Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học "Những lỗi doanh nghiệp thường gặp trong quá trình yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.79 KB, 8 trang )

Những lỗi doanh nghiệp thường gặp trong quá
trình yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài việc tập trung vào công tác tổ chức
sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp (DN) còn phải quan tâm đến việc xây
dựng, bảo vệ, quảng bá để nâng cao uy tín thương hiệu của mình.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài việc tập trung vào công tác tổ
chức sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp (DN) còn phải quan tâm đến việc xây
dựng, bảo vệ, quảng bá để nâng cao uy tín thương hiệu của mình.
1. Dẫn nhập
Thương hiệu là yếu tố quan trọng làm nên giá trị của một DN. Có nhiều định
nghĩa khác nhau về thương hiệu, nhưng có thể nói thương hiệu của một DN được
hình thành bởi nhiều thành tố thuộc tài sản vô hình như nhãn hiệu, kiểu dáng công
nghiệp, sáng chế, giải pháp hữu ích, uy tín và hình ảnh của DN Trong các thành
tố vừa nêu thì nhãn hiệu là thành tố quan trọng nhất, nó là các dấu hiệu tác động
trực tiếp đến giác quan của người tiêu dùng, như nhìn thấy (cấu trúc từ ngữ, màu
sắc, hình khối… của nhãn hiệu), nghe thấy (cách phát âm nhãn hiệu), liên tưởng
đến (ý nghĩa của nhãn hiệu, ví dụ: hoa hướng dương - sunflower, ánh dương -
sunlight ).
Vai trò của nhãn hiệu đối với DN rất quan trọng, nhưng đa số DN lại thường
mắc các lỗi dẫn đến đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu bị từ chối, hậu quả là mất cơ
hội kinh doanh, tốn thời gian chờ đợi và kinh phí.
Bài viết này sử dụng các tài liệu do Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) quản lý về việc
đăng ký nhãn hiệu, thẩm định hình thức, thẩm định nội dung, cấp Giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc ra thông báo từ chối bảo hộ nhãn hiệu… đồng thời
cũng sử dụng các tài liệu có liên quan đến các DN Nghệ An, với mục đích giúp
các DN nói chung và DN Nghệ An nói riêng nhận biết các lỗi đã gặp trong quá
trình yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu, qua đó tránh các lỗi này để nâng cao khả năng
được sở hữu hợp pháp nhãn hiệu của mình nhằm tạo những lợi thế trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh.
2. Các lỗi thường gặp
2.1. Thực hiện “quy trình ngược”


Đây là lỗi hay gặp nhất. Các DN thường làm theo “quy trình ngược” với các
bước: Sản xuất, thực hiện dịch vụ; Đưa sản phẩm hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu
(do DN tự đặt) ra thị trường, được người tiêu dùng chấp nhận; Đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu.
Đa số trường hợp này đã bị Cục SHTT từ chối bảo hộ, tình trạng này dẫn đến
ngoài việc mất cơ hội kinh doanh (thời gian từ lúc nộp đơn yêu cầu bảo hộ đến lúc bị
từ chối bảo hộ có thể đến 18 tháng), rất có thể DN còn bị DN khác khiếu nại, kiện
tụng… làm mất uy tín trong kinh doanh, tốn kém kinh phí (do có thể bị xử phạt hành
chính hoặc phải bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp khác).
Lẽ ra, trước khi đưa sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường thì DN nên khảo sát
đăng ký bảo hộ nhãn hiệu trước với điều kiện phải tránh các lỗi sẽ đề cập dưới đây.
2.2. Nhầm lẫn giữa nhãn hiệu và tên thương mại
Việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và tên thương mại là rất
khác nhau: quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở Giấy
chứng nhận đăng ký nhãn hiệu do Cục SHTT cấp, còn quyền sở hữu công nghiệp đối
với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó.
Lưu ý 1: Các DN tuyệt đối không được coi tên thương mại của mình là nhãn hiệu,
nhưng trong thực tế rất nhiều DN đã mắc phải lỗi này, trong đó có cả các doanh
nghiệp lớn (ví dụ: Vinakansai), các tổng công ty lớn (ví dụ: Tổng Công ty Lương
thực miền Bắc Vinafood I) Tất nhiên trong số này cũng có các DN Nghệ An.
Lưu ý 2: Trên phạm vi cả nước có thể có rất nhiều DN hoạt động trên cùng một
lĩnh vực mà lại mang tên thương mại tương tự nhau, nhưng chỉ duy nhất một DN có
thể lấy tên thương mại của mình làm nhãn hiệu. Ví dụ: Tổng Công ty Lương thực
miền Bắc (Vinafood I) có tên tương tự với Tổng Công ty Lương thực miền Nam
(Vinafood II), nhưng chỉ có Tổng Công ty Lương thực miền Nam là chủ sở hữu nhãn
hiệu Vinafood II, còn Tổng Công ty Lương thực miền Bắc “đành phải” là chủ sở hữu
nhãn hiệu VNF1.
Ví dụ khác, chúng ta gặp khá nhiều bệnh viện mang tên Hữu Nghị, nhưng trong
cuộc đua giành nhãn hiệu là chính tên bệnh viện của mình thì “phần thắng” sẽ thuộc
về đơn vị nào nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu đầu tiên, rất tiếc trong cuộc đua này

một số DN Nghệ An lại “chậm chân” hơn, cụ thể trong trường hợp sau đây.
Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An có trụ sở tại 138, đường Nguyễn Phong
Sắc, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu sau:

cho nhóm 44 Dịch vụ khám chữa bệnh đa khoa cho người (bệnh viện)
Mặc dù nhãn hiệu đề nghị đẹp và phù hợp với ngành Y tế, nhưng Cục SHTT đã từ
chối bảo hộ với lý do nhãn hiệu đề nghị đã tương tự với nhãn hiệu trong Đăng bạ
quốc gia số 96564. Tài liệu đối chứng cho thấy Cục SHTT đã cấp Giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu số 96564:
cho Doanh nghiệp tư nhân Bệnh viện Đa khoa Hữu Nghị 103 có trụ sở tại Tổ 21,
phường Nguyễn Phúc, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Sự bình đẳng giữa các DN
có quy mô khác nhau, thuộc các loại hình kinh tế khác nhau được thể hiện rõ nhất
trong lĩnh vực bảo hộ quyền SHTT, khi một DN tư nhân có quy mô nhỏ đã thắng một
bệnh viện lớn trong cuộc đua giành quyền sở hữu nhãn hiệu là chính tên của mình.
2.3. Không khảo sát trước dẫn đến nhãn hiệu đề nghị trùng hoặc tương tự với
nhãn hiệu đang còn hiệu lực bảo hộ
Các DN chỉ căn cứ vào yêu cầu của mình rồi tự thiết kế hoặc thuê thiết kế nhãn
hiệu, sau đó nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu. Tình trạng này dẫn đến nhãn hiệu đề
nghị trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đang còn hiệu lực bảo hộ nên bị từ chối bảo
hộ. Ví dụ:
Công ty Cổ phần tư vấn, thiết kế hạ tầng cơ sở có trụ sở tại nhà bà Ngô Thị Bích
Trâm, đường Lý Thường Kiệt, phường Hưng Phúc, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã
nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu:
cho nhóm dịch vụ 35 Lập hồ sơ mời thầu xây lắp, tư vấn ban quản lý dự án; 36 Tư
vấn đầu tư xây dựng; 37 Tư vấn giám sát công trình giao thông, thủy lợi; 42 Khảo sát,
thiết kế công trình giao thông, thuỷ lợi, dân dụng, thẩm định hồ sơ thiết kế công trình
giao thông, thủy lợi, dân dụng. Nhưng doanh nghiệp đã bị Cục SHTT từ chối bảo hộ
với lý do đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 63307 cho chủ sở hữu Công
ty Cổ phần tư vấn, thiết kế công nghiệp có trụ sở tại 146, Nguyễn Công Trứ, phường
Nguyễn Thái Bình, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

2.4. Bị hấp dẫn bởi các dấu hiệu mang ấn tượng đặc trưng, do đó tương tự với
nhãn hiệu chứng nhận
Điều 4.18 Luật SHTT định nghĩa: “Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở
hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ
chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách
thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an
toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu”. Điểm đáng chú
ý là nhãn hiệu chứng nhận thường được cấu trúc bởi các dấu hiệu đặc trưng, đẹp, gây
ấn tượng mạnh, dễ nhớ nên các DN thường yêu cầu bảo hộ các dấu hiệu này làm
nhãn hiệu hoặc một phần nhãn hiệu của mình.
Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Việt Mỹ có trụ sở tại Khu công nghiệp
nhỏ đóng trên địa bàn xã Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã yêu cầu bảo hộ
nhãn hiệu cho nhóm sản phẩm số 16 màng mỏng bằng chất dẻo để bao gói (túi nilon).
Nhưng Cục SHTT đã từ chối bảo hộ vì cách trình bày chữ V và ngôi sao đã trùng
với nhãn hiệu đang còn hiệu lực bảo hộ tại Đăng bạ quốc gia số 33014 của chủ sở hữu
Báo Sài Gòn Tiếp thị, có trụ sở tại 25 Ngô Thời Nhiệm, phường 6, quận 3, Thành phố
Hồ Chí Minh với nhãn hiệu hình chữ V
Có lẽ ít người tiêu dùng tại Việt Nam mà không biết đến nhãn hiệu chứng nhận
này, nhưng cũng chính chữ V và ngôi sao rất ấn tượng này đã hấp dẫn Công ty Cổ
phần Sản xuất và Thương mại Việt Mỹ, dẫn đến đơn yêu cầu bị từ chối.
2.5. Dùng chính tên sản phẩm/dịch vụ làm nhãn hiệu
Điều 74.2.c Luật SHTT quy định: “Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân
biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất,
chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các
đặc tính khác mang tính mô tả hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã đạt
được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng
ký nhãn hiệu”. Ví dụ không bảo hộ nhãn hiệu Thuốc đau mắt cho chính loại thuốc có
công dụng chữa đau mắt, không bảo hộ nhãn hiệu Rượu gạo cho chính sản phẩm
rượu chưng cất từ gạo lên men…
Có một điều rất thú vị là nhãn hiệu Cám con lợn/heo không được dùng để bảo hộ

cho sản phẩm cám là thức ăn cho lợn/heo, mà trong thực tế sản phẩm này lại được
gắn là Cám con cò, vì lẽ rất đơn giản cò khác biệt với lợn/heo.
Một lỗi tưởng chừng rất đơn giản như vậy nhưng ít nhất hai DN Nghệ An đã mắc
phải (còn một số DN nữa cũng mắc lỗi tương tự). Đó là Công ty Cổ phần đông nam
dược HST có trụ sở trên đường Lê Viết Thuật, đối diện bệnh viện Quân Y 4 tại xóm
13, xã Hưng Lộc, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn
hiệu cho nhóm sản phẩm số 5 Rượu ngâm thuốc thảo dược và không được Cục SHTT
chấp nhận bảo hộ.
Trường hợp Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Lợi Phát có trụ sở tại 141
Nguyễn Trãi, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu
Trường Sơn cho nhóm 32 Nước uống tinh lọc đóng chai. Cục SHTT đã từ chối bảo
hộ nhãn hiệu này, ngoài lý do Trường Sơn đã trùng với nhãn hiệu đang còn hiệu lực
bảo hộ do người khác làm chủ sở hữu thì “Đỉnh cao chất lượng” và “PURIFIED
DRINKING WATER” mang tính mô tả và không có khả năng phân biệt như điều
74.2.c Luật SHTT đã quy định.
2.6. Không phân biệt được các đối tượng khác nhau của quyền SHTT
Luật SHTT quy định rằng đối tượng của quyền SHTT bao gồm quyền tác giả tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc
biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương
trình được mã hoá, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán
dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và quyền đối với
giống cây trồng. Trong thực tế, có DN nhận thức rằng quyền tác giả và nhãn hiệu cũng
như nhau, vì chúng cùng là các đối tượng của quyền SHTT. Bởi vậy, khi bị Cục SHTT
từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu thì sang Cục Bản quyền tác giả để nộp
đơn đăng ký bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (thực chất nó
chỉ là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, nhưng DN lại lầm tưởng rằng đó là nhãn hiệu).
Đáng tiếc là không chỉ các DN, mà chính các phương tiện thông tin đại chúng cũng
nhầm lẫn. Điều nguy hiểm là với sức lan tỏa thông tin trong thời đại kỹ thuật số ngày
nay, khi một tờ báo đăng tin thì gần như ngay lập tức các báo khác cũng sao chép
theo. Trường hợp sau là một ví dụ:

Tác giả Xuân Long đưa tin trên Báo Lao động số 3 ra ngày 04/01/2007 với đầu đề
“Hoa đào Nhật Tân chính thức có bản quyền”, nội dung của bài báo được tóm tắt:
“Bắt đầu từ Tết Nguyên đán Đinh Hợi, hoa đào
Nhật Tân sẽ chính thức có bản quyền tác giả. Thương hiệu “Hoa đào Nhật Tân”
đã được pháp luật bảo hộ.(…) người dân trồng đào tại Nhật Tân sẽ yên tâm với
thương hiệu riêng của mình “Hoa đào Nhật Tân”
(*)
.
Tuy nhiên, khi tra cứu trong kho tư liệu của Cục Bản quyền tác giả thì thu được
thông tin về tác phẩm mỹ thuật ứng dụng như sau:
Thì ra đây chỉ là một tác phẩm mỹ thuật ứng dụng mà Cục Bản quyền tác giả ghi
nhận bảo hộ với các thông tin: Loại hình tác phẩm: Mỹ thuật ứng dụng; Tác giả: Đỗ
Thị Mai Lan; Chủ sở hữu tác phẩm: Hợp Tác xã nông nghiệp dịch vụ tổng hợp Nhật
Tân; Số chứng nhận: 710/2006/QTG; Ngày cấp: 25/04/2006.
Các thông tin này cho thấy đây tuyệt nhiên không phải nhãn hiệu hay thương hiệu
như Báo Lao động đã đăng.
Nếu DN không phân biệt hai đối tượng rất khác nhau của quyền SHTT, mà cứ theo
thông tin như báo đã đưa, rồi gắn hình vẽ kiểu như trên vào sản phẩm và mặc nhiên
coi đó là nhãn hiệu rồi tung ra thị trường thì hậu quả sẽ khó lường.
3. Kết luận
Trước thực tế trên, giải pháp tốt nhất là các DN phải nâng cao hiểu biết để tránh
các lỗi đáng tiếc. Hy vọng rằng các tư liệu của bài viết này có thể giúp ích cho các
DN nói chung và DN Nghệ An nói riêng trong quá trình sản xuất và kinh doanh, khi
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO./.
Chú thích
(*)
Xin tham khảo thêm:
/>quyen/20071/17636.laodong;
/>quyen/40180996/87/
TS Trần Văn Hải


×