Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU RỐI LOẠN NHỊP Ở BỆNH NHÂN CÓ HỘI CHỨNG NÚT XOANG BỆNH LÝ BẰNG HOLTER ĐIỆN TIM 24 GIỜ" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.73 KB, 6 trang )



115

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 57, 2010


NGHIÊN CỨU RỐI LOẠN NHỊP Ở BỆNH NHÂN CÓ HỘI CHỨNG NÚT
XOANG BỆNH LÝ BẰNG HOLTER ĐIỆN TIM 24 GIỜ
Trịnh Hồng Nhựt
Bệnh viện Đa khoa Đắk Lắk
Hoàng Viết Thắng, Huỳnh Văn Minh
Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
TÓM TẮT
Mục tiêu của bài viết nhằm nghiên cứu rối loạn nhịp ở bệnh nhân có hội chứng nút
xoang bệnh lý bằng Holter.
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 54 bệnh nhân có hội chứng nút xoang bệnh lý
(HCNXBL) tại Trung tâm Tim mạch – Bệnh viện Trung ương Huế. Tuổi trung bình 62,15
±
17,14,
HATT 129.49
±
24.12 mmHg, HATTr 75.66
±
11.67 mmHg, mạch 49.84
±
6.35 l/ph. Trong đó
có 15 bệnh nhân tăng huyết áp (THA), 21 bệnh nhân có thiếu máu cơ tim.
Sử dụng phương pháp cắt ngang, dùng Holter điện tâm đồ theo dõi liên tục 24 giờ (h).
Được kết quả sau: 37% HCNXBL có tuổi từ 60-70. Tỷ lệ phát hiện rối loạn dẫn truyền,
rối loạn nhịp tim ở bệnh nhân có HCNXBL rất cao. Tần suất gặp rối loạn dẫn truyền, rối loạn


nhịp trên thất, rối loạn nhịp thất, rối loạn nhịp nhĩ, rối loạn nhịp phức tạp (Lown 3-5) ở bệnh
nhân lớn tuổi gặp tỷ lệ rất cao. Khả năng phát hiện rối loạn nhịp và ST chênh bằng Holter điện
tâm đồ 24h cao hơn điện tâm đồ thông thường với P < 0,01. Rối loạn nhịp tim phức tạp ở bệnh
nhân có HCSNXBL có liên quan đến tuổi, tăng huyết áp (
χ

2
= 6,11; OR=4,91; p < 0,05), thiếu
máu cơ tim (
χ

2
= 3,98; OR=3,98; p < 0,5) so với rối loạn nhịp tim đơn thuần.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, Holter điện tim 24 giờ có giá trị trong chẩn đoán rối loạn
nhịp ở bệnh nhân có hội chứng nút xoang bệnh lý.

1. Đặt vấn đề
Hội chứng nút xoang bệnh lý là một rối loạn nhịp tim khá thường gặp (khoảng
50 – 60%) của rối loạn nhịp tim chậm, chiếm 0,3% trong dân số, 1/600 bệnh tim tuổi
già trên 65 tuổi, hơn 50% bệnh nhân đặt máy tạo nhịp ở Mỹ)
Holter điện tim đồ là phương tiện ghi lại điện tâm đồ liên tục trong 24 giờ.
Holter điện tâm đồ 24 giờ có lợi ích về nhiều mặt và rất có giá trị trong chẩn đoán rối
loạn nhịp tim. Tại Việt Nam, phương pháp Holter điện tâm đồ 24 giờ cũng được ứng
dụng từ năm 1997 và đã có một số nghiên cứu chủ yếu phát hiện rối loạn nhịp tim trong


