Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

skkn nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn tổ khối dự bị 1,2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.96 KB, 11 trang )










SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
SINH HOẠT CHUYÊN MÔN TỔ KHỐI
DỰ BỊ, 1, 2

1

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
SINH HOẠT CHUYÊN MÔN TỔ KHỐI DỰ BỊ, 1, 2
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ năm 2009 đến nay, được sự tin tưởng của Ban Giám đốc Trung tâm, sự
tín nhiệm của đồng nghiệp, ngoài nhiệm vụ của một giáo viên đứng lớp, tôi được
phân công kiêm nhiệm tổ trưởng tổ khối Dự bị, 1, 2.
Ở hai năm đầu đảm nhận vai trò tổ trưởng khối, tôi nhận ra được những hạn
chế, thiếu sót của bản thân khi thực thi chức năng nhiệm vụ như: trong việc điều
hành tổ, tôi chưa phát huy hết vai trò của tổ trưởng; chưa tận dụng và khai thác
triệt để sự hỗ trợ đắc lực của các thành viên trong tổ; chưa chủ động, mạnh dạn,
linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động phong trào chuyên môn trong tổ
khối;…. Từ hạn chế trên, với quyết tâm xây dựng, đổi mới công tác tổ chức sinh
hoạt tổ khối sao cho thật sự chất lượng và hiệu quả, tôi đã chọn đề tài “ Nâng cao


chất lượng sinh hoạt tổ khối chuyên môn Dự bị, 1, 2” để chia sẻ với đồng nghiệp
về những việc tôi đã thực hiện và đạt được hiệu quả trong năm học 2011- 2012
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật
Đồng Nai.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
Hoạt động chuyên môn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong nhà trường.
Trong đó, tổ khối chuyên môn là tổ chức đảm nhận chức năng thực thi nhiệm vụ
chuyên môn của nhà trường. Tổ khối chuyên môn tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh
giá kết quả về giảng dạy và học tập, về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, về
nội dung chương trình, cải tiến phương pháp dạy học một cách sâu sát nhất nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
Và một trong những nhân tố góp phần thúc đẩy hoạt động tổ chuyên môn là
hình thức sinh hoạt chuyên môn. Làm thế nào để đổi mới quản lý, nâng cao chất
lượng sinh hoạt tổ chuyên môn là việc làm thiết thực mà tổ khối Dự bị, 1, 2 tại
Trung tâm đã thực hiện có hiệu quả trong thời gian qua.
- Tổ khối Dự bị 1, 2 gồm có 3 khối lớp, trong đó:
+ Khối lớp Dự bị được thực hiện theo chương trình Mầm non (lớp lá) có
điều chỉnh, giảm tải kết hợp với chương trình Tìm hiểu môi trường xung quanh lớp
Dự Bị (Đề tài cấp Bộ do bà Ngô Thị Mai Anh nguyên phó Giám đốc Trung tâm
Giáo dục trẻ Khuyết tật Thuận An thực hiện). Trong chương trình học ở lớp Dự bị
học sinh được trang bị kiến thức cơ bản, những kĩ năng học tập cần thiết để chuẩn
bị bước vào lớp 1.
+ Khối lớp 1 có ba trình độ tương ứng với ba chương trình học: lớp 1A
thực hiện chương trình lớp 1 phổ thông- nội dung sách giáo khoa tập 1; lớp 1B
thực hiện chương trình lớp 1 phổ thông- nội dung sách giáo khoa tập 2; lớp 1
khiếm thị thực hiện chương trình phổ thông lớp 1 có điều chỉnh, giảm tải phù hợp
theo khả năng của học sinh khiếm thị.
+ Khối lớp 2 có hai trình độ, học sinh khiếm thính và học sinh khiếm thị
đều học theo chương trình phổ thông lớp 2 nhưng chương trình được điều chỉnh

