quản trị đề nghị bộ trưởng quản lý và bộ trưởng, trưởng ban tổ chức cán bộ Chính
phủ trình. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng công ty và chịu trách
nhiệm trước hội đồng quản trị, Thủ tướngChính phủ và pháp luật điều hành hoạt
động của công ty. Tổng giám đốc được trợ giúp bởi 3 Phó tổng giám đốc và ban
tham mưu
+ Một Phó tổng giám đốc phụ trách việc xây dựng cơ bản, một Phó tổng giám đốc
khoa học nông nghiệp, một phó Tổng giám đốc phụ trách sản xuất tại Tây Nguyên.
+Ban tham mưu gồm:
Văn phòng: Chuyên tổng hợp tình hình chung của Tổng công ty
Ban tổ chức cán bộ thanh tra: Tiến hành sắp xếp và bố trí tổ chức bộ máy sản xuất
hoạt động kinh doanh, xây dựng quy chế và quản lý nội bộ.
Ban tài chính kế toán: Quản lý nguòn tài chính và quản lý nguồn thu chi, tổng hợp
phân tích hoạt động kinh tế tài chính trong sản xuất kinh doanh. Xây dựng cơ sở
hạch toán kinh doanh về giá cả, tỷ giá xuất nhập khẩu và các định mức trong sản
xuất kinh doanh.
Ban kinh doanh tổng hợp: Điều hành công tác kinh doanh xuất nhập khẩu, tìm
kiếm, khai thác và mở rộng thị trường xuất nhập khẩu. Phụ trách về các quan hệ
quốc tế, khai thác khả năng đầu tư nước ngoài.
Ban khoa học và công nghệ:
Ban kế hoạch và đầu tư: Xây dựng các kế hoạch sản xuất và kinh doanh, các dự án
đầu tư, thu mua cà phê ở các tỉnh phía Bắc để kinh doanh xuất khẩu. Tập hợp tình
hình về sản xuất và kinh doanh cây cà phê.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2. Thực trạng xuất khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam vào thị trường
EU
EU là một thị trường xuất khẩu tiềm năng của cà phê Việt Nam. Điều này được thể
hiện ở chỗ EU là một trong những thị trường tiêu thụ cà phê lớn trên thế giới, có
nhu cầu đa dạng về mặt hàng này. Hơn nữa EU là một khu vực kinh tế phát triển ốn
định, có đồng tiền chung Euro, mức tiêu thụ ở thị trường này lớn. Vì thế vị thế của
EU ngày càng được nâng cao trên thị trường quốc tế. Đăc biệt khi EU mở rộng
thêm 10 thành viên đã tác động tích cực về quan hệ kinh tế thượng mại giữa EU và
các nước đang phát triển. Việc hoà nhập các tiêu chuẩn chung trên khắp châu âu
như việc giảm thuế nhập khẩu, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, áp dụng những quy định
chung về thuế quan, cạnh tranh đã tạo điều kiện cho hàng hoá các nước đang phát
triển nói chung và Việt Nam nói riêng vào thị trường EU thuận lơi hơn.Tuy nhiên
EU là thị trường khó tình, yêu cầu chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm cao.
Nếu đảm bảo yêu cầu trên thì sản phẩm đẽ dàng vào thị trường EU cũng như sản
phẩm mặc nhiên đạt được những sản phẩm quốc tế và dễ dàng nhập khẩu vào thị
trường khó tính khác.
2.1. Kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty cà phê Việt Nam
Tổng công ty cà phê Việt Nam là một doanh ngiệp nhà nước lớn, đứng đầu trong
ngành cà phê. Hàng năm Tổng công ty đã thực hiện sản xuất tạo nguồn hàng, kinh
doanh xuất khẩu mặt hàng cà phê. Tổng công ty đã đạt được những thành công lớn,
hàng năm thu về một nguồn ngoại tệ khá lớn chiếm từ 20-30% kim ngạch cả nước.
