Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Để hiểu thêm “chủ nghĩa hiện thực vĩ đại” của G. Lukacs docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.08 KB, 9 trang )

Để hiểu thêm “chủ nghĩa
hiện thực vĩ đại” của G.
Lukacs
Nhưng G. Lukacs lại có cách lý giải khác. Theo thống kê của R. Wellek
trong tác phẩm của G. Lukacs đã có 1032 lần trích dẫn câu của Mác “Không
phải ý thức của con người quyết định tồn tại của con người, mà trái lại, tồn tại
xã hội của con người quyết định ý thức của con người ”. Có thể thấy, với G.
Lukacs giờ đây quan trọng nhất không phải là ý thức xã hội, mà tất cả là từ tồn
tại xã hội. Chính vì thế mà ông đã lí giải chủ nghĩa hiện thực của Balzac cùng
nhận định của Anghen về nó như sau: “Thế giới quan và thái độ chính trị của
các nhà văn hiện thực vĩ đại, nghiêm chỉnh dường như là việc không quan
trọng lắm. Trên một mức độ nhất định quả thực là như vậy. Bởi vì, không kể
quan điểm nhận thức của tôi, hoặc xét từ quan điểm lịch sử và tương lai, cấp
thiết nhất vẫn là bức tranh mà tác phẩm miêu tả ra, còn như vấn đề bức tranh
có phù hợp với tác giả đến mức độ nào, đều là sự việc thứ yếu. Điều này tự
nhiên làm cho chúng tôi suy nghĩ đến một vấn đề mỹ học quan trọng. Trong khi
luận bàn về Balzac, Anghen đã xem vấn đề này là sự thắng lợi của chủ nghĩa
hiện thực, như thế là đã thâm nhập vào một vấn đề thực sự gốc rễ của sáng
tác nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Vấn đề này đã tiếp cận được thực chất
của chủ nghĩa hiện thực chân chính: khát vọng chân lý của các nhà văn vĩ đại,
sự truy tìm cuồng nhiệt của ông ta đối với hiện thực hoặc nói theo thuật ngữ
của luân lý học thuật, đó là sự chân thành và chính trực của nhà văn. Một nhà
văn hiện thực vĩ đại như Balzac, thì giả sử như sự phát triển nghệ thuật bên
trong những cảnh và người do ông sáng tạo ra lại phát sinh xung đột với
những thiên kiến thân thiết nhất của mình, thậm chí cả với những niềm tin thần
thánh bất khả xâm phạm, thì lập tức ông ta có thể không chút do dự vứt hết
những thiên kiến và niềm tin ấy, để miêu tả những sự vật mà thực sự nhìn thấy,
chứ không phải miêu tả những sự vật mà ông ta tâm niệm muốn thấy được.
Thái độ vô tình đối với bức tranh thế giới chủ quan của mình như vậy là dấu
hiệu ưu việt của tất cả các nhà văn hiện thực vĩ đại” (Nghiên cứu của
chủ nghĩa hiện thực châu Âu).


