Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ TRONG CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.14 KB, 7 trang )

TAP CHấ KHOA HOĩC, aỷi hoỹc Huóỳ, Sọỳ 47, 2008



QUYN BèNH NG CA PH N TRONG
CC BN HIN PHP VIT NAM
Mai Th Diu Thuý
Trng i hc Khoa hc, i hc Hu

TểM TT
Nh nc Vit Nam luụn ỏnh giỏ cao nhng cng hin ca ngi ph n i vi nhng
thng li chung ca dõn tc t xa n nay, coi ú l ngun nhõn lc di do v khụng th thiu
trong tin trỡnh phỏt trin ca t nc. ng v Nh nc luụn nhn thc sõu sc rng ph n
hon ton xng ỏng c hng quyn bỡnh ng vi nam gii trong mi lnh vc. Chớnh vỡ th,
ngay t bn Hin phỏp u tiờn ca t nc (Hin phỏp nm 1946), Nh nc ó ghi nhn
quyn cụng dõn núi chung v quyn bỡnh ng ca ph n núi riờng l mt trong nhng nguyờn
tc c bn ca Hin phỏp. Nguyờn tc ny tip tc c k tha v phỏt trin trong cỏc bn Hin
phỏp v sau, to ra khung phỏp lớ hon thin cho h thng phỏp lut Vit Nam, th hin rừ bn
cht u vit ca nn dõn ch mang tớnh nhõn vn ca Nh nc Vit Nam trong giai on hin
nay.

Lch s u tranh ca nhõn loi tin b núi chung v ph n núi riờng ó chng
minh sc mnh to ln ca nhu cu v quyn t do, bỡnh ng ca con ngi chng ỏp
bc, búc lt, xõy dng xó hi cụng bng, dõn ch v vn minh. Vỡ th, quyn con ngi
v quyn cụng dõn l mt trong nhng nhõn t quan trng bc nht ca mc tiờu v ng
lc phỏt trin kinh t xó hi ca bt kỡ mt quc gia no trờn th gii. Trong Hin phỏp
ca tt c cỏc nc dự thuc ch xó hi no, vn quyn con ngi, quyn cụng dõn
u c xỏc nh l ch nh quan trng ca mi bn Hin phỏp. õy c xem l nn
tng phỏp lớ c bn cho mi cụng dõn núi chung v n cụng dõn núi riờng thc hin cỏc
quyn t do, dõn ch ca mỡnh trờn c s s m bo ca nh nc.
Sau thng li ca Cỏch mng thỏng Tỏm nm 1945, Nh nc Vit Nam Dõn ch


Cng ho di s lónh o ng Cng sn Vit Nam v Ch tch H Chớ Minh ó tin
hnh xõy dng h thng phỏp lut mi. Ngay t Hin phỏp u tiờn (Hin phỏp nm
1946) quyn cụng dõn núi chung v quyn bỡnh ng ca ph n núi riờng ó c ghi
nhn thnh mt nguyờn tc c bn v c tip tc k tha trong cỏc bn Hin phỏp v
vn bn phỏp lut v sau.
Ngay trong li núi u ca Hin phỏp nm 1946, Nh nc ta ó xỏc nh mt
trong ba nguyờn tc c bn ca Hin phỏp l: on kt ton dõn khụng phõn bit ging
nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo”. Trên cơ sở đó, Điều 1 Hiến pháp năm 1946 khẳng định
”Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo”. Quy định này đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân
chủ, rút ngắn khoảng cách phân biệt đối xử giữa nam và nữ trên thực tế. Bên cạnh đó,
quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được Hiến pháp năm 1946 cụ thể hoá
tại Điều 6 như sau: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện:
chính trị, kinh tế, văn hoá” và tại Điều 7 như sau: “Tất cả công dân Việt Nam đều bình
đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài
năng và đức hạnh của mình”. Còn nội dung Điều 9 Hiến pháp năm 1946 khẳng định “đàn
bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân
tộc, quyền bình đẳng nam nữ đã được ghi nhận trong đạo luật có hiệu lực pháp lí cao nhất
của nhà nước. Chính nội dung qui định này đã tạo tiền đề pháp lí quan trọng cho những
thay đổi về địa vị của người phụ nữ trên văn bản pháp luật cũng như trong thực tiễn áp
dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền chính trị của công dân nữ, Điều 18 Hiến pháp năm
1946 quy định: “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai,
đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền”. Người
ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ
quốc ngữ. Tại Điều 20 của Hiến pháp năm 1946 quy định: “Nhân dân có quyền bãi miễn
các đại biểu mình đã bầu ra”. Ngoài ra, theo qui định tại Điều 21 Hiến pháp năm 1946
“Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc
gia” .

