Thảm họa của biến đổi
khí hậu
Trongmấy thập kỷ qua, nhânloại đã chứng kiến và các nhà khoa học trên
khắpthế giới đã liên tục báođộngvề nhữngbiến động bất thườngcủa khí hậu toàn
cầu.
Lũ lụt
Hiện tượng bề mặt địa cầu, trước hết là khí quyển và thủyquyển không ngừng
nónglên, làm xáo động môi trườngsinh thái, đã và đang đặt ra nhiều hệ lụy đốivới
đời sốngloài người và sinhquyển của trái đất.
Các công tác nghiên cứu quymô toàn cầu đã được các nhà khoahọc ở các trung
tâmnổi tiếngtrên thế giớithúc đẩytừ đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX.
Hội nghị quốc tế do LiênHiệp Quốc triệu tập đã được tổ chức tại Jiode Janero năm
1992. Hội nghị đã thông quamột hiệp định khungvà một chương trình hànhđộng
quốctế nhằm cứu vãntình trạng “xấu đi” nhanhchóngcủa bầu khí quyển trái đất,
được coi là nguyên nhân chủ yếucủa sự gia tănghiểm họa.
Tổ chức nghiêncứu liên chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc (IPCC)
đã được thànhlập, thu hút sự thamgia của hàng ngàn nhà khoa học quốc tế.
Nhiều hội thảo vàbáo cáo đã được tổ chức và công bố. Tạihội nghị Kyoto năm
1997, một nghị định thư quốctế (Nghị định thư Kyoto) đã được thôngqua. Đến
đầu tháng2/2005,Nghị định thư đã được nguyên thủ 165 quốc gia phê chuẩn và
bắt đầu có hiệu lực từ 10/2/2005.
Việt Namphê chuẩn Nghị định thư Kyoto ngày 25/9/2005. Mới đây, hộinghị lần
thứ 12 của 159nướcthamgia hiệp định khungvề khí hậu, phiên họp thứ 2của các
bên tham gia Nghị định thư Kyoto đã được Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Nairobi,thủ
đô Kênya.
Hạn hán
Bài viết này đề cập đến các mối liênquangiữa nhiệt độ bề mặt địa cầu không
ngừnggia tăng, băng tannhanhở hai địa cựcvà trên đỉnh các dãy núi cao, mực
nước biển không ngừng dâng cao là tuyến chủ đạo đang được dư luận quốctế
quan tâm đặc biệt.
Các báocáo của IPCC vànhiều trung tâm nghiên cứu có uy tín hàng đầu trên thế
giới công bố trong thời gian gần đây cungcấp cho chúng ta nhiều thôngtin và dự
báo quantrọng:
- Các số liệuđo đạc và nghiên cứucho thấy nhiệt độ trung bình trênbề mặt địacầu
ấm lên gần 10Ckể từ 1920đến2005,tăng nhanh nhấttrongkhoảng từ 1980đến
nay (mức tăng từ 0,20Cđến 10C)
- Băng vĩnh cửu ở hai đầu địa cựcvà các dãy núi cao tan nhanhmột cách đáng kinh
ngạc.Thử điểmmột vài tin chính:
- ở Nam cực, tháng 3/2002khốibăng 500tỷ tấn tan rã thànhhàng ngànmảnh
ngay trước mắtcác nhà khoahọc…
- Ở Bắc cực,băng tanđạt mức kỷ lục. Mùa hè 2002, lượng băng tan ở Greenland
cao gấp đôi so với 1992, diệntíchbăngtanđã lên tới 655.000km2. Hơn 110 sông
băngvà nhữngcánh đồng băngvĩnh cửu ở bang Montana đã biến mất trong vòng
100 năm qua…
- Các sôngbăng sẽ hầunhư biến mấtkhỏi dãy Alpes vào năm 2050(nếuđộ tan
chảyduy trì như hiện nay).Hè 2002 một khối băng 3,5 triệu tấn tách ra gâylũ
băngtừ dãy núi Mali trên đỉnh Capcadơ thuộc Nga.Kể từ 1991-2004 số băng tanở
châu Âu gấp đôiso với 30năm trước (1961-1990)…
- Các số liệuquan trắc mực nước biển thế giớicho thấy mức tăngtrung bìnhtrong
vòng 50-100năm qua là 1,8mm/năm. Trong12 năm qua các số liệu đo đạc của vệ
tinh NASAthấy xu thế biển dâng đang gia tăng nhanh. Mức tăng trung bình trong
12 nămqua là 3mm/năm.
Các nhà khoa họctrên thế giới gần như nhất trí khẳng địnhcác sự kiện cũng như
chiềuhướng phát triển của các sự kiện nêu trên. Tuynhiên, khibàn về nguyên
nhânvà dự báo chotương laisắp tới còn cónhững luận giải ít nhiều khác nhau.
Băng vĩnh cửu tan chảy vào đại dương cũng như việc tăngthể tích nướcdo thủy
quyển ấm lên là nguyên nhân làm tăngmực nước đại dương (theotính toán của
các nhà khoa họcmức tác động của2 yếu tố trên là xấp xỉ nhau). Băng vĩnh cửu tan
cũng là donhiệt độ bề mặttrái đất ấm nóng lên. Tuy nhiên, do nguyên nhân nào
mà nhiệt độ bề mặt trái đấttăng lên, thậmchí tăngnhanh?
Loại ý kiến thứ nhất, đượcđại đa số các nhà khoa học thamgia cácchương trình
nghiêncứu chỉ rõ mối quanhệ giữa việc tăng nhiệt độ bề mặt địa cầu vớiviệctăng
hàm lượng khí CO2và các loại khíthảitạo hiệu ứng nhà kính do hoạtđộng con
người gây ra trong bầu khí quyển tráiđất.
Nguyên nhân này chịu trách nhiệm đến 90% thậm chí 99%mức gia tăng của nhiệt
độ bề mặt trái đấtđangđược báo động.Loại ý kiến thứ hai, ít hơn,tuy thừa nhận
vấn đề gia tăng nhiệt độ do hiệuứngnhà kínhsong chorằng mức độ tác động của
vấn đề khí thải nhân tạo không quá nghiêm trọng. Hiện tượng nhiệt độ bề mặt trái
đất nónglên và lạnh đi là hiện tượng tự nhiên đã xảy ra có tính chu kỳ trong lịch sử
hình thànhvàphát triển của trái đất.
Tôi cho rằng, cácnhà khoahọcViệt Namcó thể và cầnđược tổ chức thamgia
nghiêncứu vấn đề hệ trọng này.Rõ ràng, mối liênquan giữa quá trìnhgia tăng
hàm lượng CO2 và các khíthải gây hiệu ứng nhà kính docon người gây ravới sự
gia tăngnhiệtđộ bề mặt trái đất đã được minh chứng theo các số liệu mấy thế kỷ
và nhất là trongvài thập kỷ gần đây.
Nhiệt độ bề mặt trái đất có được là nhờ hấp thụ nhiệt từ mặt trời và nhận dòng
nhiệt của chính mình tỏa ratừ bên tronglòngquả đất. Sự có mặt của một hàm
lượng khí CO2 cầnthiết trong bầukhí quyển vốnlà tấm áo giáp ngănchặn bức xạ
nhiệt (bức xạ hồng ngoại) từ trái đất.
Thoátvào vũ trụ mênh mônglạnh lẽo. Thiếu nó thì mặt đất sẽ không có đượcmột
nhiệt độ điều hòacho sự sinh sôi phát triển sự sống.Các công trình nghiên cứu,
ngày càngáp dụng các công nghệ hiện đạicho chúngta biết suốt thiên niên kỷ
trướckhi có cuộc cách mạngcông nghiệp, hàm lượng CO2 trong khí quyểnvẫn cân
bằngở mức 280phần triệu (ppm).Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ XIX đến nayhàm
lượng CO2 trongkhí quyển tăng nhanhvàliêntục đến 360ppm.