116

nhịp tim chậm, bệnh nhân có HCNXBL. Nhưng tại Huế chưa có đề tài nghiên cứu về
bệnh nhân có HCNXBL. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục tiêu: Nghiên

cứu đặc điểm lâm sàng và tình trạng rối loạn nhịp tim ở bệnh nhân có HCNXBL.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu, mô tả cắt ngang.
2.2. Đối tượng
Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán HCNXBL và đồng ý tham gia nghiên cứu
vào điều trị tại Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Trung ương Huế, từ tháng 3 năm 2008
đến tháng 5 năm 2009.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu sau khi được khai thác về tiền sử, bệnh sử, khám lâm
sàng: đo huyết áp, đo chiều cao, đo cân nặng, làm nghiệm pháp Atropin, đếm mạch,
theo dõi và ghi nhật ký các triệu chứng lâm sàng trong suốt thời gian làm Holter điện
tâm đồ, làm điện tâm đồ, làm xét nghiệm sinh hóa, huyết học, siêu âm tim. Phân loại rối
loạn nhịp tim theo quy ước Minnesota 1982, phân loạn NTTT theo Lown. Xử lý số liệu
theo phần mềm Epi-info 6.0, Excel 2003.
4. Kết quả
4.1. Giới
Bảng 1. Phân bố bệnh nhân theo giới
Giới tính Số bệnh nhân Tỷ lệ
Nam 26 48,1 %
Nữ 28 51,9 %
Cộng 54 100 %
bệnh nhân nữ gặp nhiều hơn nam với (p > 0,05).
4.2. Tuổi

Biểu đồ 1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi


117


Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 62,2
±
17,1 tuổi, lứa tuổi hay gặp nhất 61
- 70 (37%).
4.3. Đặc điểm lâm sàng
Bảng 2. Tần suất biểu hiện triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Mệt 38 70.4
Hồi hộp 37 68.5
Đau tức ngực 31 57.4
Choáng váng 16 29.6
Đau đầu 14 25.9
Ngất 12 22.2
Mệt, hồi hộp, đau tức ngực là triệu chứng hay gặp trong HCNXBL.
4.4. Biểu hiện rối loạn nhịp tim trên điện tâm đồ
Bảng 3. So sánh những biểu hiện rối loạn nhịp tim và đoạn ST chênh lên ở điện tâm đồ
thông thường và Holter điện tâm đồ
Triệu chứng điện tim
điện tâm đồ
thường
điện tâm đồ
Holter
P
n Tỷ lệ n Tỷ lệ
- Ngừng xoang
- Blốc xoang nhĩ
- HC nhịp nhanh-nhịp chậm
- Nhịp bộ nối
- Rung nhĩ/ cuồng nhĩ
1

3
0
11
1
1,90%
5,60%
0
20,37%
1,90%
29
10
18
18
11
53,70%
18,50%
33,30%
33,30%
20,37%
P<0,01
P<0,05
P<0,01
P>0,05
P<0,01
- Nhịp nhanh thất
- Cơn nhịp nhanh trên thất
- Ngoại tâm thu thất
0
0
5

0
0
9,40%
17
20
35
31,48%
37,00%
64,81%
P<0,01
P<0,01
P<0,01
ST chênh xuống

1mm 6 11,11% 21 38,89% P<0,01
Nhận xét: Khả năng phát hiện bệnh lý rối loạn dẫn truyền và rối loạn nhịp tim và
suy vành trong HCNXBL bằng phương pháp Holter điện tâm đồ 24 giờ cao hơn điện
tâm đồ với P < 0,01.


118

5. Bàn luận
5.1. Đặc điểm về tuổi, giới
- Trong 54 bệnh nhân có 28 nữ (51,9%), 26 nam (48,1%), tỷ lệ nữ > nam. Tỷ lệ
này phù hợp với nghiên cứu của Shuman VA, nhưng theo DaviG có lẽ nam nữ bằng
nhau, Victor Adans nhận định cả 2 giới tương đương nhau. Trần Văn Huy, Trần Song
Giang thì gặp tỷ lệ nam nhiều hơn nữ. Tuổi trung bình 62,15
±
17,14, lứa tuổi hay gặp

nhất 61 – 70 (37%), điều này phù hợp với nghiên cứu của Strauss tuổi thường gặp 60 -
70, nhưng thấp hơn lứa tuổi hay gặp của Benditt là 65 - 75 tuổi, theo Trần Song Giang
là 30 - 60 tuổi.
5.2. Đặc điểm lâm sàng
- Tiền sử bệnh: tần suất các bệnh lý rối loạn nhịp tim kèm theo có 23 bệnh nhân
(42.6%), tăng huyết áp 15 bệnh nhân (27.8%), cơn đau thắt ngực ổn định 12 bệnh nhân
(7.4%), tiền sử bị nhồi máu cơ tim 3 bệnh nhân (5.6%), thiếu máu cơ tim 3 bệnh nhân
(5.6%), tiền sử bị ngất 12 bệnh nhân (22.2%). Tỷ lệ ngất của chúng tôi tương đương với
Trần Song Giang (20%) và Nguyễn Thị Hải Yến (16,8%) [1][4], Stauss (25%) và thấp
hơn Victor Adán và CS (50%), bởi lẽ Victor Adán và CS nhận định những triệu chứng
tiền ngất và ngất đều phản ánh cùng bệnh sinh và cảnh báo tiếp cận chẩn đoán như nhau
vì vậy tỷ lệ ngất trong nghiên cứu của tác giả cao hơn của chúng tôi [6].
- Triệu chứng lâm sàng: biểu hiện mệt xảy ra ở 38 bệnh nhân (70,4%), gián tiếp
thông qua tình trạng giảm tưới máu tim như hồi hộp 37 bệnh nhân (68,5%), đau tức
ngực 31 bệnh nhân (57,4%). Triệu chứng phản ánh gián tiếp thông qua giảm tưới máu
não như choáng váng 16 bệnh nhân (29,6%), đau đầu 14bệnh nhân (25,9%).
5.3. Rối loạn nhịp tim trên điện tâm đồ
- Nếu chỉ có làm điện tâm đồ thông thường sẽ bỏ sót 100% H.C nhịp nhanh–
nhịp chậm, về rối loạn nhịp thất bỏ sót 100% nhịp nhanh thất và bỏ qua 100% cơn
NNKPT/T [2][5]. Đồng thời bỏ sót rất nhiều trường hợp có ngừng xoang, blốc xoang
nhĩ, rung nhĩ và NTT thất. điện tâm đồ Holter còn giúp phát hiện các thiếu máu cơ tim
thầm lặng, trên điện tâm đồ thông thường chúng tôi chỉ phát hiện được 6 bệnh nhân
nhưng trên điện tâm đồ Holter 24h con số được phát hiện tăng lên tới 21 bệnh nhân. Kết
quả này rất có giá trị giúp cho chẩn đoán bệnh mạch vành, một trong bệnh chính gây
nên suy nút xoang và rối loạn dẫn truyền. Theo dõi điện tâm đồ Holter tại thời điểm đột
tử ở 157 trường hợp, Bayes de Luna A và cộng sự thấy 62,4% có nhịp nhanh thất dẫn tới
rung thất, 83% rung thất tiên phát, 12,7% bị xoắn đỉnh và 16,5% nhịp chậm. Đa số các
cơn nhịp nhanh thất, rung thất thường xuất hiện sau các rối loạn nhịp NTTT nặng và
nguy hiểm (độ IV- V theo phân loại của Lown). Như vậy khác với điện tâm đồ thông
thường, điện tâm đồ Holter giúp cho thấy được diễn biến của dòng điện tim liên tục 24h

nên cho phép khẳng định rối loạn nhịp chậm, phát hiện được nhiều dạng rối loạn nhịp


119

tim và rối loạn dẫn truyền nhất là các dạng nguy hiểm (độ IV và V của Lown) dễ gây
đột tử… và trên nhiều bệnh nhân hơn. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của
Manger và CS trên 200 bệnh nhân được làm điện tâm đồ thông thường và điện tâm đồ
Holter cho thấy rằng nếu chỉ làm điện tâm đồ thông thường sẽ bỏ sót 77% các trường
hợp bệnh nhân có NTTT nguy hiểm độ V, 88% NTTT độ IV và 90% NTTT độ III theo
phân loại của Lown [3].
6. Kết luận
Qua khảo sát Holter điện tim 24 giờ trên 54 bệnh nhân có hội chứng suy nút
xoang bệnh lý chúng tôi đi đến một số kết luận như sau:
6.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân có HCNXBL
- Hội chứng nút xoang bệnh lý gặp mọi lứa tuổi, hay gặp nhất tuổi từ 60 - 70
chiếm 37% và có một sự gia tăng theo tuổi.
- Các triệu chứng lâm sàng của hội chứng nút xoang bệnh lý thường gặp như:
mệt (70,4%), hồi hộp (68,5%), đau tức ngực (57,4%), cảm giác tim đập không đều
(42,7%), choáng váng (29,6%), đau đầu (25,9%), ngất (22,2%), cảm giác hụt hẩng
(14,8%), khó thở (14,8%) giảm trí nhớ (11,1%).
6.2. Đặc điểm rối loạn nhịp tim trên bệnh nhân có HCNXBL
- Bệnh nhân có HCNXBL biểu hiện: ngừng xoang 29 bệnh nhân (53,7%), blốc
xoang nhĩ 10 bệnh nhân (18,5%), HC nhịp nhanh nhịp chậm 10 bệnh nhân (18%), nhịp
thoát bộ nối 18 bệnh nhân (33,3%). Tỷ lệ rối loạn nhịp tim rất cao: NTTT (64,81%), cơn
nhịp nhanh trên thất (37%), nhịp nhanh thất (31,48%), ngoại tâm thu nhĩ (29,37%). Biểu
hiện một tỷ lệ rất cao về rối loạn nhịp tim nguy hiểm và phức tạp (46,3%).
- Trên bệnh nhân có HCSNXBL, Holter điện tâm đồ 24 giờ đã khắc phục được
những hạn chế của điện tâm đồ thông thường, phát hiện được nhiều bệnh nhân hơn,
nhiều rối loạn nhịp tim hơn so với điện tâm đồ thông thường với mức ý nghĩa thống kê

(P< 0,05).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thái Giang, Nghiên cứu rối loạn nhịp tim bằng Holter điện tim đồ 24 giờ ở bệnh
nhân tăng huyết áp có phì đại thất trái. Luận văn thạc sỹ Y học, Học viện Quân Y
(2004).
2. Thạch Nguyễn, Một số vấn đề cập nhật trong chẩn đoán và điều trị bệnh tim mạch,
Nhà xuất bản Y học (2007).


120
3. Nguyễn Tá Đông, Nghiên cứu rối loạn nhịp tim và thiếu máu cơ tim yên lặng ở bệnh
nhân đái tháo đường type II qua Holter điện tim 24 giờ, Luận án tiến sỹ Y học, Trường
Đại học Y Dược Huế (2008).
4. Nguyễn Thị Hải Yến, Nghiên cứu giá trị của Holter điện tim đồ trong chẩn đoán rối
loạn nhịp tim chậm, Luận văn thạc sỹ Y khoa, Học viện Quân Y, (2002).
5. Marriott H.J.L, SA reentry, block, and sick sinus syndrome, Advanced conceps in
arrythmias, Second edition, (1989), 105 – 119.
6. Victor Adán, M.D, Loren A. Crown, M.D. Diagnosis and treatment of sick sinus
syndrome, Angel medical center, Franklin, North Carolina (2008).

STUDY ON ARRHYTHMIAS IN PATIENTS WITH SICK SINUS SYNDROME
BY 24 HOURS - ECG HOLTER
Trinh Hong Nhut
Dak Lak General Hospital
Hoang Viet Thang, Huynh Van Minh
College of Medicine and Pharmacy, Hue University
SUMMARY
The aim of this note is to study arrhythmias in patients with sick sinus syndrome by 24-
hours ECG holter.

There are 54 patients who suffered from sick sinus syndrome by 24-hour ambulatory
electrocardiographic monitoring. The mean age of the patients with this condition is
62,15
±
17,14 years, and both sexes are approximately equally affected. 15 patients had
hypertension, 21 patients had ischemia-type ST segment depressions.
Applying the cross-sectional study design, we have obtained the following results: The
indicates sinus node dysfunction, supraventricular, ventricular arrhythmias and complex
ventricular arrhythmias (Lown grade 3-5) in old-aged patients were high. The indicates
arrhythmias and ischemia-type ST segment depressions by 24-hour ambulatory
electrocardiographic monitoring were higher in ECG (p < 0.01). 25 complex ventricular
arrhythmias patients are related to the age, arterial hypertensive (p < 0,05), ischemia-type ST
segment depressions (p < 0,5).
Base on this method, we conclude that the 24-hours ECG holter is useful in study
arrhythmias in patients with sick sinus syndrome.

×