Bảng kim ngạch xuất khẩu của VINACAFE
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Kim ngạch xuất khẩu của Vinacafe (Triệu USD) 72,2
Mức độ tăng giẩm( %) 47,8 6,8
( Nguồn của ICO)
Từ năm 1999-2001 kim ngạch xuất khẩu của Vinacafe luôn tăng. Đặc biệt vào niên
vụ 1999-2000 kim ngạch cà phê của Vinacafe tăng đột biến với 47,8% so với niên
vụ trước. Nguyên nhân là do năm 1999 cà phê thế giới chịu ảnh hưởng của hạn hán
kéo dài. Việt Nam lại ít chịu ảnh hưởng của hiện tượng này nên xuất khẩu tăng lên,
do đó kim ngạch xuất khẩu tăng lên rõ rệt.Tuy nhiên năm 2002 thì do tình hình
cung cầu cà phê thế giới có sự chênh lệch khá lớn, trong đó cung lớn hơn rất nhiều
so với cầu dẫn đến khủng hoảng thừa đẩy giá xuống thấp. Vì thế kim ngạch cà phê
bắt đầu có xu hướng giảm xuống. Năm 2004 thì giá cà phê thế giới đi vào ổn định
hơn do vâỵ kim ngạch cũng tăng khá và ổn định.
Đối với thị trường EU là thị trường lớn của Vinacafe nên mang lại cho Tổng công
ty một lượng ngoại tệ khá lớn. Điều này thể hiện bằng chỉ tiêu kim ngạch của
Vinacafe trên thị trường EU như sau .
Năm 2001 được coi là năm thành công nhất của cà phê Việt Nam nói chung
Vinacafe của Vinacafe nói riêng. Kim ngạch của Vinacafe đạt 28.522.000 USD tăng
6,9 % so với năm 2000. Tuy nhiên kim ngạch cà phê xuất khẩu luôn phụ thuộc
Vinacafe vào giá cả cà phê. Năm 2002 do có sự giảm sút về giá dẫn đến kim ngạch
giảm –22% so với năm trước. Năm 2003 do nhu cầu tiêu thụ cà phê của EU tăng
lên vinacafe vì thế xuất khẩu vào thị trường này tăng lên 18% so với năm trước.
Điều này là tín hiệu đáng mừng cho ngành cà phê nước ta.
2.2. Cơ cấu sản phẩm cà phê.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Loại cà phê xuất khẩu của Vinacafe.
Việt Nam nói chung và Vinacafe nói riêng đều xuất khẩu 2 loại cà phê chính đó là
cà phê Robusta và cà phê Arabica.Trong đó cà phê Robusta là chủ yếu, chiếm
khoảng 80% trong tổng cà phê xuất khẩu.
Bảng loại cà phê xuất khẩu của Vinacafe vào EU
Loại cà phê Arabica Robusta
Loại 1
Độ ẩm 12.5 %
Hạt đen vỡ 3 %
Tạp chất 0.3%
Hạt cỡ N.16 90 %
Hạt cỡ N.13 90%
( Nguồn Europe)
- Sản phẩm cà phê xuất khẩu
Từ trước năm 200 thì Vinacafe hầu hết chỉ xuất khẩu cà phê nhân. Loai cà phê này
không qua chế biến do đó giá trị xuất khẩu không cao. Mấy năm trở lại đây do nhu
cầu tiêu dùng cà phê của EU tăng lên, hơn nữa chủng loại cũng như cơ cấu sản
phẩm cũng đòi hỏi đa dạng hơn. Do đó Tổng công ty cũng đã tìm mọi cách đa dạng
hoá sản phẩm cà phê xuất khẩu vào thị trường này. Ngoài cà phê nhân còn có cà
phê hoà tan, cà phê thành phẩm. Loại cà phê hoà tan này còn chưa chiếm được thị
hiếu tiêu dùng của người tiêu dùng EU nên lượng cà phê này xuất khẩu vào thị
truờng EU chiếm một tỉ lệ thấp chỉ khoảng 4-5%. Ngoài ra cũng có cà phê thành
phẩm nhưng tỉ lệ này cung không cao, chỉ khoảng 7-9%. Sản phẩm này chủ yếu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
được Vinacafe xuất khẩu vào thị trường dễ tính như Trung Quốc, Đài Loan,
Singapo, Nhật, Malaysia, Vì vậy trong vòng vài năm tới Vinacafe cần phải tăng
khối lượng 2 loại cà phê xuất khẩu là cà phê hoà tan và cà phê thành phẩm. Có như
vậy mới nâng cao được gí trị xuất khẩu cho Việt Nam nói chung cũng như Vinacafe
nói riêng. Ngoài ra cũng cần đa dạng hoá sản phẩm bằng cách tăng các mặt hàng
chứa cà phê như bánh kẹo cà phê, sữa cà phê ,…Nếu tính theo sản phẩm xuất khẩu
vào thị trường EU, thì Tổng công ty có cơ cấu xuất khẩu từng loại sản phẩm như
sau.
