Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Quan hệ Thương mại Việt Mỹ và vấn đề xuất khẩu hàng Việt Nam sang Mỹ - 3 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.05 KB, 12 trang )

lượng, môi trường …Môi trường toàn cầu ngày càng bị phá hoại, các nguồn tài
nguyên thiên nhiên ngày một cạn kiệt; dân số thế giới đang gia tăng nhanh chóng
trở thành một thách thức toàn cầu; các dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có
sự phối hợp điều tiết đã làm nảy sinh các cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Châu âu,
Châu Mỹ và Châu á trong thập kỷ 90. Vì vậy cần thiết phải có sự phối hợp toàn
cầu để đối phó với các thách thức đó. “Bàn tay hữu hình” của các Chính phủ chỉ
phát huy tác dụng ở các quốc gia riêng lẻ còn trên phạm vi toàn cầu hiện đang có
quá nhiều “bàn tay hữu hình” va đập vào nhau chứ chưa có một “bàn tay hữu
hình” chung làm chức năng điêù tiết toàn cầu. Ngoài ra chiến tranh lạnh chấm dứt
vào đầu thập kỷ 90 đã kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cường, tạo ra một thời kỳ
hoà bình, hợp tác và phát triển mới.
Toàn cầu hoá là một quá trình tất yếu trong lịch sử phát triển xã hội loài người, là
hệ quả của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, của các phương tiện khoa
học công nghệ. Toàn cầu hoá, khu vực hoá dẫn đến một hệ quả là hình thành xu
thế hội nhập quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, tính tuỳ thuộc
lẫn nhau giữa các nước, các khu vực không ngừng gia tăng, tạo điều kiện đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh thế giới, duy trì môi trường hoà bình và ổn định, tạo những
điều kiện và cơ hội thuận lợi cho sự hợp tác trên quy mô khu vực và toàn cầu vì
mục tiêu phát triển bền vững của mỗi nước và của toàn thế giới.
Việc tự do hoá thương mại, huỷ bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan,
xoá bỏ mọi phân biệt đối xử trong quan hệ buôn bán quốc tế đã đánh dấu sự hoà
nhập các nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi vào một hệ thống đa
phương. Như vậy là thời đại của hàng rào thuế quan cao, của cách thức đóng cửa ở
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
một số thị trường lớn, của một số đặc quyền ít ỏi trong mậu dịch quốc tế dành cho
các nước kém phát triển đã chấm dứt. Buôn bán quốc tế chuyển sang một thời đại
mới đó là mở rộng tự do buôn bán được đánh dấu bằng sự ra đời của WTO và
những ưu đãi thương mại trong khuôn khổ hợp tác cùng có lợi .
1.2 . Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Trong xu thế toàn cầu hoá, thương mại hoá phát triển trên phạm vi toàn thế giới,
vấn đề hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan. Con đường thích hợp với nước


ta trong điều kiện hiện nay là hội nhập quốc tế để khai thông thị trường trong nước
với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường kinh doanh có khả năng cạnh tranh cao.
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải
tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
phát huy nội lực, tranh thủ tối đa ngoại lực, xây dựng nền kinh tế mở kết nối với
khu vực và thế giới. Với đường lối đối ngoại rộng mở, Việt Nam sẵn sàng là bạn
với tất cả các nước, sẵn sàng mở rộng hợp tác, quan hệ hữu nghị với các nước trên
thế giới nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa
xã hội, bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu vì hoà bình, ổn định và phát triển.
Hội nhập thực chất là quá trình tham gia vào cạnh tranh quốc tế và cạnh tranh ngay
trên thị trường nội địa của mình. Tham gia tự do hoá thương mại quốc tế, Việt
Nam - một nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, năng suất lao động thấp, chi phí
nguyên liệu và năng lượng tốn kém, mức sử dụng năng lượng trên một đơn vị sản
phẩm nhiều hơn từ 1,5 đến 2,5 lần, máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so
với thế giới và đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường sẽ có
cơ hội thâm nhập vào thị trường thế giới rộng lớn để phát triển kinh tế đất nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Sản phẩm của Việt Nam sẽ có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, các
nguồn đầu vào của sản xuất và kinh doanh trong nước trở nên phong phú hơn, dễ
lựa chọn những loại hàng hoá có chất lượng cao hơn và giá cả rẻ hơn được cung
cấp từ các nước khác trên thế giới. Đây là một trong những nhân tố quan trọng
nhằm giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, hàng hoá nhập
khẩu nhiều giúp người tiêu dùng có điều kiện lựa chọn nhiều hơn vì giá hàng nhập
khẩu trở nên rẻ hơn do việc giảm thuế nhập khẩu. Khi thực hiện tự do hoá thương
mại, Việt Nam có điều kiện tham gia nhanh chóng vào hệ thống phân công lao
động quốc tế hiện đại.
Hội nhập khu vực và thế giới là một quá trình tất yếu để tạo cơ hội cho Việt Nam
phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực và
trên thế giới. Quá trình hội nhập sẽ thúc đẩy Việt Nam chuyển đổi kinh tế mạnh
hơn sang cơ chế thị trường với định hướng hướng mạnh vào xuất khẩu. Chiều

hướng này sẽ có lợi cho Việt Nam đưa nền kinh tế nước nhà lên một quy mô lớn
hơn nhiều so với bó hẹp trong khuôn khổ các chính sách bảo hộ, hướng nội không
hiệu quả. Việt Nam đang tham gia tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo chiều
hướng và ở nhiều tầng nấc khác nhau: song phương, tiểu khu vực, liên khu vực và
toàn cầu. Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc mở rộng các mối quan hệ
thương mại, hợp tác kinh tế với nhiều nước trong và ngoài khu vực. Đáng chú ý,
trong thời gian vừa qua, tiếp theo việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam và Mỹ, hai bên đã tiến hành nhiều vòng đàm phán để ký kết các Hiệp
định kinh tế song phương về các vấn đề nợ, bản quyền và thương mại, từng bước
bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại. Đồng thời, ở mức độ tiểu khu vực, kể
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
từ khi trở thành thành viên ASEAN, ta đã và đang nỗ lực tham gia thực hiện các
chương trình hợp tác kinh tế ASEAN, đặc biệt là chương trình Khu vực mậu dịch
tự do AFTA . Một sự kiện quan trọng và có ý nghĩa lớn lao đối với tiến trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam . Sau một thời gian nỗ lực vận động và chuẩn bị, Việt
Nam đã được các nhà lãnh đạo APEC tuyên bố kết nạp làm thành viên năm 1998.
Đối với tiến trình hợp tác á - âu (ASEM), chúng ta đã cùng các nước Châu á khác
tích cực tham gia Hội nghị cấp cao ASEM - 3 ở Seoul (Hàn Quốc) trong 2 ngày 20
- 21/10/2000. Chúng ta cũng đang tích cực chuẩn bị đàm phán để gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), một tổ chức mang tính toàn cầu mà việc tham gia là
thể hiện sự hội nhập với thế giới. Đồng thời, ta tích cực hợp tác với các tổ chức tài
chính quốc tế như WB, IMF nhằm tận dụng một cách có hiệu quả sự hợp tác của
các tổ chức đó phục vụ tiến trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của mình.
Việt Nam nằm trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, một khu vực phát triển
năng động và đạt được độ tăng trưởng cao hơn các khu vực khác. Các trung tâm
kinh tế trên thế giới, các nước lớn đều hướng trọng tâm hoạt động kinh tế, chính trị
vào khu vực này và xem đây là nơi chứa đựng nhiều yếu tố quyết định sự phát
triển của mình. Châu á- Thái Bình Dương chịu ảnh hưởng ngày càng lớn bởi các
mối quan tâm của các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Nga. Trong bối
cảnh đó, vị trí địa lý, kinh tế, chính trị của Việt Nam được các nước lớn ngày càng

coi trọng và dần trở thành một khâu quan trọng trong chiến lược toàn cầu hoá. Tuy
Việt Nam chưa phải là đối tượng hàng đầu trong chính sách Châu á- Thái Bình
Dương của Mỹ song một Việt Nam đổi mới, mở cửa, đa dạng hoá và đa phương
hoá quan hệ đối ngoại quả là một đối tượng hợp tác không thể thiếu trong cuộc tìm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
kiếm thị trường. Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam không muốn tụt hậu thì cần phải
thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế với các nước khác trên thế giới, đặc biệt là với
Mỹ- một siêu cường chi phối mạnh mẽ nền kinh tế toàn cầu.