Thật ra trong phát biểu này của G. Lukacs, chủ nghĩa hiện thực cũng
không thoát khỏi thế giới chủ quan của nhà văn, thoát khỏi một lĩnh vực ý thức,
đó là đạo đức luân lý kết tinh trong tính trung thực và lòng chính trực. Tuy
nhiên, khẳng định chủ nghĩa hiện thực vô quan với thế giới quan vẫn là chuyện
không bình thường trong quan niệm “chủ nghĩa hiện thực vĩ đại” của G. Lukacs
trên cơ sở phản ảnh luận Lênin được hình thành trong những năm tháng sinh
sống và nghiên cứu ở Liên Xô. Nhưng chính là bối cảnh này sẽ là chìa khoá
giúp giải mã chỗ không bình thường nói trên. Thật ra trong giai đoạn sống ở
Liên Xô 1930-1945 (trừ các năm 1931-1933 sang làm việc ở Đức) sinh mệnh
tư tưởng và học thuật của G. Lukacs cũng có những bước thăng trầm. Năm
1930 khi G. Lukacs mới đặt chân sang Liên Xô, thì giới văn học nơi đây đang
hoành hành bởi tư tưởng nghệ thuật của Hội Nhà văn vô sản Nga. Họ phủ
nhận di sản cổ điển, cắt đứt quan hệ máu thịt giữa nền văn học cách mạng
hiện đại với truyền thống văn học Nga, kêu gọi đả đảo, thiêu huỷ các kiệt tác
của văn học Nga trong thế kỷ XIX. Họ cho rằng các nhà văn cổ điển bị chi phối
bởi thế giới quan của giai cấp thống trị, cho nên tác phẩm của họ tất yếu vốn
đã là xuyên tạc hiện thực. Cùng với học giả Xô Viết M. Lipsix, G. Lukacs đã
góp phần đắc lực trong cuộc đấu tranh chống lại bệnh xã hội học dung tục trầm
trọng này. Triển khai luận điểm “sự thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa hiện thực”
của Anghen, kết hợp với việc khảo sát các nhà văn cổ điển từ Homere, qua
Shakespeare, đến Balzac và Tolstoi, G. Lukacs đã khái quát đặc điểm chung
của họ là sự trung thực và lòng chính trực, chứ không phải là thế giới quan và
quan điểm chính trị tiến bộ, vô hình trung đã có ý nghĩa tích cực trong cuộc đấu
tranh này.
Đến năm 1934, như là một phần kết quả của cuộc đấu tranh bệnh xã hội
học dung tục, nhất là với cái gọi là “phương pháp sáng tác duy vật biện chứng”,
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã chính thức được ghi vào Điều lệ Hội
Nhà văn được thông qua tại Đại hội nhà văn Liên Xô lần thứ nhất, hiển nhiên là
lúc đầu G. Lukacs rất ủng hộ. Mãi sau này vào năm 1958, nghĩa là ngay trong
giai đoạn phi Stalin – hoá, G. Lukacs vẫn viết: “Qua lần Đại hội này, mà trước

hết là qua báo cáo của M. Gorki, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã
được khẳng định, đó là kết quả của những cuộc thảo luận và đấu tranh với một
số nhóm phái trong nhiều năm trước đó”(12). Nhưng rồi sự giải thích và quán
triệt về sau đối với chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa bị phân hoá. Thế nào
là thật sự đúng đắn trong việc giải thích và quán triệt bao giờ cũng khó và hiếm,
và tựu trung vẫn có hai phái thiên tả và thiên hữu. Phái tả núp dưới bóng Stalin,
chủ trương nhà văn phải ra sức rèn luyện nhân sinh quan cộng sản, thấm
nhuần đường lối chính sách của Đảng, thì tác phẩm mới có thể “giáo dục chủ
nghĩa cộng sản cho nhân dân lao động” (xin lưu ý đây vốn là một vế trong định
nghĩa về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, đến Đại hội Nhà văn Liên Xô
lần thứ hai vào năm 1954 mới bị tước bỏ). Được hình dung theo biệt ngữ, thì
đây là “phái nhờ vào” (Blagađarist), (ý nói nhờ vào tư tưởng tiên tiến sẽ viết
được tác phẩm ưu tú) tập hợp chung quanh tờ Văn học do Fadeev làm hậu
thuẫn và chiếm địa vị chính thống trên văn đàn. Đối trọng trở lại là “phái bất kể”
(Vaprekist), mà G. Lukacs là một nòng cốt, chủ trương “bất kể” thế giới quan
nhà văn như thế nào, miễn là phải chính trực và trung thực phản ảnh cuộc
sống thì có thể sáng tạo ra những kiệt tác. Phái này tập hợp chung quanh tờ
Bình luận văn học, dấy lên những “làn sóng” rồi “làn sóng mới” vào nửa sau
những năm 30 trên văn đàn Liên Xô. Và bản thân G. Lukacs tiếp tục phát huy
quan niệm “chủ nghĩa hiện thực vĩ đại” của mình trong những công trình như
Chủ nghĩa Mác và lý luận văn học thế kỷ XIX (1937), Lịch sử chủ nghĩa hiện
thực (1939) và liền bị xem là đi ngược lại tinh thần cộng sản trong chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa. Từ tháng 11 năm 1939 đến tháng 3 năm 1940,
cũng như M. Lipsix, người tiêu biểu cho “làn sóng mới”, G. Lukacs đã rơi vào
vòng xoáy của những đợt phê phán trên văn đàn Xô Viết. Và sau khi có nghị
quyết “Về phê bình văn học và sách báo” của Trung ương Đảng Cộng sản Liên
Xô, thì tờ Bình luận văn học bị đình bản từ số 13 năm 1940. G. Lukacs lại một
lần nữa phải tự phê bình, tất nhiên ông vẫn giữ quan niệm của mình mãi về
sau này. Có thể thấy quan niệm của “chủ nghĩa hiện thực vĩ đại” của G. Lukacs
chính là đã hình thành qua sự cọ xát, đấu tranh với bệnh xã hội học dung tục

nói chung và với việc giải thích và quán triệt tả khuynh đối với chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa ngay trên văn đàn Xô Viết. Điều này về sau, chính G.