Bảng sản phẩm cà phê xuất khẩu vào EU
Sản phẩm cà phê Số lượng Trị giá (USD)
Cà phê Mix (3 in 1) 1.600 Bao 1.520.000
Cà phê hoà tan 800 Hộp 940.000
Cà phê bột 1100 Hộp 1.105.600
Cà phê rang xay 600 Kg 620.000
(Nguồn của ban XNK- Tổng công ty)
Như vậy xuất khẩu cà phê vào thị trường EU Vinacafe mới chủ yếu xuất khẩu cà
phê nhân, cà phê hoà tan, cà phê bột, cà phê rang xay rất ít. Mà chính sản phẩm cà
phê này đem lại giá trị lớn hơn rất nhiều cà phê nhân.Vì vậy đẩy mạnh xuất khẩu cà
phê sang EU các doanh nghiệp nên chú ý đến việc đa dạng hoá sản phẩm cà phê mà
cần chú trọng đến cà phê chế biến.
2.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu cà phê của Vinacafe trên thị truờng EU.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
EU là thị trường có nhu cầu tiêu thụ cà phê khá lớn, tương đối ổn định. EU với dân
số 455 triệu người, thu nhập cao.Tuy nhiên đây là thị trường rất khó tính do đó để
chiếm lĩnh thị truờng này không phải đơn giản.
Năm 2003 nước ta xuất khẩu được 352 nghìn tấn cà phê vào EU chiếm 47% và 109
nghìn tấn vào thị trường Hoa kỳ chiếm 14,6%.
Thị trường chính nhập khẩu cà phê của Vinacafe
Mấy năm gần đây Việt Nam xuất khẩu cà phê đến hơn 60 nước, vùng lãnh thổ, thu
về 400-600 triệu USD. Việt Nam có quan hệ thương mại với tất cả các hãng cà phê
lớn trên thế giới. Khối lượng cà phê xuất khẩu ngày càng lớn mà Việt Nam tiêu
dùng rất ít chỉ khoảng 5% sản lượng sản xuất ra chính vì vậy cần phải tìm cách mở
rộng thêm thị trường xuất khẩu. ở Việt Nam với sản lượng khá lớn không thể thụ
động ngồi chờ ai đến mua thì bán mà cần chủ động tạo thị trường, mở cơ quan đại
diện và sử dụng các phương thức thương mại khác như đổi hàng, trả nợ Nhà nước
và các hiệp định Chính phủ.