phù hợp với trình độ và khả năng của đối tượng học sinh từng lớp.
2

Từ đặc điểm tình hình trên, tổ chức sinh hoạt tổ khối sao cho phù hợp với
thực tế mà đem lại hiệu quả là điều làm tôi băn khoăn và trăn trở. Để buổi sinh
hoạt chuyên môn diễn ra trong không khí thoải mái, không áp lực và cũng không
mất nhiều thời gian của giáo viên, nhưng vẫn đảm bảo nội dung và chất lượng tôi
đã mạnh dạn thực hiện những nội dung chủ yếu như sau:
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
Trong thực tế có rất nhiều cách thức để tổ chức sinh hoạt tổ khối chuyên
môn hiệu quả nhưng trong phạm vi bài viết này tôi chỉ tổ chức thực hiện hai nội
dung chính sau đây:
- Chuẩn bị cho buổi sinh hoạt chuyên môn: Linh động về thời gian tổ chức
sinh hoạt; lựa chọn địa điểm sinh hoạt; xác định nội dung sinh hoạt;
- Tổ chức, triển khai buổi sinh hoạt chuyên môn: Tiến hành nghiêm túc
theo tiến trình chuyên đề Sinh hoạt tổ khối đã thống nhất trong chuyên môn toàn
Trung tâm; bàn bạc, trao đổi sâu vào trọng tâm.
Và trong quá trình tổ chức thực hiện hai nội dung trên, tôi tập trung đi sâu
vào những việc trọng tâm như sau:
- Theo dõi, góp ý, xây dựng công tác chủ nhiệm lớp, chấm chữa bài.
- Dự giờ đối chiếu lịch báo giảng, kết hợp kiểm tra giáo án nhằm đánh giá
việc thực hiện nội dung chương trình trên lớp.
- Theo dõi, sắp xếp thời gian, tạo điều kiện để các giáo viên dự giờ học hỏi
kinh nghiệm, thực hiện việc dạy thay, dạy bù một cách nghiêm túc.
- Theo dõi, nhắc nhở việc thực hiện kế hoạch giáo dục cho học sinh cần
quan tâm; kế hoạch phụ đạo học sinh yếu kém, bồi dưỡng học sinh khá giỏi.
- Khuyến khích động viên, tạo cơ hội, điều kiện để các thành viên trong tổ
được phát huy năng lực của bản thân.
2.1 Chuẩn bị cho buổi sinh hoạt:
Là giáo viên, chúng ta đều hiểu rằng: để tiết dạy đạt hiệu quả cao, việc

chuẩn bị bài là công việc vô cùng quan trọng; vì có chuẩn bị kĩ thì chúng ta mới tổ
chức thực hiện tiết dạy tốt được. Và tôi đã vận dụng điều này vào hoạt động sinh
hoạt tổ của mình.
a) Thời gian:
Theo khoản 3, điều 18, Điều lệ trường Tiểu học, tổ chức sinh hoạt tổ khối
định kì hai tuần một lần và sinh hoạt đột xuất khi có việc cần. Thực hiện nghiêm
túc theo quy định, tôi đã linh hoạt sắp xếp thời gian sinh hoạt định kì vào chiều thứ
sáu tuần thứ hai, tuần thứ tư trong tháng và những buổi sinh hoạt đột suất vào giờ
ra chơi (khoảng 8 giờ 55 phút đến 9 giờ 15 phút) hoặc vào cuối giờ của buổi học
(10 giờ 40 phút).
Ví dụ:
Trong tháng 4 vừa qua, Trung tâm tổ chức rất nhiều hoạt động: thanh tra sư
phạm, chuyên đề, đón đoàn giáo sinh thực tập, tổ chức ngày Người Khuyết tật Việt
Nam, Để đảm bảo cho việc củng cố, cập nhật kịp thời về nề nếp cũng như chất
lượng giảng dạy của giáo viên, tôi đã khuyến khích, động viên các thành viên trong
tổ họp sau khi kết thúc giờ học (10g 40 phút đến 12 giờ, ngày 6/4/2012). Khoảng
thời này không dài, nên tôi đã lựa chọn nội dung triển khai, thảo luận vừa phải để
3

đạt hiệu quả, chẳng hạn như: rút kinh nghiệm về giáo dục đạo đức, rèn nề nếp cho
học sinh, bàn bạc thống nhất về giảm tải, điều chỉnh nội dung dạy học cho tuần
tới….
b) Địa điểm tổ chức sinh hoạt:
Sau khi gợi ý, bàn bạc và thống nhất cùng các thành viên trong tổ. Tôi đã tổ
chức cuộc họp tại các phòng học vì những lí do sau: Tạo cơ hội cho các giáo viên
học hỏi, rút kinh nghiệm lẫn nhau trong việc chấm, chữa bài của HS (đa số học
sinh để tập vở tại lớp). Nắm được khả năng của học sinh trong lớp bạn qua điểm
số, cách trình bày vở,… Từ đó gợi ý, chia sẻ kinh nghiệm giáo dục cho đối tượng
học sinh lớp bạn. Ngoài ra, giáo viên còn có thể dự trù hướng giáo dục phù hợp
cho đối tượng học sinh nếu năm sau phụ trách học sinh lớp bạn. Bên cạnh đó, có