Lukacs cũng đã nói rõ: “Từ những năm 30 trước đây, việc nghiên cứu chủ
nghĩa hiện thực cổ điển của Goethe, Balzac, Tolstoi, chính là để đấu tranh với
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”(13). Và đến cuối đời, ông lại nói: “Không
nên quên lần đầu tiên công bố bức thư của Anghen về vấn đề Balzac thời ấy.
Chúng tôi kiên quyết phủ nhận hình thái ý thức có thể trở thành tiêu chí về
thành tựu mỹ học của tác phẩm nghệ thuật - đó là quan điểm hoàn toàn đối lập
với chủ nghĩa Stalin, nhưng cũng không gây ra hậu quả gì nghiêm trọng.
Chúng tôi cho rằng, dù hình thái ý thức rất tồi, như chủ nghĩa bảo hoàng của
Balzac, cũng có thể sản xuất ra văn học rất tốt. Trái lại mà nói, hình thái ý thức
rất tốt, lại có thể sản sinh ra văn học tồi (Tự truyện). Cho nên quan niệm “chủ
nghĩa hiện thực vĩ đại” của G. Lukacs, chí ít vẫn có ý nghĩa tích cực ở chỗ biện
hộ cho những nhà văn trung thực và dũng cảm dị ứng với chủ nghĩa Stalin
trong thời Xô Viết. Không phải ngẫu nhiên mà G. Lukacs đã công bố vào năm
1970 (nghĩa là đã viết nhiều năm trước đó) một chuyên luận về Solschenizyn.
Cầu lưu ý rằng tất cả những nhà mỹ học mác-xít phương Tây như R.
Garaudy, E. Fischer, H. Lefèbvre, v.v đều không tán thành chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa. Cho nên nói quan niệm “chủ nghĩa hiện thực vĩ đại” của
G. Lukacs có yếu tố mác-xít phương Tây là vì vậy. Nhưng chỉ là yếu tố thôi, bởi
vì nói chung, tuy ở mức độ khác nhau, nhưng các nhà lý luận mác-xít phương
Tây đều biện hộ cho chủ nghĩa hiện đại, nhưng G. Lukacs thì không. Giáo sư
người Anh D. Maclannan cho rằng về mỹ học, G. Lukacs “có ý đồ giữ lập
trường trung gian giữa chủ nghĩa duy tâm chủ quan mà ông cho là suy đồi với
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa Xô Viết quá ư giản đơn”(14). Cho nên
cũng có thể nói cụ thể hơn rằng “chủ nghĩa hiện thực vĩ đại” của G. Lukacs là
đứng giữa chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa hiện đại. Như
thế ông bị kẹt giữa hai làn đạn truy kích về tội vừa giáo điều vừa xét lại là
không có gì lạ.