EU có nhu cầu nhập khẩu cà phê rất lớn, qua bảng sau ta có tình hình các nước hàng
đầu nhập khẩu cà phê của Vinacafe:
STT 1999 2000 2001 2002
Tên nước % Tên nước % Tên nước % Tên nước
%
1 Đức 25,58 Anh 24,29 Anh 21,15 Anh 24,5
2 Anh 11,92 Hà Lan 15,73 Hà Lan 17,74 Hà Lan 16,4
3 Pháp 6,59 Pháp 7,11 Pháp 8,81 Pháp 8,2
4 Hà Lan 5,88 Đức 6,82 Đức 7,04 Bỉ 7,5
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
5 Bỉ 5,51 Italia 5,57 Bỉ 6,86 Đức 6,0
(Nguồn: Ban XNK-Tổng công ty cà phê Việt Nam )
Từ năm 1999 trở về trước, thị trường Đức là thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất
củaVinacafe, không chỉ nhập khẩu cà phê của Việt Nam, Đức còn nhập khẩu cà phê
của nhiều nước trên thế giới. Hiện nay thị trường cà phê Đức đang ở tình trạng
nguồn cung lớn hơn cầu do đó trong vài năm tới nhu cầu nhập khẩu cà phê của Đức
sẽ giảm đáng kể. Năm 1999, Đức nhập khẩu 28,58% cà phê của Vinacafe nhưng
đến năm 2002 chỉ còn 6,07% tổng cà phê xuất khẩu.
Dự kiến đến năm 2005 sẽ giảm xuống còn 4,6%. Trong những năm gần đây thị
trường Anh là thị trường tiêu thụ cà phê lớn của Vinacafe
Vấn đề đặt ra là Tổng công ty cà phê Việt Nam phải củng cố thị trường sẵn có đồng
thời mở rộng và phát triển thị trường mới. Từ 2 năm trở lại đây thì Vinacafe hầu hết
đã xuất khẩu sang các nước thuộc khối EU.
( Báo cáo của ban XNK- Tổng công ty cà phê Việt Nam )
2.4. Thị phần xuất khẩu cà phê của Vinacafe
Tổng công ty cà phê Việt Nam là một trong những đơn vị kinh doanh xuất khẩu cà
phê lớn nhất nước ta. Hàng năm thị phần của Vinacafe luôn luôn chiếm từ 30- 45%
thị phần xuất khẩu của cả nước. Riêng đối với thị trường EU thì Vinacafe chiếm gần
90% lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên cà phê Việt Nam chưa chiếm
lĩnh thị trường EU nhiều. Ta còn kém nhiều so với Brasin, Colombia,…Điều này là
do Tổng công ty chưa có nhiều mẫu mã, chất lượng chua cao, cơ cấu sản phẩm còn
quá ít ỏi, các điều kiện an toàn chưa đảm bảo,…Muốn chiếm được thị phần lớn trên
thị trường EU thì Vinacafe cần phải làm tốt các vấn đề trên.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Như vậy trong mấy năm trở lại đây Brasin là nước chiếm thị phần lớn vè cà phê
xuất khẩuvào EU, thị phần của nước này chiếm từ 30-31 % thị phần EU. Clombia là
nước xuất khẩu đứng thứ 2 vào EU. Việt Nam luôn chiếm thị phần từ 13-18 % thị
phần EU và đứng ở vị trí thứ 3 trong các nước xuất khẩu vào EU.
2.5. Giá cà phê xuất khẩu của Vinacafe
Nước ta chủ yếu xuất khẩu cà phê Robusta, giá của loại cà phê này thường thấp hơn
giá thế giới từ 100-200 USD/tấn. Nguyên nhân chính là do chất lượng cà phê xuất
khẩu của Việt Nam chưa ổn định. Hơn nữa giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam phụ
thuộc vào giá cà phê thế giới mà giá cà phê trên thế giới không ổn định lên xuống
thất thường. Năm 1992 có lúc giá cà phê Robusta chỉ khoảng 600 USD/tấn. Năm
1994 giá cà phê Robusta lại tăng vọt có thời điểm đạt 4.000 USD/tấn. Năm 1998 do
hậu quả của Elnino, sản lượng cà phê thế giới giảm nên giá cà phê thế giới tăng
23% so với năm 1997 nhưng đến năm 2.000 thì lại giảm xuống. Tháng 12/2000 giá
cà phê nhân ở Việt Nam xuống dưới mức 9.000VND/kg thấp nhất từ trước tới nay.
