Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Trường ca Thu Bồn - Thể loại và cấu trúc pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.48 KB, 10 trang )

Trường ca Thu Bồn - Thể
loại và cấu trúc
Sự nghiệp trường ca của Thu Bồn trải dài suốt nửa thế kỉ từ trường ca đầu tiên
(Bài ca chim Chơ rao) xuất hiện vào những năm 60 của thế kỉ trước đến cả dàn ý
trường ca 10 chương Những người con của sử thi chưa kịp hoàn thành vào những
năm đầu thế kỉ XXI. Các nhà phê bình đã không ngần ngại khẳng định “Thu Bồn là
một nhà thơ viết nhiều trường ca nhất và thành công nhất của dòng văn học cách
mạng trong chiến tranh chống Mỹ xâm lược”
(1)
. Tuy nhiên, qua nghiên cứu trường
ca, đứng trên góc độ lý thuyết thể loại mà xem xét thì nhiều tác phẩm Thu Bồn gọi là
trường ca nhưng chưa hẳn đã là trường ca (chúng tôi sẽ nói ở phần sau). Nhưng nói
như nhà thơ Ngô Thế Oanh thì rõ ràng khi bàn đến trường ca Việt Nam, vị trí đầu đàn
và sự ảnh hưởng của Thu Bồn đối với các tác giả viết trường ca là khá rõ: “Xa hay
gần, trực tiếp hay gián tiếp, nhiều tác giả thơ của thế hệ chống Mỹ sau này như
Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo trong những trường ca của mình đều tìm thấy
sự gần gũi trong cảm hứng với hiện thực thời đại của Thu Bồn”
(2)
.
Khái lược như trên để thấy được vị trí và khẳng định sự đóng góp của Thu Bồn
đối với thể loại trường ca. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được trình bày cụ
thể những vấn đề về thể loại và cấu trúc của trường ca Thu Bồn để có một cái nhìn rõ
hơn về quá trình vận động của thể loại này trong sự nghiệp sáng tác trường ca của ông.
1. Trường ca Thu Bồn, nhìn từ góc độ thể loại
Trên cơ sở khái niệm trường ca, chúng ta có thể khái quát hai đặc điểm nổi bật
từ phương diện nội dung, tư tưởng và cấu trúc nghệ thuật của trường ca Việt Nam như
sau:
- Trường ca phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử, dân tộc và thời đại. Đó
là những vấn đề liên quan đến số phận cả cộng đồng và dân tộc, sự vận động của lịch
sử, dân tộc và thời đại thông qua những biến động lớn lao, là những kinh nghiệm lịch
sử, những được mất mà dân tộc đã trải qua.


- Trường ca mang một hình thức lớn, là một cấu trúc nghệ thuật phức hợp thông
qua các phương thức biểu hiện được nhà thơ thể hiện bằng một cảm hứng dào dạt, tuôn
trào. Đó là tính phức hợp của cấu trúc nghệ thuật trong việc sử dụng đa dạng và sáng tạo
các thể thơ, các thể loại văn học nghệ thuật, tính phức hợp nghệ thuật về ngôn ngữ,
giọng điệu và kết cấu tác phẩm, và là một phức hợp nghệ thuật trong việc kết hợp nhuần
nhuyễn và linh hoạt yếu tố tự sự và trữ tình.
Từ những đặc điểm khái quát trên, để tiện việc theo dõi toàn bộ trường ca của
Thu Bồn (xếp theo thời gian sáng tác), đầu tiên, chúng tôi xin được đưa ra bảng thống
kê cụ thể như sau:
T
Tên Trường ca Dung
lượng
tác phẩm
N
ăm
sáng
tác
1
Bài ca chim Chơ
rao
920 câu thơ
1
963
2
Vách đá Hồ Chí
Minh
346 câu thơ
1
970
3

Người gồng gánh
phương Đông
361 câu thơ
1
972
4
Tiếng hú người
Diôloa
75 câu thơ
1
974
5
Chim vàng chốt
lửa
420 câu thơ
1
973-
1975
6
Quê hương mặt
trời vàng
115 câu thơ
1
975
7
Ba dan khát 1.303 câu
thơ
1
976
8