Ở trên chúng tôi có sử dụng thuật ngữ mác-xít chính thống là cách hình

dung của một thời đã qua. Nhưng ngay bây giờ đây chủ nghĩa Mác chính
thống cũng phải được đổi mới, kể cả việc đổi mới trong một số cách nhìn cho
là xét lại đối với chủ nghĩa Mác phương Tây trước đây. Nhưng đổi mới không
có nghĩa là nói ngược một cách giản đơn, cái gì trước đây khẳng định thì bây
giờ phủ định hoặc ngược lại. Thật ra, theo chúng tôi, ngày nay nhìn lại, ngoài
những kiến giải đáng trân trọng, quan niệm “chủ nghĩa hiện thực vĩ đại” của G.
Lukacs vẫn có những điểm yếu của nó mà trước hết là việc ông phủ nhận
hoàn toàn chủ nghĩa hiện đại, không thấy có thể hấp thu những yếu tố khả thủ
của nó để làm phong phú thêm thi pháp của chủ nghĩa hiện thực là một biểu
hiện khá rõ. Tất nhiên không kể nhiều nhà mác-xít phương Tây quá thiên về
chủ nghĩa hiện đại, nhưng đúng mực nhất là B. Brecht vẫn kiên trì chủ nghĩa
hiện thực, nhưng cũng đã thẳng thắn ghi nhận những thành tựu của chủ nghĩa
hiện đại ngay những năm 30, thì chứng tỏ G. Lukacs thiếu sự nhạy cảm kịp
thời về mặt này.
Mặt khác, việc ông khái quát đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực vĩ đại một
cách phi ý thức hệ, không liên quan gì đến hình thái ý thức cũng là phiến diện,
và mâu thuẫn, bởi vì ông cho rằng các nhà văn hiện thực vĩ đại chỉ cần chân
thành và chính trực về mặt luân lý, nghĩa là một yêu cầu rất cao về mặt đạo
đức, nhưng chính đạo đức cũng thuộc lĩnh vực của hình thái ý thức rồi. Nhưng
đạo đức tốt mới là tiền đề, chưa đủ đẻ ra được kiệt tác. Chân thành và chính
trực, nghĩa là có thiện tâm và dũng khí nhìn thẳng vào sự thực, nhưng có nhìn
đúng được sự thực, rồi có biểu hiện được sự thực đó hay không, thì còn phải
có quan điểm và phương pháp tư tưởng nữa, nghĩa là đạo đức không thể tách
rời với thế giới quan, với hình thái ý thức rồi. Còn như nói: “Hình thái ý thức rất
xấu như chủ nghĩa bảo hoàng của Balzac, vẫn có thể đẻ ra văn học rất tốt” là
không toàn diện. Chủ nghĩa bảo hoàng chỉ là ý thức chính trị, chứ chưa phải
toàn bộ hình thái ý thức. Vả chăng nếu đi sâu vào tư tưởng chính thống của
Balzac sẽ thấy chủ nghĩa bảo hoàng của ông là chủ trương phải có được
hoàng đế khai minh ủng hộ việc phát triển khoa học kỹ thuật. Vả chăng việc
ông tuyên bố nguyện làm người thư ký trung thành của thời đại, việc ông nhìn

thấy được vận mệnh và tương lai của cả hai thế lực suy tàn và vươn lên như
Anghen đã nhận xét, cũng là nằm trong phạm vi tư tưởng của Balzac. Còn cho
rằng “Hình thái ý thức rất tốt, cũng có thể đẻ ra văn học xấu”, nếu đúng
thì nhiều lắm cũng một nửa thôi, tức là ý thức tốt, tốt đích thực, vẫn cứ sản
xuất ra tác phẩm xoàng, không hay, chứ không thể là tác phẩm xấu. Tác phẩm
xấu, lạc hậu, chỉ có thể là con đẻ của một loại ý thức tương ứng. ở đây quả là
G. Lukacs quên nói thêm rằng tác hại của ý thức không tốt đối với sáng tác
nghệ thuật, một điều mà trong khi luận chứng những vấn đề cụ thể ông đã