Năm 2003 do giá cà phê thế giới phục hồi, giá cà phê trong nước biến động từ
9.000-12.500VND/kg, bình quân đạt 10.500-11.000VND/kg. Với mức giá này đa số
bà con nông dân đã bù đắp được chi phí và có lãi. Như vậy giá xuất khẩu bình quân
năm 2003 đạt khoảng 750 USD/tấn.
Nguyên nhân chính là do nền nông nghiệp nước ta còn lạc hậu, manh mún, không
có quy hoạch rõ ràng. Không có định hướng trong sản xuất và tiêu thụ. Mặc dù sản
lượng sản xuất cà phê của nước ta là rất lớn nhưng không thu được lợi nhiều do giá
cà phê của nước ta quá thấp. Ngoài ra cây cà phê chịu tác động mạnh mẽ của thời
tiết như sương muối, hạn hán, sâu bệnh,…Khi ảnh hưởng của yếu tố này thì sẽ làm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
giảm lượng cà phê thế giới như thế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Đặc biệt với
các nước xuất khẩu lớn như Brasin, Việt Nam, Colombia, thì thời tiết sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến cà phê thế giới. Những đợt sương muối, hạn hán kéo dài ở
Brasin, ảnh hưởng Elnino ở Việt Nam đã làm giảm sản lượng cà phê thế giới khi đó
làm cho giá cà phê thế giới tăng lên nhanh chóng.
Đến năm 2004 và những tháng đầu năm 2005 thì giá cà phê thế giới có xu hướng
tăng lên đáng kể. Do đó giá của Vinacafe cũng tăng lên và đi vào ổn định hơn. Giá
cà phê xô của Tổng công ty biến động từ 14.500- 17.500VNĐ/kg. Dự báo trong vụ
thu hoạnh tới cà phê trong nước có thể lên tới 20 triệu đồng/tấn. Tức là vào khoảng
20.000VNĐ/kg. Đây là mức giá khá cao so với nhiều năm trước đó. Mức giá này sẽ
khuyến khích người trồng cà phê tăng diện tích và đầu tư nhiều hơn cho cây cà phê,
tuy nhiên các thương nhân sẽ gặp khó khăn hơn vì phải mua với giá cao trong khi
đó giá xuất khẩu của ta lại thấp hơn giá thế giới rất nhiều.
2.6. Chất lượng cà phê xuất khẩu của Vinacafe.
Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu cà phê trong tình hình hiện nay, ngành cà phê cần
chú trọng toàn diện từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, trong đó các vấn đề quan trọng
đặt ra đó là việc nâng cao chất lượng , áp dụng tiêu chuẩn 4193, áp dụng phương
thức kí hợp đồng có lợi ích, triển khai việc nghiên cứu sàn giao dịch kỳ hạn và
chính sách hỗ trợ xuất khẩu cà phê. Ngoài ra còn phải theo một số tổ chức định
chuẩn của thế giới như Vinacontrol, Cfcontrol, SGS, FCC, Để nâng cao chất lượng
cà phê cần chú trọng toàn diện từ khâu giống, chăm bón, phơi sấy cho đến chế biến
bảo quản theo đúng quy trình khoa học.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Khâu giống: Việc bố trí giống phù hợp với từng vùng sinh thái sẽ phát huy được
lợi thế của giống về mặt năng suất, chất lượng cũng như tránh được rủi ro sâu bệnh
hại. Đây là một điều kiện tốt để có được nguồn hàng xuất khẩu.
- Khâu chăm sóc. Hiện tại công ty đang sử dụng phân bón NPK cân đối theo nhu
cầu của cây nhưng ở liều lượng trung bình. Các hộ trồng cà phê hiện nay tăng
cường bón phân hữu cơ cho cây cà phê
- Thu hái cà phê: Hiện nay thường là thu hái đồng loạt không áp dụng phương pháp
thu hái chọn lọc để đảm bảo độ đồng đều. Như vậy cà phê chín sẽ bị lẫn cà phê
xanh do đó dẫn đến chất lượng không cao
- Phơi sấy: Hệ thống sân phơi, hệ thống sấy còn thiếu vì các hộ nông dân thường
thu hoạch theo hộ gia đình không có đủ điều kiện mua máy móc thiết bị vì thế cà
phê phải phơi dầy, phơi trên nền đất nên bị lên men, lâu khô. Điều này cũng làm
giảm chất lượng cà phê.