thể góp ý xây dựng về cách bày trí lớp học sao cho khoa học gọn gàng, ngăn nắp.
Theo dõi, góp ý, xây dựng công tác chủ nhiệm lớp, chấm chữa bài học sinh.
Đây là công việc của tổ trưởng, nhưng nếu trong buổi sinh hoạt mà tổ trưởng nhận
xét, góp ý, đánh giá, rút kinh nghiệm,… tất cả mọi vấn đề, thì các thành viên trong
tổ sẽ thụ động, mệt mỏi (vì phải lắng nghe từ một phía) và như thế buổi sinh hoạt
trở thành một buổi thuyết giảng, độc thoại đơn điệu, … Mặt khác, tạo điều kiện
cho các thành viên trong tổ tự nhận ra những ưu điểm và hạn chế của mình để trao
đổi, chia sẻ vấn đề sẽ mang tính chất khách quan hơn, tích cực hơn.
c) Nội dung sinh hoạt:
Xác định nội dung sinh hoạt tổ khối phải bám sát theo kế hoạch của chuyên
môn toàn Trung tâm kết hợp với kế hoạch tổ khối; sắp xếp các nội dung theo thời
gian thực hiện từ gần đến xa; kết hợp sự hỗ trợ của các thành viên trong tổ, tạo cơ
hội, điều kiện cho các thành viên được phát huy năng lực của mình.
Ví dụ:
- Thông báo với các thành viên trong tổ xem trước và chuẩn bị nội dung
dạy học cần điều chỉnh, giảm tải để thống nhất trong tổ.
- Phân công giáo viên chuẩn bị nội dung báo cáo chuyên đề.
- Chọn lựa nội dung nào cần triển khai kĩ, nội dung nào cần thảo luận.
+ Nội dung cần triển khai kĩ: Với phong trào thi “Viết chữ đẹp” cần triển
khai kĩ về việc chọn đối tượng học sinh tham gia thi, thời gian thi, địa điểm thi,
giải thưởng đạt được; phong trào “Rèn chữ, giữ vở” thì khác với phong trào thi
“Viết chữ đẹp” học sinh tham gia một bài viết chữ đẹp kết hợp kiểm tra tập vở của
học sinh vào cuối học kì I và cuối học kì II, như vậy đối tượng học sinh được chọn
tham gia phong trào “Rèn chữ, giữ vở” phải có tập vở được trình bày sạch đẹp
trong suốt năm học…
+ Nội dung cần thảo luận: Điều chỉnh, giảm tải nội dung dạy học; rút
kinh nghiệm dự giờ; cách giáo dục đạo đức, rèn nề nếp cho HS…
2.2 Tổ chức, triển khai buổi sinh hoạt chuyên môn
a) Thực hiện nghiêm túc theo chuyên đề sinh hoạt tổ khối
Sau công việc chuẩn bị cho buổi sinh hoạt, tôi đã thực hiện theo tiến trình

của chuyên đề Sinh hoạt tổ khối chuyên môn vào đầu năm học do Phó Giám đốc
chuyên môn triển khai. Để tổ chức tốt nề nếp sinh hoạt chuyên môn tổ khối, ở mỗi
phần tôi đều tạo tình huống hoặc câu hỏi mở để các thành viên trong tổ đóng góp ý
4

kiến, xây dựng. Và tôi chỉ là người chốt lại vấn đề, khi vấn đề đó được giải quyết
theo hướng đúng đắn và có tính thống nhất.
Ví dụ:
 Phần đánh giá hoạt động vừa qua (buổi họp lúc 14 giờ, ngày 14/10/2011).
Trao đổi về vấn đề ổn định chỗ ngồi học sinh trong lớp cho phù hợp: Trong
một lớp học của học sinh khiếm thính, để phát huy được tính chủ động tích cực của
học sinh thì vị trí chỗ ngồi của các em đóng vai trò không nhỏ. Trước đây, học sinh
các lớp ngồi theo hình chữ u (do bàn chữ nhật nên không thể ngồi theo hình vòng
cung). Trong quá trình dạy học, giáo viên nhận thấy sẽ ảnh hưởng đến tật mắt cho
các em về lâu dài, nên chủ động thay đổi. Vì thế bàn học sinh ở các lớp đều kê
khác nhau. Vấn đề được tôi đưa ra bàn bạc, thảo luận. Và sau cùng, tôi thống nhất
cùng các thành viên trong tổ: khi giảng bài, tập trung học sinh ngồi trên ghế nhựa
cao; khi viết bài, học sinh ngồi bàn viết mắt hướng thẳng lên bảng lớp.