quán triệt. Phủ nhận hoàn toàn chủ nghĩa hiện đại là không đúng, tuy nhiên
mặt tiêu cực trong chủ nghĩa hiện đại cũng là một thực tế. Nguồn gốc của mặt
tiêu cực đó, G. Lukacs đã khẳng định là bắt nguồn từ tư tưởng, từ cách nhìn
đời bi quan bế tắc. So sánh giữa T. Man với F. Kafka, ông đã khái quát như
sau: “Sự lựa chọn đặt ra cho con người ngày nay là thế này: Tiếp cận mối lo
sợ hay xa lánh nó, vĩnh viễn hoá nó hay khắc phục nó, chỉ coi nó là một xúc
cảm như mọi xúc cảm khác, trong hàng loạt xúc cảm vô cùng đa dạng tạo nên
đời sống bên trong, hay thừa nhận cho nó là cái cơ bản quyết định của thân
phận con người… Điều rất rõ ràng là, trước khi lựa chọn như thế giữa hai thái
độ, thì đã phải trả lời một câu hỏi đặt ra trước: Con người tự quan niệm bản
thân mình là nạn nhân bất lực siêu nhiên không thể biết hay không thể địch
được, hoặc không phải thế, mà là thành viên chủ động của một tập thể con
người, trong đó nó phải đóng vai trò của nó, hữu hiệu ít hay nhiều, nhưng…
bao giờ cũng tác động lên vận mệnh của nhân loại”(15). Như thế Lukacs có
thấy rõ vai trò của tư tưởng, cách nhìn đời của nhà văn quan trọng như thế nào
rồi. Cho nên dường như trên vấn đề này, G. Lukacs có thể vì né tránh không
muốn chĩa mũi dùi trực diện, chí ít ra cũng là không diễn đạt hết ý mình, hoặc
nói sát đúng hơn là không khái quát hết những khía cạnh tiềm ẩn trong quan
niệm của mình. Chống lại bệnh xã hội học dung tục nói chung hay mặt trái
trong chủ nghĩa Stalin nói riêng, thì tất nhiên rất cần sự trung thực và chính
trực, nhưng không phải chỉ là câu chuyện luân lý đạo đức, mà trước hết là vấn
đề tư tưởng. Bởi một lẽ giản đơn căn bệnh ấy, mặt trái ấy, trước hết là câu

chuyện quan điểm và phương pháp tư tưởng. Đương đầu với nó, do đó, cũng
chính là đấu tranh tư tưởng. Trung thực và chính trực chính là phương diện
luân lý phục vụ cho cuộc đấu tranh tư tưởng ấy, cho nên nó cũng thấm nhuần
hoặc ẩn chứa tính chất tư tưởng, chứ không phải chỉ là câu chuyện thuần tuý
luân lý. Mà nói cho cùng giữa các lĩnh vực hình thái ý thức như đạo đức, triết
học, chính trị với đạo đức, và giữa tất cả chúng với văn học nghệ thuật bao giờ
cũng có sự gắn bó và chuyển hoá lẫn nhau. ở đây cũng cần lưu ý thêm rằng,
G. Lukacs tuy rằng tổng kết những bài học của các nhà văn cổ điển (Balzac,
Tolstoi, v.v…), mà sự nghiệp đã hoàn kết, nhưng là để đối thoại với văn giới
hiện đại còn đang đi trên con đường sáng tạo, lại càng phải nêu rõ mối liên hệ
toàn diện nói trên, chứ không chỉ nhấn mạnh riêng bất cứ khía cạnh nào.
Tuy nhiên, nếu thừa nhận rằng trong quan niệm lý thuyết của G.
Lukacs có tiềm ẩn những khía cạnh liên đới mà ông chưa khái quát toàn diện,
thì ý kiến của ông cho rằng đối với văn học nói chung, với chủ nghĩa hiện thực
nói riêng, tính trung thực và lòng chính trực của nhà văn là tối quan trọng vẫn
có ý thức thực tiễn tích cực từ cả hai mặt nghiên cứu lẫn sáng tác văn học.
Nghiên cứu dù là quá khứ hay hiện tại, nhưng đều là đối với những cái đã là
thành phẩm rồi, thì chỉ cần xem bức tranh bằng lời mà tác giả vẽ ra có đúng
với thế sự và nhân tâm không là đủ, không cần lấy việc truy xét thế giới quan
và ý thức tư tưởng của tác giả làm tiền đề. Còn đối với người đang trên đường
sáng tác, thì nếu gặp hoàn cảnh mà tư tưởng chính thống hoàn toàn phù hợp
với thực tế khách quan và quyền lợi của nhân dân, thì như cá gặp nước rồi.
Nhưng trong trường hợp ngược lại, thì phải viết với tính trung thực và lòng
chính trực trước, và tất nhiên tự mình phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và
lịch sử. Đối với chủ nghĩa Mác Lênin cũng vậy thôi, bởi vì trước hết như Lênin
đã nói: “Chúng ta hoàn toàn không xem lý thuyết của Mác là cái gì tuyệt đỉnh
và không thể vượt qua được. Ngược lại, chúng ta khẳng định rằng, nó chỉ đặt
viên đá tảng cho khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa còn phải tiếp tục
đẩy tới mọi hướng nếu họ không muốn lạc hậu trước cuộc sống”(16). Thứ nữa
là, ngay với những chân lý tuyệt đối của chủ nghĩa Mác–Lênin, thì sự vận dụng

trong đường lối chính sách của các Đảng công nhân, mà thực tiễn hàng trăm
năm qua cũng chứng tỏ không phải lúc nào cũng tuyệt đối đúng đắn. Cho nên
trong những tình huống như vậy, nhà văn không nên bị hoặc tự bắt buộc phải
có ý thức tư tưởng theo đúng những đường lối chính sách đó. Tất nhiên nhà
văn cũng không nên bị hoặc tự bắt buộc chuyển nghề sang hoạt động chính trị
thực tiễn. Trung thành với thiên chức của mình là tiếp tục sáng tạo ra những
giá trị xã hội – thẩm mỹ, nhà văn chỉ cần phải trung thực và chính trực trong
những bức tranh nhân thế mà mình vẽ ra, và chịu trách nhiệm trước xã hội. Đó
phải chăng là hạt nhân hợp lý trong quan niệm về “chủ nghĩa hiện thực vĩ đại”
có yếu tố đề kháng với tính chất Stalin ít trong việc quán triệt chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô trước đây.
Bàn về công việc của nhà sáng tác là như vậy, nhưng ngay sự “sáng tác”
của chính nhà lý luận phê bình càng phải như vây. Tính trung thực và lòng
chính trực của cả nhà sáng tác và cả nhà lý luận phê bình theo chủ nghĩa Mác
như thế này thật ra là bắt gặp cái đặc điểm cao quý của kẻ sĩ cổ kim Đông Tây
mà nhân loại đã đúc kết là “tính trung thực trí thức” (probité intellectuelle). Và
cả cuộc đời tư tưởng học thuật của G. Lukacs đã nêu gương sáng về mặt này.
Ông trung thực và chính trực với mình, với đời. Ông nhận rõ về cơ bản sai lầm
trong Lịch sử và ý thức giai cấp, nhưng đến cuối đời ông vẫn không nhận rõ
thiếu sót trong việc phủ nhận hoàn toàn chủ nghĩa hiện đại. Và tuy ông cũng có
đôi lần tự kiểm điểm trước sự quy kết là xét lại đối với lý luận hiện thực xã hội
chủ nghĩa, nhưng ngày càng chứng tỏ chân lý thuộc về ông. Song tất cả các
biểu hiện khác nhau đó đều bắt nguồn từ lòng trung thành của ông đối với chủ
nghĩa Mác và lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Cho nên không lấy gì làm lạ là từ chỗ
xuất thân trong một gia đình bố là chủ ngân hàng, mẹ thuộc dòng dõi quý tộc,
ông trở thành một thành viên Lãnh đạo của Đảng Cộng sản, rồi lại nhiều lần bị
phê phán, thậm chí bị khai trừ, nhưng lúc “cái quan” vẫn được “định luận” là
“đại biểu kiệt xuất của tư tưởng Mác–Lênin, vĩ nhân của thế kỷ XX”./.


×