- Chế biến: Hiện nay thường sử dụng phương pháp chế biến khô theo kiểu công
nghiệp và thủ công. Phương pháp này không loại bỏ được hết tạp chất, không tách
sỏi đá, cành lá, quả xanh ngay từ đầu. Các cơ sở chế biến chủ yếu sử dụng công
nghệ, thiết bị không đồng bộ. Phổ biến là các hình thức chế biến quy mô nhỏ và vừa
do nông dân tự đầu tư.
- Bảo quản: Hệ thống kho tàng chưa đảm bảo chất lượng dẫn đến cà phê bị lên men
và bị hỏng nhiều
Đứng trước thực trạng trên công ty đã xem xét tổ chức lại ngành xuất khẩu cà phê,
công tác tổ chức xuất khẩu nói chung và quản lý chất lượng nói riêng được coi
trọng hơn từ đó góp phần nâng cao chất lượng cà phê.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Hiện nay xuất khẩu cà phê theo 3 mức chất lượng phổ biến, theo các tiêu chuẩn như
sau: tiêu chuẩn độ ẩm, tạp chất, hạt đen vỏ, kích thước hạt. Cà phê xuất khẩu của
Việt Nam chủ yếu là các loại R2b với các loại chuẩn sau:
+ Tỷ lệ hạt đen vỡ là 8%
+ Độ ẩm cao nhất 13,5%
+ Tạp chất 1%
Cà phê R1 với các loại chuẩn:
+ Tỷ lệ hạt đen vỡ 2%
+ Độ ẩm cao nhất 12%
+ Tạp chất 1%
Trên thực tế khi buôn bán giao dịch khách hàng EU quan tâm nhiều đến chỉ tiêu
ngoại hình như kích thước hạt, màu sắc, độ ẩm và các khuyết tật khác không theo
một tiêu chuẩn cụ thể nào. Về kích thước hạt: đây là một chỉ tiêu quan trọng có ý
nghĩa cả về chất lượng cũng như năng suất cà phê
+ Loại 1 hạt có kích thước trên sàng N16 (6,3mm)
+ Loại 2 hạt có kích thước trên sàng N14 (5,6mm)
+ Loại không sử dụng được lọt sàng N10 (4,2mm)
ở nước ta nhiều nông trường có mẫu cây tốt năng suất cao và ổn định thể loại
hạt là loại 1 chiếm 50-60% và xấp xỉ 40% hạt loại 2. Như vậy về mặt kích thước cà
phê Việt Nam có trên 95% khối lượng hạt đạt tiêu chuẩn.
Cà phê xuất khẩu trải qua mua bán nội địa từ nhà sản xuất đến các đại lý
trung gian, đến nhà xuất khẩu trực tiếp. Trứơc đây người sản xuất thường xay xát
chế biến thành cà phê xô có độ ẩm từ 17-20%. Do đó để đi đến xuất thì nhà xuất
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
khẩu phải tái chế cho cà phê có độ ẩm đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu. Chính do tập
quán thói quen xuất khẩu cà phê xô có độ ẩm, tỷ lệ hạt đen và lẫn tạp chất nhiều nên
không khuyến khích người sản xuất nâng cao chất lượng sảnphẩm do đó mất uy tín
với khách hàng, ảnh hưởng xấu tới xuất khẩu cà phê nói chung và xuất khẩu sang
EU nói riêng.
Ngoài ra việc nâng cao chất lượng cà phê phải gắn với việc tăng thêm yếu tố
thời trang cho sản phẩm cà phê, đó chính là mẫu mã, bao bì cho cà phê xuất khẩu.
Đây là yếu tố quan trọng trong việc chào hàng sang thị trường EU tuy nhiên các
doanh nghiệp Việt Nam chưa khai thác được mặt này. Mẫu mã bao bì còn đơn giản
chưa hấp dẫn người tiêu dùng EU.