Học sinh ngồi theo hình chữ u













Khi giáo viên giảng bài, học sinh ngồi tập trung.
 Phần thống nhất công tác soạn giảng:
Trong tiết dạy minh họa chuyên đề lớp 1A, môn Tiếng Việt, bài ĂT- ÂT
(tiết 3). Trong tổ đã thống nhất, để đảm bảo rèn cho học sinh đủ 4 kĩ năng cần thiết
trong một tiết học của môn Tiếng Việt; nên tiết 3 gồm có 4 hoạt động: Khởi động,
cung cấp, đọc tiếng (từ), câu ứng dụng và viết bảng con tiếng (từ) ứng dụng.
Nhưng trong quá trình lên tiết dạy, giáo viên bị động về thời gian, học sinh mệt
mỏi và không tập trung ở hoạt động viết bảng con tiếng (từ) ứng dụng. Tôi đã gợi ý
vấn đề để các tổ viên cùng nhau thảo luận:




5

 Các bạn có nhận xét gì ở hoạt động viết bảng con?
 Theo các bạn ở tiết này có nhất thiết phải viết bảng con? Vì sao?
Sau khi bàn bạc trao đổi, tôi thống nhất cùng các thành viên trong tổ giảm
bỏ hoạt động viết bảng con vì: Trọng tâm của tiết 3 là đọc tiếng (từ), câu ứng dụng
và hiểu nghĩa tiếng (từ), nội dung câu ứng dụng; bài tập viết học sinh cần thực hiện
là âm (vần), tiếng (từ) khóa; thời gian kéo dài không phù hợp với đối tượng học
sinh lớp nhỏ.
b) Bàn bạc, trao đổi sâu vào trọng tâm của buổi sinh hoạt
Buổi sinh hoạt thật sự đi vào trọng tâm của chuyên môn thì việc bàn bạc,
trao đổi về nội dung, phương pháp giảng dạy là chính. Để mỗi giáo viên có hướng
đổi mới trong phương pháp giảng dạy phải kể đến sự dày công vun đắp của tổ khối

trong các buổi sinh hoạt chuyên môn. Trước đây, khi điều hành sinh hoạt chuyên
môn, tôi thường giữ vai trò như một người báo cáo, trình bày những nội dung cần
thực hiện chưa có sự bàn bạc, trao đổi hoặc có cũng rất hạn chế. Sau đó lấy ý kiến
tập thể, hầu như cả tổ đều đồng ý mà chưa có sự phân tích những ưu điểm và hạn
chế của vấn đề sẽ tác động đến hoạt động giáo dục. Để thay đổi lối mòn cho việc
đó, tất cả những gì có liên quan đến công tác giảng dạy, tôi đều gợi ý hoặc tạo tình
huống để các thành viên chia sẻ, trao đổi với nhau. Qua đó, các thành viên trong tổ
được bồi dưỡng về kiến thức liên quan đến nội dung dạy học ở lớp mình; học tập
thêm được những kĩ năng sư phạm của bạn; mạnh dạn, chủ động trong việc lựa
chọn nội dung để điều chỉnh, giảm tải cho phù hợp với đối tượng học sinh tại lớp.
Ví dụ 1:
Ở môn tập đọc lớp hai, bài tập đọc đầu tuần dạy trong 2 tiết, nhưng với thời
lượng 2 tiết, học sinh khiếm thính không thể học hết nội dung bài. Qua những khó
khăn, giáo viên dạy vừa nêu. Tôi đã gợi ý cho từng giáo viên:
 Theo các bạn chúng ta sẽ dạy bài tập đọc này như thế nào?
 Theo bạn dạy theo cách đó có đảm bảo kiến thức cơ bản cho học sinh?
Sau nhiều ý kiến như: Luyện đọc qua loa, tập trung vào tìm hiểu bài, đổi
dạng câu hỏi tìm hiểu bài sang trắc nghiệm, thay đổi nội dung câu hỏi cho phù hợp
với học sinh. Cuối cùng tôi cùng tổ đã đi đến thống nhất và kết luận: Vì đây là giờ
tập đọc nên không thể đọc qua loa, giáo viên nên cho học sinh đọc trước bài ở nhà.
Khi tiến hành giờ dạy vẫn đảm bảo tiến trình của một giờ tập đọc và phát huy được
tính tích cực của học sinh (tạo cơ hội, điều kiện để học sinh tự luyện đọc). Phần
tìm hiểu nội dung cả bài cần xoáy sâu vào đoạn có nội dung trọng tâm.
Ví dụ 2: Chương trình môn Tiếng Việt lớp một khiếm thị
Theo chương trình học kì II, giảm 1 tiết tập viết, trong 1 tuần có 3 bài tập
đọc. Theo thực tế, học sinh lớp một khiếm thị rất yếu về kĩ năng viết, trên cơ sở
nắm bắt tình hình thực tế của lớp, tôi có thể đưa ra hướng giải quyết nhưng nếu tôi
làm vậy sẽ không có cơ hội, điều kiện để các thành viên trong tổ chia sẻ kinh
nghiệm giảng dạy. Tôi đã gợi ý:
 Kĩ năng học sinh viết yếu, lại bị giảm một tiết như vậy có phù hợp hay

không? Theo các bạn chúng ta sẽ điều chỉnh thế nào?
 Bạn có ý kiến gì với ý kiến của bạn vừa nêu?
 Theo các bạn, chúng ta sẽ chọn giải pháp nào cho phù hợp với trình độ, khả
năng của học sinh khiếm thị lớp một?
6

Sau khi bàn bạc, trao đổi, tôi đã thống nhất cùng các thành viên trong khối:
giảm hẳn 1 bài tập đọc, lấy thời lượng đó rèn kĩ năng viết cho học sinh.
Để có thể kết luận được vấn đề một cách khách quan và chính xác, tôi
thường xuyên dự giờ các lớp để nắm bắt tình hình nề nếp, học tập của học sinh; nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học của giáo viên; biện pháp, kế hoạch
giáo dục của giáo viên với học sinh cần quan tâm, học sinh yếu, học sinh khá giỏi;
suy nghĩ trước cách giải quyết vấn đề. Sau khi đưa ra tổ thảo luận, lắng nghe ý kiến
của các tổ viên, phân tích, tôi chọn hướng giải quyết thích hợp nhất. Và với tôi,
điều quan trọng nhất là cách giải quyết đó giúp ích được cho học sinh.
Chủ động, linh hoạt sắp xếp thời gian, tạo điều kiện để các giáo viên dự giờ,
học hỏi kinh nghiệm trong những lúc trống tiết; theo dõi và nhắc nhở thực hiện
nghiêm túc việc đổi tiết, dạy thay, dạy bù khi có việc bận đột xuất, để đảm bảo nội
dung chương trình và nề nếp của lớp.
Khuyến khích, động viên, nhắc nhở giáo viên làm đồ dùng dạy học; đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
Ví dụ:
Trong buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi động viên (hoặc chỉ định) giáo viên
soạn giảng bằng công nghệ thông tin, sau đó sắp xếp thời gian để các thành viên
trong tổ cùng dự giờ và rút kinh nghiệm về tiến trình, cách trình bày bảng khi sử
dụng bài giảng điện tử, . . .
Qua một năm thực hiện tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ khối Dự
bị, 1, 2, ngoài những nội dung và biện pháp nêu trên, tôi còn rút ra được một số
kinh nghiệm khi làm tổ trưởng tổ khối chuyên môn như sau:
- Phải làm cho các thành viên trong tổ luôn đoàn kết; có tinh thần tương

thân tương trợ lẫn nhau trong công tác cũng như trong đời sống; luôn gần gũi, tạo
niềm tin cũng như tin tưởng các thành viên trong tổ khi thực hiện nhiệm vụ.
- Năng động, nhiệt tình trong công việc, có tinh thần học hỏi, mạnh dạn,
chủ động trong việc chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp.
- Luôn chuẩn bị nội dung sinh hoạt chu đáo, chủ động tạo nên tình huống,
dự kiến tình huống trong thành viên của tổ, khuyến khích, gợi mở để các tổ viên
phải nêu quan điểm của mình về vấn đề cần thảo luận.
- Xác định nội dung sinh hoạt tổ trọng tâm phải là nội dung về chuyên môn
nghiệp vụ.
- Luôn thực hiện và chuẩn bị tốt các loại hồ sơ sổ sách, kế hoạch tổ khối,
đề ra chỉ tiêu, biện pháp, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học trong khối.
- Tăng cường dự giờ, thăm lớp, nhất là những thành viên có tay nghề yếu
để có hướng hỗ trợ kịp thời; đồng thời từ việc dự giờ thăm lớp sát sao đã giúp giáo
viên tự tin khi lên tiết, các giờ dạy đạt kết quả tốt hơn;
- Khuyến khích, tạo điều kiện, tổ chức chuyên đề để các thành viên cùng
dự giờ, chia sẻ học tập kinh nghiệm lẫn nhau.




7

III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Sau một năm học áp dụng các biện pháp trên vào các buổi sinh hoạt chuyên
môn ở tổ khối Dự bị, 1, 2, kết quả đạt được cụ thể như sau:
- Các thành viên trong tổ mạnh dạn, tự tin hơn trong việc chia sẻ kinh
nghiệm giảng dạy; hiểu và nắm được khả năng và trình độ của học sinh ở mỗi lớp
học trong khối.
- Linh hoạt, chủ động điều chỉnh, giảm tải nội dung chương trình; lựa chọn
kết hợp linh hoạt, sáng tạo giữa các phương pháp, hình thức dạy học cho phù hợp

với đối tượng học sinh của lớp.
- Ý thức tự bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ được nâng cao.
- Tích cực tham gia đóng góp ý kiến, xây dựng tổ khối; nghiêm túc thực
hiện những nội dung đã được tổ khối thông qua và thống nhất.
- Chịu khó đầu tư vào công tác soạn giảng; tích cực ứng dụng công nghệ
thông tin vào giảng dạy, tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học.
- Vận dụng phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học
hiệu quả ngày càng cao, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Công tác chủ nhiệm lớp được củng cố: theo dõi, kiểm tra việc thực hiện
chuyên đề sinh hoạt lớp thường xuyên; công tác chấm chữa bài được thực hiện
thường xuyên, có hiệu quả cao: học sinh biết cách trình bày vở, phần lớn học sinh
có ý thức giữ vở sạch, rèn chữ đẹp. Kinh nghiệm giáo dục đối tượng học sinh cần
quan tâm phong phú, quản lý, rèn nề nếp lớp học tốt, học sinh năng khiếu được bồi
dưỡng, học sinh yếu được điều chỉnh yêu cầu cho vừa sức, học sinh giỏi có cơ hội
tư duy, phát triển.
- Qua công tác kiểm tra định kì và thường xuyên, chất lượng soạn giảng so
với đầu năm đạt kết quả như sau:
Tổng số giáo viên trong khối: 10/10 nữ
Bảng thống kê cuối tháng 9/2011

CÔNG
TÁC
GIỎI
KHÁ
ĐẠT
YÊU CẦU
CHƯA
ĐẠT YÊU
CẦU
SL

%
SL
%
SL
%
SL
%
Năng lưc
dạy- học
6
60.0
3
30.0
1
10.0
0
0
Thực hiện
HS-SS
6
60.0
2
20.0
2
20.0
0
0
Chấm
chữa bài
7

70.0
3
30.0
0
0
0
0
Xây dựng
nề nếp lớp
6
60.0
3
30.0
1
10.0
0
0
8

Bảng thống kê giữa tháng 5/2012

CÔNG
TÁC
GIỎI
KHÁ
ĐẠT YÊU CẦU
SL
%
Tăng
Giảm

SL
%
Tăng
Giảm
SL
%
Tăng
Giảm
Năng lưc
dạy- học
8
80.0
2

2
20.0

1
0


1
Thực hiện
HS-SS
8
80.0
2

2
20.0



0


2
Chấm
chữa bài
10
100
3

0



0



Xây dựng
nề nếp lớp
10
100
4

0


3

0


1
- Qua kiểm tra định kì cuối học kì II, chất lượng giáo dục học sinh trong tổ
khối Dự bị, 1, 2 so với chất lượng khảo sát đầu năm đạt kết quả như sau:
Chất lượng khảo sát đầu năm học 2011- 2012
Tổng số học sinh khối Dự bị, 1, 2: 61/24 nữ.Trong đó:
+ Dự bị: 10/4 nữ
+ Khối lớp 1: 37/14 nữ
+ Khối lớp 2: 14/6 nữ
Học lực (2 môn Tiếng Việt và Toán)
XẾP LOẠI
MÔN
SỐ LƯỢNG
NỮ
%
GIỎI
Tiếng Việt
Toán
11
11
4
4
18,0
18.0
KHÁ
Tiếng Việt
Toán
9

11
6
6
14.8
18.0
TRUNG BÌNH
Tiếng Việt
Toán
21
15
6
6
34,4
24.5
YẾU
Tiếng Việt
Toán
20
24
8
8
32.7
39.3
Hạnh kiểm cuối học kì I
THỰC HIỆN ĐẦY ĐỦ
THỰC HIỆN CHƯA ĐẦY ĐỦ
SL
NỮ
%
SL

NỮ
%
54
21
88,5
7
3
11,5
9

Chất lượng giáo dục cuối năm học 2011- 2012
Học lực (2 môn Tiếng Việt và Toán)
XẾP LOẠI
MÔN
SỐ LƯỢNG
NỮ
%
GIỎI
Tiếng Việt
Toán
22
25
8
9
36,0
41,0
KHÁ
Tiếng Việt
Toán
12

12
4
3
19,7
19,7
TRUNG BÌNH
Tiếng Việt
Toán
20
8
7
2
32,8
13,1
YẾU
Tiếng Việt
Toán
7
16
5
10
11,5
26,2
Hạnh kiểm cuối học kì II
THỰC HIỆN ĐẦY ĐỦ
THỰC HIỆN CHƯA ĐẦY ĐỦ
SL
NỮ
%
SL

NỮ
%
56
22
91,8
5
2
8,2

IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Từ hạn chế trong những năm đầu làm công tác tổ trưởng tổ khối chuyên
môn, tôi đã không ngừng nỗ lực học hỏi từ những đồng nghiệp đi trước; tham khảo
nghiên cứu các tài liệu có liên quan, mạnh dạn thực hiện những ý tưởng mới, đề ra
biện pháp tổ chức sinh hoạt chuyên môn tổ khối Dự bị, 1, 2 có chất lượng và hiệu
quả. Căn cứ trên những kết quả đạt được, tôi thiết nghĩ đề tài có thể áp dụng cho
các tổ khối chuyên môn khác tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai.
Hoạt động sinh hoạt chuyên môn là không thể thiếu trong mỗi nhà trường.
Để có được chất lượng giảng dạy tốt, cần đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả của các buổi
sinh hoạt chuyên môn. Qua đề tài này tôi xin được đề xuất, khuyến nghị một số ý
kiến như sau:
Với Ban lãnh đạo:
- Có kế hoạch bồi dưỡng năng lực tổ chức, điều hành cho đội ngũ tổ khối
trưởng, những người chủ trì các buổi sinh hoạt chuyên môn. Vì thực tế cho thấy
một buổi sinh hoạt chuyên môn thành công phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và
chuyên môn của người điều hành.
- Nên có tổ chức, đánh giá, khen thưởng các tổ khối có nề nếp sinh hoạt
chuyên môn tốt. Vì trong thực tế ta thấy rằng: tổ khối nào có chất lượng sinh hoạt
chuyên môn hiệu quả thì ở đó có phong trào chuyên môn mạnh.
Với giáo viên:
- Nhiệt tình, thẳng thắn, đóng góp chân tình để xây dựng tổ ngày càng

vững mạnh - mạnh về số lượng, vững về chất lượng.
10

- Mạnh dạn đăng kí thi đua và có kế hoạch thực hiện cụ thể để đạt danh
hiệu thi đua đã đăng kí. Việc thực hiện kế hoạch thi đua cá nhân để đạt được danh
hiệu thi đua cũng là một trong những yếu tố giúp cho tổ khối phát triển.
- Thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ, chức trách được giao.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công văn số 1302/SGDĐT- GDTH, v/v Hướng dẫn triển khai thực hiện
nhiệm vụ năm học 2011-2012 đối với giáo dục tiểu học.
2. Thông tư số 41/2010/TT- BGDĐT ngày 30/12/2010.
3. Báo cáo tham luận về đổi mới quản lý chuyên môn ở trường Tiểu học -
UBND huyện Trảng Bom, phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Trảng Bom, ngày 02
tháng 7 năm 2010.

Biên Hòa, ngày 12 tháng 5 năm 2012
NGƯỜI THỰC HIỆN



Đoàn Bảo Châu


×