Số liệu quan trắc trong 4 thập kỷ gần đâycho thấy cứ mỗithập kỷ, hàm lượngCO2
trong khí quyển tăng 4%. Nói cách khác, hiệu ứngnhàkhí do khí CO2 gây ralà quá
mức cần thiết,gây tăng nhanhnhiệt độ bề mặt địa cầu kéo theo nhiềuhệ lụy như
đã nêu trên. Tôi cho rằng, những cứ liệu và luận giảiđã được nêu ra là đầy sức
thuyết phục. Điềuđáng tiếc là cho đếnnay,Hoa Kỳ là nước xả khí thải nhà kính
nhiều nhất vào khí quyển (trên 30%tổng khí thải côngnghiệp) đã chưaphêchuẩn
Nghị định thư Kyoto.
Mặtkhác,tôi cho rằngkhôngthể và khôngnên đối lập giữahai cách luận giải.Cần
phải tínhđến vận độngtự thân của quả đất, sự thoát nhiệt từ bên trongquả đất
(vốn có nhiệt độ rất cao lên tới hàngngànđộ C) lên bề mặt trái đất. Các nhà địa
chất khắp thế giới đềuhiểu rõ quá trìnhnày.
Tronglịch sử xa xôi hàng trăm, ngàn triệu năm trái đất đã trải qua những biến
độngkiến tạo dữ dội với sự trao đổi nănglượng – nhiệt độ khổng lồ giữa các lớp
dungnham bên trong và lớp vỏ thạch quyển,thủy quyển, khí quyển trên mặt: làm
dungnham trào và phunra ngoài; làm hìnhthành,chia tách, xô đẩy, xoay chuyển
các lục địa và mảnglụcđịa; Làm biến mấtcác đạidương cổ, xuất hiện đạidương
mới; tạo các dãy núi cao, hẻmvực sâu ở đại dương vàtrên lục địa v.v…
Cháy rừng
Gần ngày nay nhất, Kỷ Đệ tứ (từ năm triệu năm đến nay) được coi là thời kỳ tương
đối yên tĩnh song các vận động của quả đất cũngđã trải quanhiều thời kỳ biến
độnglớn khí hậu bề mặt địa cầu. Tính từ 1,6 triệu năm đến nay đã có 5-6 chukỳ
biến động lớn.
Đó là các thời kỳ băng hà kéotheo mực nước biển hạ thấp (biểnlùi) và các thời kỳ
gian băng(băngtan) kéo theo mực nước biển dâng cao(biển tiến). Vàocác thời kỳ
bănghà nhiệt độ bề mặt trái đấtkhô lạnh.
Vào các thời kỳ gian băngnhiệt độ bề mặt trái đất đan xen giữa nóng ẩmvà khô
hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ giao động của mực nước biển (dâng,hạ) lên đến
hàng chục, hàngtrăm mét. Mỗi chu kỳ kéo dài hàngvạn, chục vạn năm. Mỗi chukỳ
như vậy còn được chia ra các chu kỳ ngắn hơn với thời gian kéodài nhiều trăm
năm đếnnghìnnăm vớibiên độ giao động mực nước biển 2-3mét hoặc hơn.Các
chu kỳ biến động không phảiđều đặnliên tục mà có nhữngthời đoạn ngừngnghỉ
hoặc độtbiến.
Việt Namvànhiều nước ở khuvực ĐôngNamÁ với vị trí địa lý của mình, không
phải làvùng có băngvĩnhcửu kể cả trong hiện tại và quá khứ songcũnglà vùng
chịu tácđộng củacác thời kỳ băng hà, gian băngvới cácdấu tích của biển lùi, biển
tiến, và biến độngkhí hậulớncó tínhtoàn cầu khá rõ rệt.
Trongthế kỷ XX, nhất là trong nửa cuối thế kỷ XX hàngloạt các côngtrình nghiên
cứu của các nhà khoahọcViệt Nam,các nước trongkhu vực và quốctế trên nhiều
lĩnh vực, đặc biệt làđịachất học, khảo cổ học, hải dương học, cổ sinh vật học… về
Kỷ Đệ tứ đã đưa ra nhiều kết luận quan trọng về những vấn đề nêu trên. Nhưng kết
luận rấtđáng chú ý là:
- Thời kỳ bănghà cuối cùng của địa cầu trongKỷ Đệ tứ- băng hà Uôc 2 (Wurm2)
đạt đỉnh cao cách đây khoảng18.000 năm. Thời đó, biểnlùi xa về phía biển Đông.
Dấu vết đườngbờ biển thời đó hiệnnằm ở độ sâu100-120mso vớimựcnước biển
hiện tại trên thềm lục địa. Thời đó toàn bộ vùng vịnhBắcBộ vàthêm Sunda(nối
liền Nambộ Việt Nam với Indonesia), Vịnh Thái Lancòn là đất liền.
- Thời kỳ gianbăng lớn nhất gần ngày nay (thời kỳ biển tiến Flandrian) diễn ra vào
khoảng 6.000 – 4.000năm trướcđây.Vào thờikỳ này mựcnước biển dâng cao
hơn4 –5 m so với mực nước biển hiện tại. Vào thời đó vịnh Hạ Long và vịnh Thái
Lan mới bị ngập nước như ngày nay.
Biển cònlấnsâu và phủ trùm gần như toàn bộ đồng bằng châu thổ sông Hồng và
sông Cửu Longcũng như các đồngbằng châu thổ các sôngven biển miền trung
Việt Nam.Cácđồng bằng này như chúng ta thấy được ngày nay chỉ được hình
thành vàđượccon người chiếmlĩnh, khaithác dần khibiển rútbắtđầu từ khoảng
4.500 năm đến nay.
-Những tài liệunghiên cứuchi tiết về địa chất họcvà khảo cổ học còn chobiết, từ
cách đây 4.000 năm đến nay,xu hướng chung là biển lùi songvẫn có mộtsố chu kỳ
tiến, lùi với biên độ giaođộng mực nước biển 2 – 3 mvào khoảng trước3.000năm,
trước2.000 năm, sát trướcvàsau công nguyên. Thời đoạn từ 1.000– 1.200năm
sau công nguyên đến nay, toàn vùngđang nằm trong chu trình biển tiến.
- Có thời đoạn có dấu hiệu củabiểndângđột biến khiến cư dân tiền sử phải dịch
chuyển địa bàn cư trú khôngbìnhthường, rõnhấtlà ở khoảng giao thời hậu kỳ đá
mớisang sơ kỳ kimkhí ở ven rìađồng bằng BắcBộ vàđồng bằng sông Mã, ở ven
biển cũng như ở ven đồngbằng sôngCửu Long.
Những điều trình bày sơ lược trên đây cho thấy nếu theo chu kỳ biển tiến, biển lùi
với biên độ thời gian khoảng 800- 1.000 năm thì hiện tại chúng ta đang ở đoạn
cuối của chu kỳ biển tiếnhiện đại, không loại trừ tốc độ sẽ nhanh lênhoặccó đột
biến.
Như vậy, mựcnước biển dâng đangxảy ra nằm trong chu trình chungcủa biển tiến
cộng thêm tác động nhanhdo hiệuứng nhàkínhgâyra chỉ càng làm chúng ta phải
nhìn nhậnvấn đề mộtcách cảnh giác hơn, chứ không phải ngược lại. Dù nguyên
nhânnào thì việc nhậnthức đượcđể có kế hoạch ứng phó vì sự tồn tại và phát
triển bền vữngcho mỗi quốc gia dân tộc cũngnhư cho toànnhânloại là điều con
người có thể và phải làm được.