Là một nước đang phát triển, có nền kinh tế chuyển đổi, tham gia hội nhập với
xuất phát điểm thấp hơn nhiều so với đa số các nước khác trong khu vực, vì vậy
tiến trình hội nhập quốc tế một mặt đang mở ra nhiều cơ hội cho chúng ta, mặt
khác cũng đặt ra nhiều thách thức lớn đòi hỏi sự nỗ lực vươn lên của các cấp các
ngành. Để hội nhập có hiệu quả, chúng ta phải ra sức tăng cường nội lực, thực hiện
những cải cách, điều chỉnh về cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ
cấu kinh tế trong nước để phù hợp với “luật chơi chung” của quốc tế. Chúng ta cần
coi cải cách trong nước và hội nhập quốc tế là “con đường hai chiều”. Cải cách
bên trong sẽ quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập quốc tế, đồng thời quá trình
hội nhập sẽ hỗ trợ và thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước có nhịp độ nhanh hơn
và hiệu quả cao hơn .
2. Tiến trình đàm phán ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ.
2.1.Kết quả đạt được qua các vòng đàm phán.
Đàm phán ký kết Hiệp định thương mại với Mỹ là một yêu cầu quan trọng nhằm
tạo môi trường pháp lý cho quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển và làm
tiền đề cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam được
thuận lợi hơn. Vấn đề cốt lõi của Hiệp định thương mại giữa hai nước cũng như
gia nhập WTO của Việt Nam là Mỹ dành cho Việt Nam Quy chế Quan hệ Thương
mại bình thường (NTR) trong quan hệ song phương hay đa phương. Mục tiêu cần
đạt được là hai nước sẽ dành cho nhau NTR trên cơ sở có đi có lại, không điều
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
kiện và không phải xem xét lại hàng năm. Hầu hết các quôc gia có quan hệ thương

mại với Mỹ đều được hưởng NTR. Quy chế này quy định các mức thuế thấp đánh
vào hàng nhập khẩu đã đạt được trong các vòng đàm phán về tự do thương mại.
Khi Việt Nam còn chưa được hưởng NTR thì hàng Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ
phải chịu thuế suất cao, làm cho hàng hoá Việt Nam bán trên thị trường Mỹ kém
hấp dẫn, thậm chí không có khả năng cạnh tranh với hàng hoá sản xuất tại Mỹ.
Tháng 10/1995, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam và Đại diện
thương mại Mỹ thoả thuận hai bên tập trung thúc đẩy quan hệ kinh tế- thương mại
và chuẩn bị đàm phán Hiệp định thương mại.
Tháng 11/1995, Đoàn Liên bộ Mỹ thăm Việt Nam để tìm hiểu hệ thống luật lệ
thương mại, đầu tư của Việt Nam.
Tháng 4/1996, Mỹ trao cho Việt Nam bản “Những yếu tố bình thường hoá quan hệ
kinh tế- thương mại với Việt Nam”.
Tháng 7/1996, Việt Nam trao cho Mỹ bản “Năm nguyên tắc bình thường hoá quan
hệ kinh tế- thương mại và đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ” đáp lại văn
bản nói trên.
Để ký kết được Hiệp định thương mại, Việt Nam và Mỹ đã tiến hành đàm phán
qua các vòng:
- Vòng 1 : Từ 2/9/1996 đến 26/9/1996 tại Hà Nội.
- Vòng 2 : Từ 9/12/1996 đến 11/12/1996 tại Hà Nội.
- Vòng 3 : Từ 12/4/1997 đến 17/4/1997 Mỹ trao cho Việt Nam văn bản dự thảo
Hiệp định đề cập đến các vấn đề như :
1. Quy định về giá và điều tiết giá.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2. Hệ thống thuế.
3. Các trợ cấp đối với mỗi lĩnh vực của nền kinh tế nhất là đối với nông nghiệp.
4. Chế độ đầu tư.
5. Cán cân thanh toán.
6. Thuế quan nhập khẩu, bao gồm tất cả thuế quan ưu đãi, phí hải quan, miễn thuế.
7. Các biện pháp tự vệ và các đền bù thương mại khác (Chống bán phá giá và thuế
đối kháng).

8. Giấy phép nhập khẩu.
9. Các công ty, doanh nghiệp nhà nước.
10. Tiêu chuẩn và chứng nhận hàng hoá nhập khẩu, các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ.
11. Hoạt động đối ngoại.
12. Hệ thống thống kê và phát hành các ấn phẩm về ngoại thương.
13. Hệ thống bảo hộ quyền tác giả.
14. Các bước tự do hoá thương mại trong tương lai được thể hiện trong các
quy định và các bộ luật của quốc gia
- Vòng 4 : Từ 6/10/1997 đến 11/10/1997 tại Washington, sơ bộ trao đổi về
những quy định chung và chương Thương mại hàng hoá trong Hiệp định.
- Vòng 5 : Từ 16/5/1998 đến 22/5/1998 tại Washington.
- Vòng 6 : Từ 15/9/1998 đến 22/9/1998 tại Hà Nội.
- Vòng 7 : Từ 15/3/1999 đến 19/3/1999 tại Hà Nội.
Tại các vòng đàm phán 5, 6, 7 hai bên tập trung trao đổi tổng thể về Thương mại
hàng hoá, Sở hữu trí tuệ, Thương mại dịch vụ và Đầu tư.
- Vòng 8: Từ 14/6/1999 đến 18/6/1999 tại Washington.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Vòng 9 : Từ 23/7/1999 đến 25/7/1999 tại Hà Nội, gặp mặt cấp Bộ trưởng- Hiệp
định đã được thoả thuận về nguyên tắc.
- Vòng 10 : Từ 28/8/1999 đến 2/9/1999 tại Washington, xử lý các vấn đề về kỹ
thuật.
- Vòng 11: 3/7/2000 tại Washington, hoàn tất Hiệp định.
Sau 6 vòng đàm phán đầu tiên, nhìn chung các vấn đề cơ bản của một Hiệp định
thương mại đã được đưa ra đàm phán và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ
sau:
+ Các bên cơ bản thống nhất được các lĩnh vực quan trọng là dựa trên các chuẩn
mực của WTO để đưa ra dự thảo Hiệp định như chương về Thương mại hàng hoá,
Sở hữu trí tuệ, tuy nhiên có một số vấn đề có thể mở rộng hơn WTO nhưng đang
bàn ở diễn đàn khác như Đầu tư.
+ Các bên qua thời gian giải thích về chính sách hiện hành cuả mình đã hiểu biết

nhau hơn và đã có thể đánh giá được mức độ cam kết sẽ được các bên chấp nhận ở
mức độ nào nhưng chưa thể đi đến những kết luận cụ thể vì những vấn đề còn
khác nhau thường phải do cấp cao quyết định còn ở cấp chuyên viên chưa thể
quyết định được.
+ Các bên đã đưa ra dự thảo của mình với quy mô khác nhau nhưng cũng ở mức
hàng trăm trang (nếu kể cả các phụ lục thì dài hơn nhiều) và dựa trên cơ sở đó để
so sánh và tiến hành đàm phán rõ quan điểm của nhau.
Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các công ty Mỹ ở Việt Nam, quy chế Đối
xử quốc gia trong thương mại dịch vụ và đầu tư, mức độ mở cửa thị trường cho
hàng hoá của nhau là những nội dung chính của vòng đàm phán thứ 6 ở cấp
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chuyên viên. Tại vòng đàm phán này nhiều nội dung đã được làm rõ và tuy vẫn
còn nhiều sự khác biệt, hai bên cũng đã thoả thuận được một số vấn đề cụ thể. Bên
Việt Nam đồng ý thực hiện hầu hết những quy định của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), trừ vấn đề thuế nhập khẩu, nhưng không thể đồng ý với yêu cầu của
phía Mỹ muốn Việt Nam bãi bỏ ngay những chính sách không phù hợp với những
quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Khu vực tự do mậu dịch
ASEAN (AFTA) như chế độ hạn ngạch, hàng rào phi quan thuế và áp dụng ngay
những quy định đó trong quan hệ thương mại với Mỹ, trước khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của hai tổ chức này.
Tại vòng đàm phán thứ 7, hai đoàn tập trung trao đổi những vấn đề quan trọng
nhất còn lại chưa xử lý được trong các vòng đàm phán trước nằm ở các chương “
Phát triển Quan hệ đầu tư”, “ Thương mại dịch vụ”, “ Thương mại hàng hoá” và “
Sở hữu trí tuệ”. Cuộc đàm phán đã đạt được kết quả tốt đẹp. Phần lớn các vấn đề
nêu ra đã tìm được tiếng nói chung, khoảng cách giữa hai bên đã được thu hẹp. Hai
đoàn hài lòng với kết quả đàm phán. Tuy nhiên, hai đoàn cũng ghi nhận còn một
số vấn đề thuộc lĩnh vực quyền thương mại và dịch vụ mà hai bên sẽ xem xét và
thảo luận tiếp để có thể sớm đi đến ký kết Hiệp định thương mại nhằm thúc đẩy
quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế- thương mại, tăng cường trao đổi phát
triển hàng hoá và hợp tác đầu tư giữa hai nước.

Nội dung của vòng đàm phán thứ 8 là giải quyết các vấn đề còn tồn tại từ vòng
trước. Cả hai bên đều tỏ thái độ thiện chí và cố gắng nhằm giải quyết những vướng
mắc còn tồn đọng. Theo các thành viên đoàn Việt Nam, những vấn đề còn lại tuy
không nhiều nhưng lại nằm rải rác ở mỗi chương, nhưng đây lại là những vấn đề
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
khó nhất. Dư luận Mỹ, đặc biệt là giới doanh nghiệp Mỹ rất quan tâm ủng hộ việc
ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước. Họ đã tổ chức viết thư lên các nghị sỹ
Quốc hội Mỹ kiến nghị đẩy nhanh quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế với
Việt Nam, điều này góp phần cải thiện bầu không khí quan hệ giữa hai nước.
Quyết định miễn áp dụng Đạo luật bổ sung Jackson- Vanik đối với Việt Nam là
một dấu hiệu tốt cho việc phát triển mối quan hệ Việt- Mỹ, nhất là trước vòng đàm
phán thứ 8. Tại cuộc đàm phán lần này, phía Việt Nam đã đưa ra nhiều đề xuất
mới đối với các vấn đề còn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực của dự thảo Hiệp định
này như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại hàng hoá. Các vấn đề do phía
Việt Nam đưa ra đều được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) và chuẩn mực quốc tế. Phía Việt Nam đã đưa ra một
lộ trình hợp lý để thực hiện các nguyên tắc của WTO trong bối cảnh Việt Nam là
một nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Ông Nguyễn Đình Lương, Trợ lý Bộ trưởng Thương mại, Trưởng đoàn đàm phán
Việt Nam khẳng định rằng các đề xuất nói trên thể hiện nỗ lực cao nhất của Việt
Nam để tiến tới kết thúc quá trình đàm phán và ký Hiệp định thương mại giữa hai
nước, thể hiện đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hội nhập
kinh tế thế giới, tạo điều kiện để Việt Nam phát huy cao độ nội lực, nhằm xây
dựng một nền kinh tế vững mạnh. Ông Nguyễn Đình Lương tỏ ý mong muốn phía
Mỹ thể hiện sự hiểu biết thực sự và có đánh giá đầy đủ hơn về những nỗ lực của
phía Việt Nam trong các đề xuất được đưa ra tại vòng đàm phán này, để có thể
sớm kết thúc đàm phán và tiến tới ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước
trong thời gian sớm nhất. Hai bên đã thu hẹp đáng kể nhiều vấn đề tồn tại, tạo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ thương mại giữa hai nước nhưng vẫn

còn một số vấn đề quan trọng chưa được giải quyết như dịch vụ ngân hàng, bảo
hiểm Đại sứ Mỹ Pete Peterson cho rằng những cơ sở tài chính ở Việt Nam hiện
nay vẫn còn rất non nớt và phải khá lâu nữa mới có thể sánh ngang hàng với những
hệ thống tài chính quốc tế. Chính vì thế, Mỹ đòi hỏi Việt Nam phải củng cố các cơ
sở tài chính trong nước để có thể cạnh tranh trên thương trường quốc tế cũng như
thoả mãn những đòi hỏi trong nước. Như vậy, trong tương lai, Việt Nam sẽ phải
cho phép những cơ sở tài chính cũng như các hãng bảo hiểm của nước ngoài vào
làm ăn tại đây.
Qua 11 vòng đàm phán, hai bên đều thể hiện sự quyết tâm thúc đẩy nhanh tiến
trình đàm phán ký kết Hiệp định thương mại. Cả Việt Nam và Mỹ đều bày tỏ sự
quan tâm tới quá trình bình thường hoá quan hệ về kinh tế vì các doanh nghiệp của
cả hai phía đang mong đợi điều này. Tuy nhiên không phải vì lợi ích trước mắt mà
bỏ qua những lợi ích lâu dài nên các bên vừa quyết tâm đàm phán vừa phải bảo vệ
lợi ích lâu dài của mình.
Ngày 13/7/2000 tại Washington (tức ngày 14/7/2000 giờ Việt Nam), Bộ trưởng
Thương mại Việt Nam Vũ Khoan và bà Charlene Barshefsky, Đại diện thương mại
thuộc phủ Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã thay mặt Chính phủ hai nước
ký Hiệp định giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ về quan hệ thương mại, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ kinh
tế thương mại giữa hai nước, kết thúc một quá trình đàm phán lâu dài và kiên trì.
Hiệp định được ký đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 5 ngày thiết lập quan hệ ngoại
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
giao giữa hai nước, đã hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế- thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
2.2 . ý nghĩa của Hiệp định.
Sau sự kiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết, giới báo chí và doanh
nhân của cả hai nước đều tỏ ý vui mừng trước những nỗ lực mà hai phía đã đạt
được trong suốt 4 năm liền đàm phán bền bỉ. Hiệp định được ký kết dựa trên các
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng và cùng có lợi, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế và các

nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), có tính đến Việt Nam là một
nước đang phát triển ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh
tế và đang hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Hiệp định có hiệu lực (sau
khi được Quốc hội của hai nhà nước phê chuẩn) sẽ đánh dấu việc bình thường hoá
hoàn toàn quan hệ Việt- Mỹ, tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ kinh tế - thương mại
hai nước phát triển trên cơ sở cân bằng lợi ích, phù hợp với mong muốn của nhân
dân hai nước.
Cho đến nay, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với trên 60 nước và Thoả
thuận về quy chế Tối huệ quốc với hơn 70 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Tuy nhiên, đối với nước ta đây là lần đầu một Hiệp định thương mại mang tính
chất đồng bộ, đề cập một cách toàn diện tới các lĩnh vực kinh tế- thương mại hàng
hoá, dịch vụ, đầu tư, bản quyền, sở hữu trí tuệ được ký kết.
Việc ký kết Hiệp định thương mại Việt- Mỹ vừa là kết quả vừa tạo thêm điều kiện
để tiếp tục triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương
hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Chắc chắn Hiệp định sẽ tạo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×