Bản Hiến pháp năm 1946 dù được ban hành đã trên 60 năm, trong bối cảnh nước
Việt Nam vừa thoát khỏi chế độ thực dân phong kiến, còn tồn tại những tàn dư của xã hội
cũ và những định kiến khắt khe với người phụ nữ nhưng nó vẫn chứa đựng nhiều nội
dung thực sự tiến bộ. Nội dung Hiến pháp năm 1946 không chỉ thể hiện thái độ trân
trọng, đánh giá đúng những đóng góp to lớn của phụ nữ mà còn thể hiện quan điểm kiên
quyết bảo vệ quyền lợi người phụ nữ của Đảng và Nhà nước ta. Nhất là khi so sánh với
Hiến pháp của một số quốc gia trên thế giới cũng như với pháp luật quốc tế giai đoạn
này, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn giá trị và ý nghĩa của những qui định về quyền
bình đẳng của phụ nữ trong Hiến pháp năm 1946.
Kế thừa những nội dung tiến bộ của Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã
có những điều luật qui định trực tiếp và cụ thể hơn quyền bình đẳng nam nữ và quyền
chính trị của phụ nữ. Tại Điều 22 và Điều 23 của Hiến pháp năm 1959 tiếp tục khẳng
định ”mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, “Công dân nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo tín
ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám
tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử, trừ những
người mất trí và những người bị toà án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử.”
Bên cạnh đó, để bảo đảm tính khả thi cho những quy định về quyền bình đẳng của
phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiến pháp năm 1959 đã bổ sung thêm một
số nội dung cụ thể như: Điều 24 Hiến pháp năm 1959 qui định: “phụ nữ nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Cùng làm việc như nhau, phụ nữ được hưởng lương
ngang với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được
nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của
người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà
nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”
Tại Điều 25 Hiến pháp năm 1959 ghi nhận: “công dân nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà không phân biệt nam nữ đều có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp,
lập hội và biểu tình. Nhà nước đảm bảo các điều kiện vật chất cần thiết để công dân được
hưởng các quyền đó.”

Với quan điểm kế thừa và phát triển, những qui định của Hiến pháp năm 1959 đã
góp phần tạo điều kiện để chị em phụ nữ trong giai đoạn này có những cơ hội nhất định
tham gia vào các hoạt động lao động, sáng tạo, vượt ra khỏi những trói buộc của gia đình
phong kiến và từng bước khẳng định chỗ đứng vững chắc trong hoạt động chính trị, kinh
tế, văn hoá và xã hội. Đồng thời, Hiến pháp năm 1959 cũng đã xác định rõ trách nhiệm
của Nhà nước trong việc đảm bảo tính khả thi đối với quyền bình đẳng của phụ nữ trong
thực tiễn cuộc sống.
Hiến pháp năm 1980 được Quốc hội khoá VI, kỳ họp thứ bảy thông qua ngày
18/12/1980 tiếp tục kế thừa và phát triển những qui định của Hiến pháp năm 1946 và
Hiến pháp năm 1959 (tại các Điều 55, Điều 57, Điều 63) và thể hiện sự bảo đảm quyền
bình đẳng của phụ nữ ở mức độ cao hơn hẳn so với các bản Hiến pháp trước đó. Bên
cạnh những qui định mang tính nguyên tắc xác định quyền của phụ nữ với tư cách là một
công dân (Điều 55 - Hiến pháp năm 1980), Hiến pháp năm 1980 còn bổ sung thêm một
số nội dung mới nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Chẳng hạn Điều 63
của Hiến pháp khẳng định: ”phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nhà nước và xã hội chăm lo nâng cao trình độ
chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ, không ngừng phát huy
vai trò của phụ nữ trong xã hội. Nhà nước có chính sách lao động phù hợp với điều kiện
của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Phụ nữ có
quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương nếu là công nhân, viên
chức, hoặc hưởng phụ cấp sinh đẻ nếu là xã viên hợp tác xã ”. Như vậy, nếu nội dung
của Điều 24 Hiến pháp năm 1959 chỉ quy định cho nữ công nhân và viên chức được
hưởng phụ cấp sinh sản, thì Điều 63 Hiến pháp năm 1980 đã mở rộng đối tượng sang cả
nữ xã viên hợp tác xã. Đây chính là điểm mới của Hiến pháp năm 1980 thể hiện sự đổi
mới theo xu hướng mở rộng phạm vi tác động trong nội dung quy định của Hiến pháp về
quyền phụ nữ. Bên cạnh đó, Điều 63 Hiến pháp năm 1980 tiếp tục xác định cụ thể hơn
vai trò của Nhà nước và xã hội trong việc thực hiện các chính sách “chăm lo phát triển
các nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà ăn công cộng và những cơ sở phúc lợi xã hội
khác, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập và nghỉ ngơi”.
Có thể nói, với những qui định về trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc

đảm bảo điều kiện phát triển trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội cho phụ nữ, nội
dung của Hiến pháp năm 1980 đã đi vào chiều sâu của vấn đề bình đẳng giới. Giờ đây,
trách nhiệm của Nhà nước không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo hoàn thành chính sách lao
động phù hợp với đặc trưng của phụ nữ mà còn nhằm mục đích giải phóng cho lao động
nữ và tạo nền tảng vững chắc giúp người phụ nữ phát huy vai trò của mình trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ mang tính chất toàn diện,
trong nội dung Hiến pháp 1980, lần đầu tiên vấn đề bảo hộ hôn nhân và gia đình được
tách thành một điều khoản riêng. Điều 64 của Hiến pháp năm 1980 qui định: “Nhà nước
bảo hộ chế độ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một
vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt
đối xử giữa các con“. Nội dung quy định này đã khẳng định sự tôn trọng của Nhà nước
đối với quyền tự định đoạt của người phụ nữ khi họ ở vị trí chủ thể trong quan hệ hôn
nhân và gia đình trên thực tế. Trong đời sống hôn nhân, cả hai phía nam và nữ tự tìm
hiểu, không bị ai ép buộc, đều có trách nhiệm xây dựng gia đình và đều có quyền chấm
dứt hôn nhân khi mối quan hệ không còn cơ sở tồn tại. Bên cạnh đó, quy định này còn
mang ý nghĩa xác định cụ thể vai trò của gia đình trong xã hội, trách nhiệm của từng
thành viên trong gia đình cũng như quan điểm nhân đạo của Nhà nước và xã hội trong
việc thừa nhận sự bình đẳng giữa vợ chồng và giữa các con trong gia đình.
Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện, nhiều chính
sách kinh tế - xã hội của Nhà nước được thi hành nhằm phát triển nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp,
cho phép các thành phần kinh tế phát triển, mở rộng các quan hệ quốc tế. Với những thay
đổi đó của đất nước, để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội mới, Hiến pháp năm 1992 -
Hiến pháp của thời kì đổi mới được ban hành. So với các bản Hiến pháp năm 1946, 1959
và 1980, nội dung quyền bình đẳng của phụ nữ trong Hiến pháp năm 1992 mang tính chất
toàn diện hơn, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chung của xã hội.
Đặc biệt, lần đầu tiên Hiến pháp ghi nhận vấn đề tôn trọng quyền con người về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội và coi đó là nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp
(Điều 50). Bên cạnh đó, những nội dung thể hiện quyền bình đẳng nam nữ trong các bản

Hiến pháp năm 1946, 1959 và 1980 tiếp tục được kế thừa tại các Điều 52, Điều 53, Điều
54 của Hiến pháp năm 1992. Nhất là vấn đề giải phóng phụ nữ trong Hiến pháp năm
1980 về cơ bản vẫn được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận nhưng ở mức độ cao hơn.
Điều 63 Hiến pháp năm 1992 qui định: “Công dân nữ và nam ngang quyền nhau về
mọi mặt chính trị, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử
với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam làm việc như nhau thì tiền
lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức
Nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn
hưởng lương, phụ cấp theo qui định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để
phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội,
chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để
giảm gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh,
nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận người mẹ”. Nội dung Điều 63 Hiến pháp năm 1992 đã
thể hiện sự trân trọng của Nhà nước và xã hội đối với mọi lao động tạo ra sản phẩm cho
xã hội trong đó có 51% là phụ nữ {5,32}. Chính vì thế, để bảo vệ sức lao động, Nhà nước
ta đã ban hành những quy định về chế độ nghỉ bảo hiểm đối với lao động nói chung và
lao động nữ nói riêng. Bên cạnh đó, Điều 63 của Hiến pháp năm 1992 còn bổ sung thêm
một vấn đề mà Hiến pháp năm 1980 chưa đề cập đến, đó là: “nghiêm cấm mọi hành vi
phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”. Có thể coi đây là việc chúng
ta đã “nội luật hoá” qui định của những Công ước quốc tế liên quan đến quyền phụ nữ mà
Việt Nam đã tham gia. Chính qui định bổ sung này đã quán triệt toàn bộ nội dung cơ bản
của Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)
mà Nhà nước Việt Nam đã phê chuẩn vào ngày 27/11/1981 và có hiệu lực chính thức đối
với Việt Nam vào ngày 19/03/1982 {6,12}. Thêm vào đó, Hiến pháp năm 1992 còn quy
định một loạt biện pháp nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, nghỉ
ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ. Hiến pháp xác định việc thực hiện chương trình
dân số và kế hoạch hoá gia đình là nghĩa vụ của mọi công dân bao gồm cả người chồng
và vợ (Điều 40). Nội dung của quy định này sẽ dần xoá bỏ quan niệm lạc hậu, bất bình
đẳng tồn tại từ trước đến nay về nghĩa vụ phải sinh con trai của phụ nữ và trách nhiệm kế
hoạch hoá gia đình chỉ thuộc về phụ nữ.

Ngoài ra, sự phát triển xuyên suốt của các nguyên tắc và qui định về quyền bình
đẳng của phụ nữ trong các bản Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 đến nay không chỉ thể
hiện thông qua sự phát triển về mặt nội dung mà còn ở sự thay đổi về cách thức diễn đạt
các qui định. Trong các bản Hiến pháp năm 1946 và 1959 xác định: “đàn bà ngang quyền
với đàn ông trên mọi phương diện” (Điều 9 Hiến pháp năm 1946) hay tại Điều 24 Hiến
pháp năm 1959 qui định: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng
với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình”. Còn ở
Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 lại qui định tại Điều 63: “Công dân nữ và
nam ngang quyền nhau về mọi mặt chính trị, văn hoá, xã hội và gia đình”. Xét trên
phương diện ngôn ngữ, việc bổ sung thêm từ “công dân“ và sự thay thế từ “với” bằng từ
“và” trong các qui định kể trên mang một ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự thay đổi về mặt
nhận thức, từ quan điểm xem đàn ông là chủ thể có vị trí cao hơn trong xã hội sang quan
điểm coi phụ nữ và đàn ông là những chủ thể hoàn toàn bình đẳng với nhau về quyền và
nghĩa vụ pháp lí - đều là những công dân của xã hội.
Những quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền bình đẳng của phụ nữ là một
điểm nổi bật thể hiện bản chất ưu việt và quan điểm dân chủ mang tính nhất quán của
Nhà nước ta. Địa vị của người phụ nữ luôn được Đảng và Nhà nước coi là một tiêu chí
quan trọng thể hiện trình độ văn minh và là mục tiêu cơ bản nhất của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng con người. Chính vì thế, Nghị quyết sửa đổi bổ sung một số
điều của Hiến pháp năm 1992 ngày 25/12/2001 tiếp tục giữ nguyên những qui định tiến
bộ về quyền bình đẳng nam nữ được nêu rõ trong Hiến pháp năm 1992. Nhìn chung, vấn
đề bình đẳng giới và bảo vệ quyền phụ nữ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi bổ sung năm 2001) là cơ sở pháp lí vững chắc cho các văn bản luật cụ thể hoá và đảm
bảo tính khả thi của nó trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, nó cũng là nền
tảng quan trọng cho các Uỷ ban cũng như các tổ chức chính trị xã hội và toàn xã hội đấu
tranh vì sự tiến bộ của phụ nữ. Chính vì thế, Uỷ ban về địa vị của phụ nữ thuộc Liên hợp
quốc đã khẳng định: “Chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa Hiến pháp và pháp luật đặt vấn
đề quyền bình đẳng của phụ nữ thành một quốc sách thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày
của toàn dân và là mối quan tâm chung của toàn xã hội chứ không phải là vấn đề riêng
của nữ giới”. {7,11}

Nói tóm lại, qua việc nghiên cứu một số quy định của Hiến pháp Việt Nam về
quyền bình đẳng của phụ nữ, chúng ta có thể khẳng định: lịch sử lập hiến Việt Nam là
tiến trình phát triển đi lên của những quy định về bảo vệ quyền của phụ nữ. Việc coi vấn
đề bình đẳng nam nữ là nguyên tắc của hiến pháp, quyền cơ bản của công dân và không
ngừng mở rộng trên cơ sở quan điểm tôn trọng phụ nữ đã tạo ra khung pháp lí hoàn thiện
cho hệ thống pháp luật Việt Nam, thể hiện rõ tính ưu việt của nền dân chủ mang tính
nhân văn của pháp luật Việt Nam. Đồng thời, nó mang ý nghĩa là một cam kết của Việt
Nam với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện các công ước quốc tế về quyền con
người nói chung và các công ước quốc tế liên quan đến quyền phụ nữ nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
về chăm sóc, bảo vệ phụ nữ và trẻ em, NXB Lao động - xã hội, HN, 2002.
2. Công ước về xoá bỏ tất cả những hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Nhà
xuất bản Sự thật, 1985.
3. Hiến pháp nước CHXHCNVN các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và nghị quyết về việc sửa
đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2000.
4. Nguyễn Thị Hồi, Chuyên đề: Việc thực hiện một số quyền chính trị của phụ nữ theo
CEDAW ở Việt Nam, HN, 2006.
5. Lê Thi, Phụ nữ Việt Nam qua 10 năm đổi mới đất nướ,. NXB Tư pháp HN, 2001.
6. Văn phòng Quốc hội, Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản pháp lý quốc tế và
pháp luật Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2003.
7. Vị thế phụ nữ trên thế giới ngày nay, NXB khoa học xã hội, HN, 2003.

THE WOMEN’S EQUALITY RIGHTS
IN VIETNAM’S CONSTITUTIONS
Mai Thi Dieu Thuy
College of Sciences, Hue University
SUMMARY
Since the past uptil now, the Vietnamese state have always highly appreciated the

dedications of women to our nation’s victory, which are regarded as the abundant and
indispensable human resources during the course of our country’s development. The Party and
State have been fully aware that women richly deserve to enjoy the true equality to men in all
aspects of life. As a result, in the first Constitution of our country (the 1946 Constitution), the
State acknowledged the human rights in general and the women’s rights in particular as one of
the basic principles of the Constitution. This principle has been continually inherited and
developed in the next constitutions, creating the comprehensive legal frame for Vietnam’s law
system and manifesting the preeminence of the humanistic democracy of the Vietnam State in the
present time.


×