Muốn có chất lượng cao thì ngành cà phê phải biết kết hợp đồng bộ giữa các
khâu từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ ngoài ra còn phải tăng thêm chất lượng cho
sản phẩm cà phê ngay từ việc cải tiến mẫu mã, tăng cường công tác tiếp thị cho sản
phẩm và đặc biệt ngành cà phê phải biết phát huy những ưu thế về hương thơm của
cà phê để lôi kéo khách hàng về phía mình.
2.7. Thương hiệu cà phê của Vinacafe
Cho đến nay vẫn không ít người uống cà phê trên thế giới phàn nàn rằng họ chưa
được biết đến cà phê Việt Nam. Điều đó cũng đúng dù rằng từ 5 năm trở lại đây
Việt Nam đã là một nước có lượng cà phê xuất khẩu đứng thứ 2 trên thế giới, và
đứng đầu về lượng cà phê Robusta. Mỗi năm ngành cà phê Việt Nam lại đưa ra thị
trường 70-80 vạn tấn cà phê, tức là vào khoảng 12- 13 triệu bao cà phê trong đó hầu
hết là cà phê Robusta. Chúng ta biết rằng những người tiêu dùng cà phê trên thế gới
thường sử dụng 70% loại cà phê Arabica còn cà phê Robusta chỉ chiếm chừng 30%
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
mà lượng cà phê Robusta ít ỏi đó chủ yếu là để pha trộn vào cà phê rang xay hoặc
làm nguyên liệu chế biến cà phê hoà tan. Chỉ có những du khách ghé thăm Việt
Nam mới có dịp sáng sớm ngồi trong quan cà phê bên Hồ Gươm nhâm nhi một li cà
phê pha lọc với loại cà phê Robusta Buôn Ma Thuật thuần tuý. Khi đó cái thứ nước
đen huyền ảo sóng sánh đó mới có dịp được du khách cảm nhận được, đó là loại cà
phê chưa đựng đầy đủ hượng vị của đất trời Việt Nam. Và cũng không ít du khách
đến với Sơn La của vùng Tây bắc xa xôi hay thành phố Đà Lạt, xứ xở của mộng mơ
và họ ngạc nhiên khi nhận ra rằng ly cà phê Arabica ở đây mang hương vị đặc biệt,
nó thơm ngon không thua kém bất kỳ loại cà phê nào trên thế giới.
Việt Nam cái thương Cà phê hiệu hay cái xuất xứ địa lý đó đã nói nên điều gì với
người tiêu dùng .
Trước hết, Việt Nam có dải đất hẹp, có bờ biển cong hình chữ S, với nhiều đới khí
hậu khác nhau, phía nam nóng ẩm phù hợp với cà phê Robusta, phía bắc ôn hoà có
mùa đông lạnh phù hợp cà phê Arabica. Cũng có những vùng ở phía nam nhưng ở
bậc thềm cao từ 800-1000m trên mực nước biển lại thích hợp với cà phê Arabica
Cà phê Robusta với cái xuất xứ địa lý Buôn Ma Thuật, đã được nhiều người biết
đến là một loại cà phê chất lượng cao, sở dĩ nó có hương vị khá đặc sắc vì nó được
trồng trên vùng cao nguyên đất đỏ bazan, cao nguyên Buôn Ma Thuật- Buôn Hồ ở
độ cao 500- 700m trên mực nước biển. Cà phê Arabica Lâm Đồng cũng như ở các
vùng khác như Sơn La Điện Biên, Khe Xanh, A Lưới đều là những sản phẩm thơm
ngon nổi tiếng. Lâm Đồng có khả năng cung cấp cho thị trường những sản phẩm cà
phê Arabica hảo hạng. Các vùng cà phê khác ở Việt Nam, cà phê, cà phê Robusta
cũng đều có tình hình tương tự như Lâm Đồng và Buôn Ma Thuật .Như thế cà phê
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -