào phần chênh lệch giữa lãi đi vay phải trả và lãi cho vay sẽ
nhận được trên số ngày cụ thể của kỳ hạn .
Nếu gọi ký hiệu :
x
*
: Tiền gởi có kỳ hạn
x : Tỷ giá giao ngay
m : Tỷ giá mua
b : Tỷ giá bán
n : Số ngày
t : Lãi suất (% năm)
1 : Đồng tiền yết giá
2 : Đồng tiền định giá
v : Vay
cv : Cho vay
t
1
v
: Lãi suất đi vay của đồng tiền yết giá
t

2
cv
: Lãi suất cho vay của đồng tiền định giá
Tính x
m
*
(Tiền gởi mua có kỳ hạn) A/B
Giả sử 1 công ty có 1 đơn vị tiền tệ A sau n ngày nữa
Ký hợp đồng n +1A
Công ty đến NH bán có kỳ hạn n ngày 1 đơn vị A lấy B . NH đồng ý mua theo tỷ giá mua
có kỳ hạn ngày (x
m
*
)
 3 giao dịch cùng thực hiện một lúc
• Công ty sẽ đi vay 1 số tiền XA để sao cho sau n ngày với lãi suất t
1
cv
, công ty
sẽ trả vốn gốc và lãi đúng bằng 1 đơn vị tiền tệ A
Trang:
7
An
cv
1*
36000
*XX
t
1
=+


AX
t
cv
*
36000
1
1
1
+
=
∞ Công ty sẽ bán XA để lấy đồng tiền B theo x
m
. Công ty được
)(*
36000
*
1
1
1
B
n
x
t
m
cv
+
∞ Công ty cho vay lượng tiền B có được trong n ngày với lãi suất
t
v

2


1A
Trả nợ
& lãi vay

x
m
*

n
nn
t
x
t
x
t
x
v
m
cv
m
cv
m
*
36000
**
36000
*

1
1
*
36000
*
1
1
2
11
*
+
+
+
=

n
nnn
n
n
t
tttx
t
tx
x
cv
cvvcv
m
cv
v
m

m
*36000
)***36000(
*36000
)36000*(
1
121
1
2
*
+
−++
=
+
+
=

n
nn
t
tt
xx
cv
cvv
mm
*36000
**
*
1
12

+

+=

x
m

Chênh lệch TG mua có kỳ hạn
với TG mua giao ngay
∞ Ngược lại hoàn toàn với trên ta cũng tính được:

n
n
t
t
t
xxx
v
v
cv
bbb
*36000
*)
*
1
1
2
*
(
+


+=

x
b


Trang:
8

0
>∆

x
bm
Điểm gia tăng

0
<∆

x
bm
Điểm khấu trừ
Với nghiệp vụ này nhà kinh doanh có thể tính toán trước hiệu quả kinh tế của từng
nghiệp vụ đồng thời tránh được rủi ro do sự biến động tỷ giá .
2.4 Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (swap)
Nghiệp vụ swap là một nghiệp vụ kết hợp đồng thời giữa các giao dịch mua (bán)
ngoại tệ giao ngay với các giao dịch bán (mua) ngoại tệ có kỳ hạn cho cùng một khoản
ngoại tệ nhất định
Swap : Spot : mua Với cùng 1 lượng

Forward : bán ngoại tệ
Swap : Spot : bán Với cùng 1 lượng
Forward : mua ngoại tệ
Nghiệp vụ swap có thể đáp ứng nhu cầu đầu tư kinh doanh bằng các lại ngoại tệ
khác nhau cho các nhà kinh doanh , nhưng vẫn tránh được rủi ro do sự biến động của tỷ
giá hối đoái và đảm bảo một mức lợi nhuận dự kiến tối đa
Với các ngân hàng thì nghiệp vụ swap thường được sử dụng để kiếm lợi nhuận và
bảo toàn vốn
Tính chất của swap được xem như là vay đồng thời . Ngân quỹ của ngân hàng và
khách hàng (ngân hàng khác , công ty ) đều không thay đổi . Phần chênh lệch khi thanh
toán là do sự chênh lệch của lãi suất .
2.5 Nghiệp vụ mua bán quyền chọn (option transaction)
• Option ngoại tệ là hợp đồng cho phép người mua quyền nhưng không bắc buộc
, được mua bán một số lượng ngoại tệ nhất định ở một mức giá xác định trong
(vào) một thời gian xác định trước .
• Có hai loại quyền chọn:
Quyền chọn mua (call option): là hợp đồng quyền chọn cho phép người
mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc được mua một số lượng ngoại tệ nhất định ở
một mức giá xác định vào một thời gian được xác định trong tương lai .
Trang:
9
Quyền chọn bán (put option): là hợp đồng quyền chọn cho phép người mua
nó có quyền nhưng không bắt buộc được bán một số lượng ngoại tệ nhất định ở một mức
giá xác định vào một khoảng thời gian được xác định trước trong tương lai .
• Có 2 kiểu quyền chọn :
Quyền chọn kiểu châu Âu: chỉ cho phép người mua quyền sử dụng quyền
của mình trong một ngày nhất định
Quyền chọn kiểu Mỹ: cho phép người mua quyền được sử dụng quyền
trong khoảng thời gian hiệu lực của hợp đồng
• Hợp đồng option ngoại tệ cho phép người mua quyền giới hạn tối đa thiệt hại

của mình nếu tỷ giá không tăng như dự đoán . Nhưng đối với người bán thì
không giới hạn được tổn thất nếu xảy ra rủi ro về tỷ giá .
3 . Các Rủi Ro Có Thể Trong Kinh Doanh Ngoại Tệ :
Những rủi ro trong kinh doanh ngoại hối là :
+ Rủi ro về tỷ giá hối đoái
+ Rủi ro về tỷ lệ Swap
+ Rủi ro thực hiện hợp đồng
+ Rủi ro nghiệp vụ và chuyển đổi
Trong số các trường hợp nêu trên chỉ có rủi ro tỷ giá là rủi ro đặc trưng cho kinh
doanh ngoại hối . Còn các rủi ro khác cũng xuất hiện trong các nghiệp vụ khác của ngân
hàng đặc biệt là rủi ro thực hiện và rủi ro tỉ kệ Swap (rủi ro lãi suất) . Nhưng rủi ro trong
chuyển đổi cũng quan trọng không chỉ trong kinh doanh ngoại hối . Đương nhiên những
rủi ro vừa nêu trên có ý nghĩa quan trọng trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối hơn là
những nghiệp vụ ngân hàng khác , vì những ngân hàng kinh doanh ngoại hối phụ thuộc
một phần vào sự phát triển ở nước ngoài và như vậy , khó tập hợp và khó kiểm tra hơn là
những rủi ro tương ứng ở trong nước .
3.1 Rủi ro tỷ giá hối đoái
Rủi ro tỷ giá hối đoái là sự rủi ro có ý nghĩa rộng lớn của nghiệp vụ kinh doanh
ngoại hối . Nó sẽ xuất hiện , nếu một “vị thế” được tạo ra , ví dụ : một ngân hàng mua
của một khách hàng hay của một ngân hàng khác một lượng USD với tỷ giá nào đó , thì
cho đến lúc bán lại khối lượng này , ngân hàng mới hết lo lắng về rủi ro tỷ giá . Rủi ro chỉ
tồn tại trong khoảng thời gian mà “vị thế” này tồn tại , nhưng nó cũng quan trọng ngay cả
khi khoảng thời gian giữa lúc hình thành và khóa sổ “vị thế” này , thậm chí chỉ trong
vòng một phút .
Khi chỉ có một biến động nhỏ về tỷ giá thì điều đó , đã dẫn đến hậu quả của một
thất thoát lớn , nếu khối lượng ngoại tệ kinh doanh nhiều . Nếu tỷ giá USD , khi bán ra
giảm xuống thì ngân hàng này sẽ thiệt hại . Nếu giả sử , ngân hàng vẫn giữ khoảng này
thêm qua đêm thì rủi ro còn lớn hơn nữa . Mối nguy hiểm và thiệt hại này không hề phụ
thuộc vào hệ thống tỷ giá hối đoái , tức là bất kể đồng tiền này được thả nổi hay theo tỷ
Trang:

10
giá hối đoái cố định . Thật ra , biến động hàng ngày của tỷ giá đồng USD đã mở rộng
nhiều trong giai đoạn chuyển sang cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi , thế nhưng trong hệ
thống tỷ giá hối đoái cố định lại có rủi ro khác , đó là tăng hoặc giảm giá trị hối đoái của
đồng tiền .
Nhằm tránh thất thoát quá mức , từ lâu các ngân hàng đã áp dụng hạn mức hình
thành các “vị thế” cho các phòng kinh doanh ngoại hối . Mức độ của giới hạn này phụ
thuộc vào doanh số hoạt động của ngân hàng , khả năng chấp nhận rủi ro và lòng tin vào
khả năng kinh doanh của người điều hành kinh doanh ngoại hối.
3.2 Rủi ro tỷ lệ swap .
Rủi ro tỷ lệ Swap trở nên quan trọng , nếu “vị thế” thời hạn với khối lượng kinh
doanh đã thỏa thuận xong . Nhưng thời hạn thanh toán thì chưa chấm dứt . Nếu , ví dụ
một ngân hàng mua 5 triệu USD theo 3 tháng và bán theo thời hạn 4 tháng , thì 2 khoản
này về giá trị là bằng nhau nhưng thời hạn thì lại không đồng nhất . Điều đó có nghĩa là ,
ở đây không có rủi ro về tỷ giá , nhưng lại có rủi ro về tỉ lệ Swap , tức rủi ro sẽ nảy sinh
vào cuối tháng 3 , nếu “vị thế” này được hình thành qua thực hiện một nghiệp vụ Swap
mà tỉ lệ Swap lại phát triển không thuận lợi .
Rủi ro tỉ lệ Swap có ý nghĩa , một mặt trong nghiệp vụ ác-bít về tỷ giá thời hạn về
mặt khác , là trong nghiệp vụ khách hàng . Trong giao lưu với khách hàng , các ngân
hàng thường phải ký kết các nghiệp vụ thời hạn với thời hạn “vòng” , tức là những thời
hạn mà lúc đó , thị trường không hoạt động . Sau đó các ngân hàng ký thực hiện nghiệp
vụ đối ứng với thời hạn tiếp theo trong thị trường và khắc phục những bất đồng về thời
điểm , bằng cách ký các hợp đồng Swap ngắn hạn và luân chuyển (ví dụ Swap theo ngày)
.
Khi hạch toán , các ngân hàng thường căn cứ vào tình hình lức ký kết nghiệp vụ
thời hạn . Theo nguyên tắc , các ngân hàng cũng dự tính một khoảng an toàn nhất định ,
nhưng khi xét đến góc độ cạnh tranh , ngân hàng không thể dự tính khoảng an toàn lớn
được .
3.3 Rủi ro thực hiện :
Với mỗi một nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối do ngân hàng ký kết , luôn xuất hiện

rủi ro do bên đối tác không thực hiện trách nhiệm của họ và hậu quả là hoạt động này sẽ
kết thúc bằng lỗ . Giả sử một ngân hàng bán cho một khách hàng hay một ngân hàng
khác 5 triệu với tỷ giá USD/DEM là 2,8005 và mua lượng này từ một ngân hàng khác
theo tỉ giá USD/DEM là 2,8 . Sau khi đã ký kết hợp đồng với người mua thì người mua
bị phá sản và không thể thực hiện được trách nhiệm của mình . Tỉ giá của USD/DEM trên
thị trường lại hạ xuống còng 2,75 . Ngân hàng đã mua 5 triệu USD theo tỉ giá 2,8 nhưng
không bán tiếp theo tỉ giá này được và phải chịu một khoản lỗ là 250.000 DEM , mà
không thể xem chỉ với lượng này cũng có thể làm cho ngân hàng bị phá sản . Nhưng trên
nguyên tắc , ngân hàng chỉ phải trả lại một phần .
Rủi ro thực hiện trong nghiệp vụ có thời hạn lớn hơn là nghiệp vụ giao ngay do
thời gian thực hiện dài . Điều này xảy ra không chỉ trong giao dịch chuyển đổi với khách
hàng mà cả với các ngân hàng khác . Trong giao dịch với các ngân hàng , rủi ro xuất hiện
ở dạng “ngoại tệ bù trừ rủi ro” , có một phạm vi lớn hơn so với nghiệp vụ với khách hàng
Trang:
11
. Vì trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối giữa các ngân hàng , hai hoạt động , mua và
bán được thực hiện ở các địa điểm khác nhau , nên hai đối tác trong hợp đồng khi phân
chia nhiệm vụ thanh toán không biết được liệu bạn hàng có thực hiện trách nhiệm của họ
hay không .
Như vậy , rủi ro thực hiện phụ thuộc vào uy tín thanh toán của bạn hàng , người ta
thường gọi rủi ro này là rủi ro uy tín thanh toán hoặc rủi ro mất địa chỉ .
Các ngân hàng xử lý vấn đề rủi ro thực hiện này (tức là rủi ro uy tín và khả năng
thanh toán) bằng cách chọn lựa kỹ bạn hàng , quy định hạn mức song phương cho khối
lượng ngoại hối giao dịch , cũng như trong giao lưu với khách hàng đòi hỏi một khoản
bảo hiểm theo tỷ lệ phần trăm nhất định thường là 20% so với doanh số giao dịch trong
hợp đồng.
3.4 Rủi ro kinh doanh .
Kinh doanh ngoại hối trong nghĩa rộng , bao gồm cả rủi ro thuộc chính bản thân
hoạt động kinh doanh , tức là chi phí liên quan đến hoạt động kinh doanh này không thể
bù đắp đủ bằng doanh thu . Trên nguyên tắc , các giao dịch thường có thu nhập cao và

những chi phí cho thiết bị văn phòng thường lớn , tức là những chi phí cho “back
office” , những chi phí tất toán nghiệp vụ và giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh
ngoại tệ . Nếu không có nhiều khách hàng giao dịch và hoạt động đầu cơ , hay hoạt động
ác-bít không suôn sẻ thì ngân hàng giao dịch này có thể sẽ phải gánh chịu tổn phí rất tốn
kém cho hoạt động này .
II . THỊ TRƯỜNG NGOẠI TỆ LIÊN NGÂN HÀNG &
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NGOẠI TỆ CỦA
NGÂN HÀNG.
1. Thị Trường Ngoại Tệ Liên Ngân Hàng .
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thuộc ngân hàng Nhà nước Việt Nam được
chính thức thành lập từ ngày 20/9/1994
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do ngân hàng Nhà nước (NHNN) tổ chức và
điều hành , nhằm hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các ngân hàng
thương mại với nhau , làm cơ sở cho việc ra đời thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt
Nam .
Các thàn viên tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng phải là hội sở chính
của các tổ chức tín dụng được phép kinh danh ngoại tệ , có hệ thống thông tin nội bộ nối
mạng với NHNN Việt Nam . Và cuối cùng để trở thành thành viên của thị trường này thì
cần phải có giấy phép tham gia do thống đốc NHNN cấp . Đối với các tổ chức khác chưa
có giấy phép thì không được quyền tham gia trực tiếp . mà chỉ gián tiếp tham gia thông
qua ngân hàng phục vụ cho mình .
Hiện nay, các thàn viên được tham gia vào thị trường này bao gồm : Ngân hàng
thương mại quốc doanh , ngân hàng đầu tư và phát triển , ngân hàng thương phần , chi
nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động ở Việt Nam , ngân hàng liên doanh giữa ngân
Trang:
12
hàng Việt Nam với ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam , ngân hàng nhà nước
Việt Nam .
Phương thức giao dịch trên thị trường ngoai tệ liên ngân hàng được thực hiện bằng
một trong các phương tiện sau : điện thoại , telex , fax hay qua mạng vi tính .

Đồng tiền giao dịch bao gồm : USD , EUR , GBP , JPY , HKD , VND
Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ bao gồm 3 loại sau :
+ Nghiệp vụ giao ngay – SPOT
+ Nghiệp vu có kỳ hạn – FORWARD
+ Nghiệp vụ hoán đổi – SWAP
Tỷ giá giao dịch được thực hiện trên cơ sở tỷ giá chính thức của NHNN và biên độ
do thống đốc NHNN quy định . Trên cơ sở này , giám đốc sở giao dịch NHNN quy định
tỷ giá mua , bán cỉa NHNN với các thành viên của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng .
Mọi việc thanh toán đều thông qua phương thức thanh toán chuyển khoản qua các
tài khoản của các thành viên mở tại NHNN hoặc tại ngân hàng nước ngoài
Việc mua bán thị trường được thực hiện theo các nguyên tắc sau :
+ Các ngân hàng thương mại được thực hiện mua bán ngoại tệ với các khách
hàng của mình theo quy chế hiện hành . Việc cân đối cung cầu ngoại tệ trong toàn hệ
thống được thực hiện thông qua hội sở chính của từng ngân hàng thương mại .
+ Trường hợp ngân hàng thương mại không tự cân đối được cung cầu ngoại tệ
trong hệ thống của mình , thì các ngân hàng thương mại thực hiện mua bán với nhau .
+ Nếu các ngân hàng thương mại đã thực hiện mua bán với nhau nhưng vẫn chưa
cân đối được nhu cầu ngoại tệ , thì ngân hàng thương mại sẽ giao dịch với ngân hàng Nhà
nước . Khi cung lớn hơn cầu ngoại tệ NHNN sẽ tiến hành việc mua bán ngoại tệ nhằm
cân đối cung cầu ngoại tệ và làm tăng quỹ điều hòa ngoại tệ của nhà nước . Ngược lại
nếu cung nhỏ hơn cầu , NHNN sẽ sử dụng quỹ điều hòa ngoại tệ để bán ra .
Nhờ vậy , trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng . NHNN thực hiên vai trò là
người mua , người bán cuối cùng để can thiệp vào thị trường một cách có hiệu quả , có
nhằm thực hiện chính sách tiền tệ , tỷ giá của Nhà nước .
Trong những năm qua , hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt
Nam đã được những kết quả đáng ghi nhận . Nó đã đáp ứng được một phần nhu cầu
ngoại tệ cho nhập khẩu , góp phần ổn định tỷ giá , khuyến khích xuất khẩu . Tuy nhiên
thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của Việt Nam còn rất nhiều hạn chế như : các nghiệp
vụ giao dịch còn đơn giản , chủng ngoại tệ còn ít , chưa phản ánh được thực trạng tổng
cung , tổng cầu ngoại tệ trong nền kinh tế . Tóm lại , thị trường ngoại tệ liên ngân hàng

chỉ mới là tiền thân của thị trường ngoại hối ở Việt Nam .
2 . Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Mua Bán Ngoại Tệ Của Ngân Hàng .
Trang:
13
Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ của ngân hàng có rất nhiều rủi ro . Bản thân ngoại tệ
cũng luôn tiềm ẩn nhiều biến động , nên hoạt động kinh doanh ngoại tệ chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan như : Tỷ giá , nhu cầu ngoại tệ của doanh
nghiệp , tâm lý , hoạt động xuất nhập khẩu , lãi suất của đồng ngoại tệ , chính sách quản
lý ngoại hối , lượng ngoại tệ dự trữ , tính cạnh tranh v v…
- Hoạt động mua bán ngoại tệ luôn gắn liền với vấn đề tỷ giá . Có thể xem tỷ giá là
yếu tố đầu tiên tác động trực tiếp đến hoạt động mua bán ngoại tệ của chi nhánh . Nếu tỷ
giá có xu hướng tăng (đồng ngoại tệ lên giá) thì cung ngoại tệ sẽ nhỏ hơn cầu ngoại tệ .
Bởi vì ai cũng muốn mua ngoại tệ sớm và người có ngoại tệ lại không muốn mua bán
sớm , do vậy hoạt động mua ngoại tệ trở nên khó khăn . Ngược lại , khi tỷ giá hối đoái
giảm (đồng ngoại tệ xuống giá) thì hoạt động mua ngoại tệ của ngân hàng sẽ trở nên dễ
dàng hơn và hoạt động mua bán ngoại tệ trở nên khó khăn .
- Nhu cầu ngoại tệ của doanh nghiệp : phần lớn hoạt động mua bán ngoại tệ của
ngân hàng là phục vụ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu . Hoạt động xuất nhập khẩu
của các doanh nghiệp này thường có tính thời vụ cao , nên hoạt động mua bán ngoại tệ
của ngân hàng cũng ít nhiều có tính thời vụ
- Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ mà ngân
hàng không thể kiểm soát được , đó là yếu tố tâm lý . Nếu trước đây người dân Việt Nam
thường dùng vàng làm phương tiện cất trữ thì ngày nay người ta thường thích cất trữ
bằng ngoại tệ mạnh (đặc biệt là USD) hơn là trữ vàng . Do vậy , khi có một điều bất
thường xảy ra (như khủng bố , chiến tranh , thiên tai …) làm cho tỷ giá biến động thì họ
thường hành động theo số đông , cùng bán ra hoặc cùng mua vào ngoại tệ . Điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động mua bán ngoại tệ của các ngân hàng . Mặt khác , người
dân Việt Nam vẫn còn thói quen giao dịch mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do , nên
hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng .
- Hoạt động mua bán ngoại tệ còn bị quản lý , kiểm soát chặt chẽ bởi cở chế

quản lý ngoại hối do Nhà nước ban hành . Đồng thời các chi nhánh ngân hàng còn phải
tuân theo quy định về trạng thái ngoại tệ hằng ngày của ngân hàng trung ương .
Trang:
14
PHẦN II
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG MUA BÁN
NGOẠI TỆ NGÂN HÀNG N
o
& PTNT ĐÀ NẴNG
GIAI ĐOẠN 2002 – 2003
Trang:
15
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG SAU 5 NĂM
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN (1997 - 2002 ).
Sau 5 năm trở thành đơn vị trực thuộc Trung ương, tình hình kinh tế - xã hội Thành
phố Đà Nẵng có sự chuyển biến rõ rệt, thể hiện:
- Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn ( GDP ) thời kỳ 1997 – 2001 tăng bình quân
10,09%/năm. Năm 1998 đạt 8,80%; năm 1999 đạt 9,50%; năm 2000 đạt 9,88%; năm
2001, năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 – 2005, trong tình hình có nhiều khó
khăn, nền kinh tế thành phố tiếp tục ổn định và phát triển với tốc độ tăng trưởng đạt
12,2%. GDP bình quân đầu người năm 2001 đạt 550 USD tăng 10,37% so với năm 1997.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Tỷ trọng ngành Công nghiệp tăng
từ 35,31% năm 1997 lên 42% năm 2001; ngành Dịch vụ giảm từ 54,99% năm 1997
xuống còn 50,71% năm 2001; ngành Nông nghiệp giảm từ 9,70% năm 1997 xuống còn
7,28% năm 2001.
- Giá trị sản xuất Công nghiệp trên địa bàn tăng bình quân hàng năm 19,74%, trong
đó Công nghiệp địa phương tăng 11,94%. Đặc biệt năm 2001, Công nghiệp trên địa bàn
Thành phố tăng trưởng khá, đạt giá trị sản xuất toàn ngành 4.037,78 tỷ đồng, vượt 3,83%
kế hoạch năm, tăng 19,89% so với năm 2000. Khu vực Công nghiệp quốc doanh địa
phương, Công nghiệp dân doanh tăng trưởng khá ( Công nghiệp quốc doanh địa phương

tăng 29,17%, Công nghiệp dân doanh tăng 18,40%).
- Giá trị sản xuất Thuỷ sản – Nông lâm tăng bình quân hàng năm trong thời kỳ 1997
– 2001 là 5,76%, trong đó thuỷ sản tăng 13,37%. Năm 2001, ngành Thuỷ sản – Nông lâm
đạt giá trị sản lượng 526,2 tỷ đồng, vượt 6,3% kế hoạch năm, tăng hơn 5% so với năm
2000. Sản lượng hải sản khai thác năm 2001 đạt 30.480 tấn, tăng 10,2% so với năm 2000.
Thành phố hiện có trên 2000 tàu thuyền các loại với tổng công suất trên 6000 CV. Dự án
đánh bắt xa bờ đang phát huy được tác dụng. Việc nuôi trồng thuỷ sản, nhất là nuôi tôm
công nghiệp có kết quả bước đầu.
Trang:
16
- Giá trị sản xuất các ngành du lịch dịch vụ tăng bình quân hàng năm 7,31%. Năm
2001, tổng mức lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ vượt 6%. Khoa học – Công nghệ, tăng
1,32% so với năm 2000. Hoạt động du lịch có khởi sắc, tổng số khách năm 2001 tăng
19,7% so với năm 2000, trong đó khách quốc tế tăng 10,9%.
- Tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.560 tỷ đồng, tăng 26,22% so với dự toán.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 1. 014,4 triệu USD, tăng bình quân hàng năm
17,1%. Năm 2001, tuy tình hình chung khó khăn, nhưng kim ngạch xuất khẩu của Thành
phố vẫn đạt 269,52 triệu USD, tăng 14,5% so với năm 2000. Thị trường xuất khẩu mở
rộng đến 65 quốc gia và vùng lãnh thổ.
- Công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong các năm qua được Thành phố đặc
biệt quan tâm và đã đạt được nhiều kết quả. Thành phố đã tích cực huy động mọi nguồn
lực cho đầu tư phát triển, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng nhanh hàng năm, phần
lớn những mục tiêu, những công trình trọng điểm đều thực hiện được, đặc biệt là các
công trình giao thông, giáo dục y tế, hạ tầng các khu dân cư,… Bộ mặt đô thị ngày càng
khởi sắc, hệ thống giao thông nội thị được chú trọng đầu tư hoàn thiện. Phương châm
‘Nhà nước và nhân dân cùng làm’ phát huy được tác dụng, thể hiện sự đồng tâm, hiệp lực
của mọi tổ chức, đoàn thể, nhân dân vì một thành phố ngày càng văn minh hiện đại
( đóng góp của nhân dân bằng tiền, bằng đất đai, vật liệu kiến trúc giải toả với giá trị trên
120 tỷ đồng ).
- Tổng vốn đầu tư tập trung trên địa bàn trong 5 năm 1997 – 2001 đạt 8.858 tỷ đồng,

tăng bình quân hành năm gần 20%. Năm 2001, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt
1.498,72 tỷ đồng, tăng 16,64% so với năm 2000, có 50 công trình hoàn thành đưa vào sử
dụng. Tổng vốn đầu tư xã hội đạt 3.357 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với năm 2000.
- Các ngành điện lực, bưu chính viễn thông, cảng,… không ngừng phát triển. Số
máy điện thoại phát triển nhanh, đạt bình quân 13,8 máy/100 dân; tổng số thuê bao
Internet là 2.696 thuê bao, chiếm 1,6% tổng thuê bao toàn quốc.
- Bên cạnh đó, thực hiện chiến lược phát triển chung của đất nước và khu vực miền
Trung, một số công trình lớn do TW đầu tư đã và đang được TW triển khai xây dựng trên
địa bàn Thành phố Đà Nẵng và khu vực miền Trung như: đường Hồ Chí Minh, hầm
đường bộ qua đèo Hải Vân, mở rộng nâng cấp cảng Tiên Sa gắn với dự án hành lang
Đông - Tây,… đã tạo nên khí thế và triển vọng mới cho Thành phố.
Như vậy, với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện nay, thì nhu cầu vốn cho nền kinh
tế của Thành phố trong thời gian tới là rất lớn, muốn đáp ứng được tốc độ tăng trưởng
kinh tế bình quân hàng năm hơn 10% thì tốc độ tăng trưởng vốn tương ứng vào khoảng
30 – 40 %, điều này đòi hỏi các ngân hàng phải nỗ lực hơn nữa trong huy động và cho
vay, làm cho ngân hàng thực sự là một nơi cung ứng vốn chủ yếu và hiệu quả, để làm
được điều này, hệ thống ngân hàng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng nói chung và mạng
lưới NHNo&PTNT nói riêng phải không ngừng mở rộng quy mô, đa dạng hoá đối tượng
và sản phẩm, nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu về vốn của các dự án, các
ngành nghề, tạo mối quan hệ lâu dài và bền vững với khách hàng trong cho vay và huy
động, để ngân hàng thực sự là một kênh cung ứng vốn quan trọng và hiệu quả của kinh tế
Thành phố.
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ
NHNo& PTNT THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.
Trang:
17
1. Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển.
Chi nhánh NHNo&PTNT Thành phố Đà Nẵng được thành lập năm 1988 với tên gọi
lúc bấy giờ là Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, nhằm thực hiện cơ
chế mới chuyển từ ngân hàng một cấp sang ngân hàng hai cấp, nhằm tách bạch chức

năng quản lý với chức năng kinh doanh.
Năm 1991, tại quyết định số 66/NH – QĐ, ngày 21/4/1991 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước thành lập thêm Sở giao dịch III – Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam
đóng tại Đà Nẵng làm nhiệm vụ quản lý và điều hoà vốn cho 11 tỉnh khu vực Miền trung
và Tây nguyên. Lúc này trên địa bàn có hai chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp
Việt Nam:
+ Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng với nhiệm vụ
kinh doanh tiền tệ trên địa bàn tỉnh.
+ Sở giao dịch III –Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam tại Đà Nẵng làm nhiệm vụ
kiểm tra việc chấp hành các chủ trương chính sách cúa NHNN và NHNo VN thuộc phạm
vi 11 tỉnh Miền trung và Tây nguyên.
Tại quyết định số 267/QĐ –HĐBT, ngày 19/10/1992 của Chủ tịch Hội đồng quản trị
NHNo VN đã sát nhập Chi nhánh NHNo tỉnh QNĐN vào Sở giao dịch III – NHNo VN
tại Đà Nẵng; như vậy Sở giao dịch III – NHNo VN tại Đà Nẵng vừa có nhiệm vụ quản
lý, điều hoà vốn cho khu vực Miền trung và Tây nguyên, vừa trực tiếp kinh doanh Ngân
hàng trên địa bàn tỉnh QNĐN.
Năm 1997, tỉnh QNĐN được chia tách thành hai đơn vị hành chính trực thuộc
Trung ương đó là Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, phạm vi hoạt động của sở
giao dịch III – NHNo VN tại Đà Nẵng theo đó cũng thu hẹp lại trong phạm vi Thành phố
Đà Nẵng.
Năm 1998, NHNo&PTNT VN thành lập thêm chi nhánh NHNo&PTNT VN TP Đà
Nẵng, như vậy trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng cùng lúc có hai đơn vị thành viên trực
thuộc NHNo&PTNT Việt Nam đó là Sở giao dịch III – NHNo VN tại TP Đà Nẵng và
Chi nhánh NHNo&PTNT TP Đà Nẵng.
Năm 2000, tại quyết định số 424/HĐBT – TCHC, ngày 26/10/2000 của Chủ tịch
Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam, về việc “hợp nhất Sở giao dịch III – NHNo
VN tại TP Đà Nẵng và Chi nhánh NHNo&PTNT TP Đà Nẵng thành Chi nhánh
NHNo&PTNT TP Đà Nẵng và mở Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hải Châu trực thuộc
Chi nhánh NHNo&PTNT TP Đà Nẵng“.
Hiện nay, Chi nhánh NHNo&PTNT TP Đà Nẵng đóng trụ sở tại 23, Phan Đình

Phùng, TP Đà Nẵng có 6 Chi nhánh Ngân hàng Quận, Huyện trực thuộc gọi là Chi nhánh
cấp II loại 4 là: Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn và Hoà Vang
cùng với 7 Chi nhánh cấp II loại 5 là: Chi nhánh Chợ Mới, Chi nhánh Ông Ích Khiêm,
Chi nhánh Đống Đa, Chi nhánh Chợ Cồn, Chi nhánh Chi Lăng, Chi nhánh Trần Cao
Vân, và Chi nhánh An Đồn.
2. Chức Năng Và Nhiệm Vụ.
a. Chức năng.
Chi nhánh NHNo&PTNT TP Đà Nẵng là một doanh nghiệp Nhà nước đóng trên
địa bàn Thành phố Đà Nẵng, thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng
với các chức năng sau:
+ Trực tiếp kinh doanh theo phân cấp của NHNo&PTNT VN.
+ Tổ chức điều hành kinh doanh và kiểm tra kiểm toán nội bộ theo uỷ quyền của
Tổng giám đốc NHNo&PTNT VN.
Trang:
18
+ Thực hiện các nhiệm vụ được giao theo lệnh của Tổng giám đốc NHNo&PTNT
VN
b. Nhiệm vụ.
+ Huy động vốn: Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng
VNĐ và ngoại tệ; phát hành kỳ phiếu và trái phiếu,…
+ Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ đối với tổ chức
kinh tế, đối với các cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
+ Kinh doanh ngoại hối: Huy động, cho vay, mua bán ngoại tệ và thanh toán quốc
tế.
+ Kinh doanh dịch vụ: Chuyển tiền điện tử, thu chi hộ tiền…
+ Cân đối, điều hoà vốn đối với các chi nhánh NHNo&PTNT trực thuộc trên địa
bàn.
+ Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của
NHNo&PTNT Việt Nam.
+ Làm dịch vụ cho NHNN.

+ Thực hiện công tác tổ chức cán bộ, đào tạo, thi đua khen thưởng theo phân cấp uỷ
quyền của NHNo&PTNT Việt Nam.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam giao.
+ Thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
3. Cơ Cấu Tổ Chức Và Bộ Máy Quản Lý.
a. Cơ cấu tổ chức.
Sơ đồ bộ máy tổ chức.

Quan hệ trực tuyến.
Quan hệ chức năng.
Trang:
19
Các ngân hàng cơ sở
Các phòng giao dịch
Giám đốc
P. giám đốc P. giám đốc P. giám đốc
Phòng
Tín
dụng
doanh
nghiệp
Phòng
Tín
dụng
dân
doanh
Phòng
DV và
chăm
sóc

KH
Phòng
Thông
tin điện
toán
Phòng
kế
toán
tổng
hợp
Phòng
Kinh
doanh
đối
ngoại
Phòng
tổ
chức
hành
chính
Phòng
kiểm
tra
nội
bộ
nộI bộ

Phòng
kế
toán

ngân
quỹ
b. Chức năng, nhiệm vụ của mỗi bộ phận.
b.1. Ban giám đốc: gồm 4 người; 1 giám đốc và 3 phó giám đốc:
+ Giám đốc phụ trách chung, đồng thời phụ trách chuyên đề tổ chức cán bộ và kiểm
tra kiểm toán nội bộ.
+ Một phó giám đốc: Phụ trách kế toán và hành chính.
+ Một phó giám đốc: Phụ trách kinh doanh.
+ Một phó giám đốc: Phụ trách kế hoạch và thông tin điện toán.
b.2. Các phòng ban tại ngân hàng.
+ Phòng kế toán ngân quỹ: Có nhiệm vụ chuyên sâu các hoạt động hạch toán kinh
doanh và thu chi tiền mặt, gồm các bộ phận: Hạch toán kinh doanh, thanh toán tiền hàng,
bù trừ, chuyển tiền qua ngân hàng, thu chi và quản lý an toàn kho quỹ.
+ Phòng tín dụng dân doanh: Thực hiện các hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất.
+ Phòng tín dụng doanh nghiệp: Thực hiện các hoạt động tín dụng đối với doanh
nghiệp.
+ Phòng kinh doanh đốI ngoại: Thực hiện các hoạt động thanh toán quốc tế, mua
bán ngoại tệ.
+ Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ: Có nhiệm vụ kiểm soát các hoạt động trong nội
bộ ngân hàng.
+ Phòng thông tin điện toán: Xây dựng các chương trình điện toán nhằm phục vụ
cho công tác kinh doanh, báo cáo thống kê của ngành.
+ Phòng dịch vụ và chăm sóc khách hàng:
+ Phòng tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ tham mưu về công tác đào tạo, bố trí cán
bộ và phục vụ hậu cần trong kinh doanh.
+ Phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp: Nghiên cứu xây dựng kế hoạch kinh
doanh, thực hiện phương án.
III. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH MUA BÁN NGOẠI TỆ TẠI NHNo&PTNT
TP ĐÀ NẴNG GIAI ĐOẠN 2002 – 2003.
1. Tình Hình Mua Bán ̣̣ Ngoại Tệ Của NHN

o
& PTNT Trong Hai Năm Qua:
Mua bán ngoại tệ là một trong nhiều hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hoạt
động này cũng đem lại một phần thu nhập đáng kể cho các ngân hàng. Mục đích chính
của hoạt động này là nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng một cách
nhanh chóng và thuận lợi nhất, từ đó nâng cao chất lượng phục vụ và uy tín cho ngân
hàng.
Sau đây là tình hình mua bán ngoại tệ của NHN
o
& PTNT ĐN giai đoạn 2002 -
2003:
Bảng 1: DOANH SỐ MUA BÁN NGOẠI TỆ NHN
o
ĐN
ĐVT: 1000 USD
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003
So sánh
Mức độ tăng
(giảm)
Tốc độ tăng
(giảm)
Trang:
20
Doanh số mua ngoại tệ 40.975 53.275 + 12.300 + 30.0%
Doanh số bán ngoại tệ 37.775 50.675 + 12.900 + 34,1%
Qua bảng số liệu trên ta thấy doanh số mua bán ngoại tệ của Chi nhánh trong 2
năm qua tăng lên rất nhiều. Cả doanh số mua và doanh số bán ngoại tệ đều tăng lên, mức
độ tăng tốc độ tăng của hoạt động bán ngoại tệ có phần lớn hơn so với hoạt động mua.
Năm 2003 hoạt động mua ngoại tệ tăng 30% so với năm 2002 (tức tăng 12.300 nghìn
USD). Khi đó, hoạt động bán ngoại tệ tăng 34% (tức tăng 12.900 nghìn USD), sự tăng

lên này là do nhiều nguyên nhân gây ra.
Năm 2003 vừa qua là năm mà nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao trong khu vực (7,04%) và chỉ sau Trung Quốc. Với thành phố Đà
Nẵng thì năm 2003 là năm thành phố vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
(12,56%). Thu nhập người dân tăng lên, hoạt động SXKD trên địa bàn diễn ra sôi nổi,
kim ngạch nhập khẩu tăng so với năm 2002. Các khách hàng của Chi nhánh có hoạt động
XNK vẫn kinh doanh tốt.
Trong hai năm qua, thành phố đã thự hiện nhiều ưu đãi để thu hút đầu tư nước
ngoài như: ưu đãi về tiền thuê đất, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thủ tục đầu tư
dơn giản, chỉ qua một cửa … Nhờ đó đầu tư của nước ngoài vào Đà Nẵng tăng cao. Năm
2003 đầu tư nước ngoài vào Đà Nẵng đạt 300 triệu USD.
Sự tăng lên của hoạt động mua bán ngoại tệ của NHN
o
& PTNT ĐN còn do các
nguyên nhân khác như: Sự tăng giá của đồng USD, lãi suất USD giảm, lãi suất VND tăng
… các nguyên nhân này sẽ được phân tích kỹ ở phần sau.
2. Phân Tích Tình Hình Mua Ngoại Tệ Theo Đối Tượng:
a. Phân tích tình hình mua ngoại tệ theo đối tượng:
NHN
o
& PTNT ĐN mua ngoại tệ từ nhiều đối tượng khác nhau không phân biệt cá
nhân hay tổ chức, quốc doanh hay ngoài quốc doanh và không giới hạn số lượng. Các đối
tượng mua ngoại tệ có thể chia thành các nhóm đối tượng chủ yếu sau:
- Tổ chức kinh tế: chủ yếu là các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất
- Ngân hàng N
o
& PTNT VN: (Ký hiệu: NHN
o
& PTNTVN)
- Các cá nhân: kiều hối, khách du lịch quốc tế, dân cư.

BẢNG 2: TÌNH HÌNH MUA NGOẠI TỆ THEO ĐỐI TƯỢNG
ĐVT: 1000 USD
Đối tượng
Năm 2002 Năm 2003 So sánh
Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng
Mức độ
tăng
(giảm)
Tốc độ
tăng
(giảm)
Tổ chức kinh tế 24.500 59,8% 30.550 57,3% 6.050 + 24,7%
NHN
o
TW 10.700 26,1% 14.120 26,5% 3.420 + 32,0%
Cá nhân 5.775 14,1% 8.605 16,2% 2.830 + 49,0%
Tổng cộng 40.975 100% 53.275 100% 12.300 + 30,0%
Trang:
21
Qua bảng số liệu trên ta thấy, lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào từ 3 đối tượng
trên đều tăng lên trong 2 năm qua. Tuy tỷ trọng của mỗi loại có thay đổi trong từng năm
nhưng lượng ngoại tệ mua từ các tổ chức kinh tế vẫn luôn giữ tỷ trọng cao nhất (gần
60%). Vì vậy, các tổ chức kinh tế là đối tượng chủ yếu và quan trọng nhất trong hoạt
động mua ngoại tệ của Chi nhánh. Năm 2003 lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào từ
các tổ chức kinh tế tăng 24,7% (tức tăng 6.050 nghìn USD) so với năm 2002, sự tăng lên
này là do các nguyên nhân sau:
Tỷ lệ tăng giá USD/VND trong năm 2003 nhỏ hơn so với năm 2002. Nếu năm
2002 tỷ lệ tăng tỷ giá USD/VND là 3,9% tức tăng 570 đồng (từ 14.516 lên 15.083) thì tỷ
lệ tăng tỷ giá USD/VND trong năm 2003 chỉ là:2,1%, tăng 320 đồng (từ 15.083 lên
15.404). Như vậy, trong năm 2003 mức độ tăng giá của USD thấp hơn so với năm 2002.

Nhờ đó, các tổ chức kinh tế tin tưởng hơn vào chính tỷ giá của Nhà Nước. Họ không còn
tấm lý găm giữ ngoại tệ như các năm trước. Khi có ngoại tệ thu về từ hoạt động xuất
khẩu thì các tổ chức kinh tế cũng sẵn sàng bán cho Chi nhánh. Vì vậy mà doanh số mua
ngoại tệ từ các tổ chức kinh tế của Chi nhánh tăng lên trong năm 2003.
Các tổ chức kinh tế mà Chi nhánh mua ngoại tệ là các Công ty có hoạt động xuất
khẩu. Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu của thành phố trong năm 2003 giảm so với năm 2002
là 6,4%, nhưng lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào từ các tổ chức kinh tế vẫn tăng lên
rất mạnh. Như vậy, sự tăng lên này là do các khách hàng của Chi nhánh là các Công ty
mạnh trong hoạt động xuất khẩu. Trong năm 2003 vừa qua, mặc dù hoạt động xuất khẩu
của thành phố bị giảm sút, nhưng doanh số xuất khẩu các Công ty này vẫn tăng. Nhờ đó
mà doanh số mua ngoại tệ từ các tổ chức kinh tế của Chi nhánh vẫn tăng lên so với năm
2002.
Về phía NHN
o
& PTNT trong năm qua, tỷ giá mua chuyển khoản mà Chi nhánh
ấn định có nhiều lúc cao hơn so với các ngân hàng khác trên địa bàn. Để thấy rõ điều này,
chúng ta cần so sánh tỷ giá mua chuyển khoản USD của Chi nhánh với một ngân hàng
mạnh về kinh doanh ngoại tệ trên địa bàn Đà Nẵng, đó là Ngân hàng Ngoại thương Đà
Nẵng (VCB ĐN).
TỶ GIÁ MUA (CHUYỂN KHOẢN USD)
ĐVT: Đồng
Thời điểm NHN
o
ĐN VCB-DN
Mức cao hơn của
NHN
o
ĐN
01.01.03 15.083 15.083 0
01.02.03 15.124 15.124 0

01.03.03 15.141 15.141 0
01.04.03 15.193 15.193 0
01.05.03 15.223 15.223 0
01.06.03 15.225 15.225 0
01.07.03 15.296 15.273 23
01.08.03 15.326 15.325 1
01.09.03 15.331 15.330 1
01.10.03 15.346 15.344 2
01.11.03 15.364 15.362 2
Trang:
22
01.12.03 15.390 15.388 2
Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng vào nửa cuối năm 2003 tỷ giá mua USD chuyển
khoản của Chi nhánh thường cao hơn so với VCB-ĐN cũng như các ngân hàng khác trên
địa bàn. Nhờ đó mà NHN
o
ĐN đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đến bán ngoại tệ cho
Chi nhánh.
Bến cạnh đó, bản thân NHN
o
ĐN cũng đã có những nổ lực rất lớn để đa dạng hoá
các dịch vụ thanh toán quốc tế, rút ngắn thời gian thực hiện các nghiệp vụ thanh toán.
Nhờ đó mà quy mô hoạt động và uy tín NHN
o
ĐN ngày càng được mở rộng và nâng cao
… Từ đó Chi nhánh đã thu hút them được nhiều khách hàng là các tổ chức kinh tế có
hoạt động xuất khẩu đến với Chi nhánh.
Đối tượng tiếp theo trong hoạt động mua ngoại tệ của Chi nhánh là NHN
o
ĐN. Đây

là đối tượng quan trọng thứ hai trong hoạt động mua ngoại tệ của Chi nhánh. Lượng
ngoại tệ Chi nhánh mua từ NHN
o
VN luôn chiếm tỷ trọng cao thứ hai, chỉ sau các tổ chức
kinh tế. Trong hai năm qua lượng ngoại tệ Chi nhánh mua từ NHN
o
VN luôn chiếm hơn ¼
tổng lượng ngoại tệ mua vào của Chi nhánh. Bảng số liệu trên cho ta thấy, doanh số mua
ngoại tệ từ NHN
o
VN của NHN
o
ĐN trong năm 2003 tăng 32% so với năm 2002 (tức tăng
3.420 nghìn USD). Sự tăng lên này là do nhu cầu bán ngoại tệ của Chi nhánh trong năm
2003 tăng cao so với năm 2002 tăng 34,1%. Lượng ngoại tệ Chi nhánh mua vào từ các tổ
chức kinh tế khong đủ để Chi nhánh bán lại cho các đối tượng này. Vì vậy, Chi nhánh
phải tăng lượng ngoại tệ mua từ NHN
o
VN, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ bán ra. Việc Chi
nhánh mua ngoại tệ từ NHN
o
TW là nhằm cân đối trạng thái ngoại tệ cho Chi nhánh, từ đó
hạn chế được rủi ro về tỷ giá cho Chi nhánh. Điều này được giả thích như sau:
- Trong quá trình mua bán ngoại tệ, đôi khi khách hàng của Chi nhánh cần mua
một lượng ngoại tệ rất lớn, lớn hơn cả lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua được từ các
khách hàng khác. Để phục vụ tốt khách hàng, giữ khách và tạo uy tín cho mình Chi
nhánh cũng đồng ý bán cho khách hàng. Như vậy, để có đủ ngoại tệ bán cho khách hàng
một cách nhanh chóng và đầy đủ nhất thì ngoài lượng ngoại tệ mua vào Chi nhánh còn
phải lấy them ngoại tệ của mình để bán cho khách hàng. Sau khi bán như vậy, Chi nhánh
sẽ rơi vào tình trạng thiếu hụt ngoại tệ. Ở trạng thái này, rủi ro tỷ giá sẽ tiềm tàng đối với

Chi nhánh. Nếu tỷ giá tăng sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh ngoại tệ của Chi
nhánh.
Nhưng Chi nhánh không phải là một tổ chức đàu cơ mà là một tổ chức kinh doanh
tiền tệ, hoạt động với tư cách là một người trung gian mau đi bán lại ngoại tệ cho khách
hàng và qua đó thu lợi nhuận. Vì vậy, Chi nhánh luôn tìm mọi biện pháp hạn chế rủi ro
đến mức thấp nhất. Khi ở trạng thái thiếu hụt ngoại tệ thì Chi nhánh sẽ mua ngoại tệ từ
NHN
o
VN để cân bằng trạng thái ngoại tệ. Thong thường tỷ giá mua bán ngoại tệ mà
NHN
o
ĐN ấn định thường cao hơn hoặc bằng tỷ giá mua bán của NHN
o
VN. Nếu Chi
nhánh phải mua ngoại tệ từ NHN
o
TW, mà tỷ giá bán của NHN
o
TW sẽ bán ngoại tệ cho
Chi nhánh với giá thấp hơn tỷ giá bán NHN
o
VN công bố. Nhờ đó, Chi nhánh vẫn có lợi
từ sự chênh lệch tỷ giá.
Tóm lại, doanh số mua ngoại tệ của Chi nhánh với NHN
o
VN tăng lên trong năm
2003 là do nhu cầu bán ngoại tệ của Chi nhánh trong năm này tăng cao. Mục đích chính
của Chi nhánh trong việc mua ngoại tệ từ NHN
o
TW là để thực hiện căn bằng trạng thái

ngoại tệ.
Trang:
23
Đối tượng tiếp theo trong hoạt động mua ngoại tệ của Chi nhánh là các cá nhân.
Đối tượng này bao gồm kiều hối, khách du lịch quốc tế và dân cư. Bảng số liệu trên cho
thấy trong năm 2003 lượng ngoại tệ mà mà Chi nhánh mua vào từ các cá nhân đã tăng
49% so với năm 2002 (tức 2.830 nghìn USD). Sỡ dĩ như vậy là vì lượng ngoại tệ mà Chi
nhánh mua từ các câ nhân chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong tổng lượng ngoại tệ mua vào
của Chi nhánh. Trong hai năm qua tỷ trọng của lượng ngoại tệ mua từ các cá nhân chỉ
chiếm khoảng 15% tổng lượng ngoại tệ mua vào của Chi nhánh. Vì vậy lượng ngoại tệ
mua từ các cá nhân không phải là trọng tâm trong hoạt động mua ngoại tệ của Chi nhánh.
Sự tăng lên của lượng ngoại tệ mua từ các cá nhân cũng không ảnh hưởng nhiều đến tổng
lượng ngoại tệ mua vào của Chi nhánh. Sự tăng lên của lượng ngoại tệ này trong hai năm
qua là do các nguyên nhân sau:
- Sự tăng lên này trước hết là do lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua qua kiều hối
tăng mạnh so với năm 2002. Nếu năm 2002 lượng ngoại tệ mua qua kiều hối chỉ đạt mức
2.202 nghìn USD thì sang năm 2003 đã tăng lên mức 3.005 nghìn USD (tăng 36%).
Lượng ngoại tệ Chi nhánh mua từ kiều hối tăng chủ yếu là do lượng kiều hối từ nước
ngoài chuyển về qua Chi nhánh tăng mạnh trong năm 2003. Đối với Chi nhánh thì lượng
kiều hối từ Mỹ luôn chiếm tỷ trọng cao nhất (gần 50%). Những biến động của lượng kiều
hối từ Mỹ sẽ gây ra những biến động cho tổng lượng kiều hối chuyển về qua Chi nhánh.
Trong năm 2002, lượng kiều hối chuyển về từ Mỹ giảm mạnh, chủ yếu là do ảnh
hưởng của sự kiện 11/9. Cộng đồng người Việt tại Mỹ lo lắng hơn cho cuộc sống của họ,
nhất là khi chỉ số thất nghiệp của Mỹ tăng lên trên 5% vào các tháng cuối năm 2002.
Trong bối cảnh đó, số tiền họ gửi về cho người than ở trong nước đã giảm mạnh so với
bình thường. Sang năm 2003, ảnh hưởng của sự kiện 11/9 qua đi, nền kinh tế Mỹ có dấu
hiệu phục hồi trở lại. Do đó, lượng kiều hối chuyển về qua Chi nhánh trong năm 2003
tăng mạnh so với năm 2002. Tổng lượng kiều hối chuyển về qua Chi nhánh cũng tăng
lên. Lượng ngoại tệ Chi nhánh mua từ kiều hối cũng tăng theo.
Bên cạnh nguyên nhân trên thì tỷ giá cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho

lượng ngoại tệ Chi nhánh mua từ kiều hối và dân cư tăng lên trong năm 2003. Trong năm
2003, tỷ giá do NHNN công bố đã gần hơn so với thị trường tự do. Tỷ giá trên thị trường
tự do thường cao hơn từ 30 – 40đ so với tỷ giá của NHNN công bố. Vì vậy, tỷ giá do các
ngân hàng ấn định đã tiến gần hơn với tỷ giá trên thị trường tự do. Như đã nói ở phần
trước, tỷ giá mua chuyển khoản cũng như tỷ goá mua tiền mặt của NHN
o
ĐN công bố
thường cao hơn so với các ngân hàng khác trên địa bàn. Do vậy, khi nhận kiều hối nhiều
người đã bán trực tiếp cho ngân hàng chứ không bán cho thị trường tự do. Với tỷ giá như
trên thì Chi nhánh cũng đã thu hút được nhiều người dân đến bán ngoại tệ cho Chi nhánh.
Như đã nói ở phần trước, tỷ lệ tăng giá của USD so với VND trong năm 2002 là
tương đối thấp (chỉ 2,1%). Do đó, tâm lý găm giữ ngoại tệ trong dân chúng cũng không
còn. Mặt khác, trong năm 2002 vừa qua thì lãi suất huy động USD liên tục giảm trong
khi đó lãi suất huy động VND lại tăng cao. Khi lãi suất huy động USD thấp và tỷ lệ tăng
giá USD thấp thì nhiều người nhận thấy gửi tiết kiệm bằng USD không có lợi bằng gởi
tiết kiệm VND. Do đó, nhiều khách hàng cá nhân đã bán các khoản tiền gửi tiết kiệm
bằng USD cho Chi nhánh để chuyển sang gửi tiết kiệm bằng VND. Nhờ đó doanh số mua
ngoại tệ từ cá nhân được tăng lên.
Huy động mua ngoại tệ từ cá nhân của Chi nhánh còn được thực hiện tại các bàn
thu đổi ngoại tệ. Trong năm 2003, Chi nhánh đã mở rộng thêm mạng lưới bàn thu đổi
ngoại tệ tại chợ Hàn và Siêu thị Đà Nẵng. Mạng lưới các bàn thu đổi ngoại tệ được mở
Trang:
24
rộng sẽ giảm bớt tâm lý ngại đi xa, và giảm bớt thời gian chờ đợi của khách hàng. Nhờ
đó Chi nhánh có thể thu hút thêm được khách hàng cá nhân đến đổi ngoại tệ với Chi
nhánh.
Trong năm 2003 vừa qua, ngành du lịch của thành phố Đà Nẵng đã đạt mức tăng
trưởng khá cao (10,57%). Lượng khách du lịch quốc tế đến với thành phố trong năm
2003 cũng tăng cao so với năm 2002. Khách du lịch quốc tế khi có nhu cầu sử dụng VND
thì họ thường đến đổi ngoại tệ tại ngân hàng chứ không đến các tiệm vàng. Với quy mô

và uy tín của mình thì NHN
o
ĐN cũng đã thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế đến
đổi ngoại tệ tại Chi nhánh.
Các nguyên nhân trên đã giải thích rõ sự tăng lên của lượng ngoại tệ Chi nhánh
mua từ cá nhân trong hai năm qua. Nhưng tỷ trọng của lượng ngoại tệ này quá nhỏ nên
sự tăng lên của nó cũng không ảnh hưởng đến tổng lượng ngoại tệ mua vào của Chi
nhánh. Như vậy sự tăng lên của tổng lượng ngoại tệ mua vào của Chi nhánh trong hai
năm chủ yếu là do lượng ngoại tệ mua vào từ các tổ chức kinh tế và từ NHN
o
VN tăng
mạnh.
b. Phân tích tình hình mua ngoại tệ theo thời gian:
Việc phân tích tình hình mua ngoại tệ theo thời gian sẽ cho chúng ta thấy được sự
tăng lên và giảm xuống của doanh số mua ngoại tệ trong năm, từ đó thấy được tính thời
vụ trong hoạt động mua ngoại tệ của Chi nhánh. Lượng ngoại tệ mà Chi nhánh mua vào
theo từng quý thường có biến động khác nhau, bởi nó phụ thuộc vào tính thời vụ của chu
kỳ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trên địa bàn.
TÌNH HÌNH MUA NGOẠI TỆ THEO THỜI GIAN
ĐVT: 1.000 USD
Quý
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Doanh số
Tỷ trọng
(%)
Doanh số
Tỷ trọng
(%)
Doanh số
Tỷ trọng

(%)
I 4.700 14,4 7.425 18,1 8.780 16,5
II 9.750 29,8 12.750 31,1 15.130 28,4
III 10.700 32,7 11.500 28,1 17.365 32,6
IV 7.550 23,1 9.300 22,7 12.000 22,5
Tổng 32.700 100 40.975 100 53.275 100
Gọi d
i
là doanh số mua ngoại tệ bình quân của quý i (i = 1,4)
n
x
d
n
i
ij
i

=
=
1
x
ij
: Doanh số mua ngoại tệ trong quý i của năm j
j : j = 1,n (n: số năm nghiên cứu)
d
là doanh số mua ngoại tệ bình quân 4 quý trong năm
Trang:
25

×