Cam pu chia hi
vọng
1.409 câu
và 25 đoạn thơ
1
978
9
Thông điệp mùa
xuân
34 đoạn thơ
1
984
0
Người vắt sữa
bầu trời
507 câu và
53 đoạn thơ
1
985
1
Oran bảy sáu
ngọn
1.745 câu
và 11 đoạn thơ
1
989
2
Hà Nội ngày nào 128 câu thơ
1
996

Tất cả 12 tác phẩm trên, trong tác phẩm Thu Bồn - thơ và trường ca đều được
chính Thu Bồn sắp xếp vào mục trường ca. Nói chung, theo quan niệm của Thu Bồn
thì tên gọi trường ca phần nào đã đồng nhất với thơ dài. Hiện tượng này, thực ra cũng
không mấy xa lạ với cách gọi của văn học thể giới. Vì có rất nhiều những tác phẩm thơ
dài trên thế giới (khoảng trên dưới 100 câu) vẫn được gọi là trường ca (các trường
ca
của Sergei Esenin). Tuy nhiên, qua thực tiễn sự nở rộ của trường ca Việt Nam trong
những thập niên 70-80 của thế kỉ trước, và liên hệ với những bài thơ dài thời chiến,
chúng ta không thể đồng nhất giữa trường ca và thơ dài, vì rõ ràng, đây là hai thể loại
hoàn toàn khác nhau. Tôi hoàn toàn thống nhất với quan điểm rạch ròi của Nguyễn
Khoa Điềm và Thanh Thảo về sự khác nhau giữa hai thể loại này. Nguyễn Khoa Điềm
chỉ công nhận mình sáng tác duy nhất một trường ca, Thanh Thảo cũng khẳng định
mình chỉ có 8 trường ca, mặc dù cả hai tác giả này đều có hàng loạt bài thơ dài mang
dáng trường ca trước đó (thậm chí cả tác phẩm Một trăm mảnh gỗ vuông gồm 95 câu
và 34 đoạn thơ, Thanh Thảo vẫn chỉ gọi là "trích trường ca" mà không đưa vào danh
mục trường ca của mình).
Như vậy, đứng trên khái niệm hẹp của lý thuyết thể loại trường ca như đã nêu
trên, căn cứ vào hai đặc điểm nổi bật của trường ca, ta có thể dễ dàng nhận ra trên bình
diện bề mặt của cấu trúc nghệ thuật là “tính hoành tráng của hình thức”, hay gọi rõ hơn
là độ dài hình thức của tác phẩm thì có ít nhất 4 tác phẩm mà Thu Bồn gọi là trường ca
thực chất chỉ là những bài thơ dài. Ta có thể nhận thấy điều này qua thống kê so sánh
dưới đây:
Những bài thơ dài Thu Bồn gọi là trường ca
T
Tác phẩm Nă
m sáng tác
Dung
lượng
1
Tiếng hú người

Diôloa
197
4
75 câu
thơ
2
Quê hương mặt
trời vàng
197
5
115 câu
thơ
3
Thông điệp mùa
xuân
198
4
34
đoạn thơ
4
Hà Nội ngày nào 199
6
128 câu
thơ
Những bài thơ dài mang dáng trường ca của Nguyễn Khoa Điềm
T
Tác phẩm Năm
sáng tác
Dung
lượng

01
Đất ngoại ô 1968
-1969
83 câu
thơ
02
Con chim thời
gian
? 98 câu
thơ
03
Thưa mẹ con đi 1971 93 câu
thơ
04
Tôi lại đi đường
này
1971 72 câu
thơ
Những bài thơ dài mang dáng trường ca của Thanh Thảo
T
Tác phẩm Năm
sáng tác
Dung
lượng
1
Một người lính
nói về thế hệ mình
1972 117 câu
thơ
2

Thử nói về hạnh
phúc
1972 121 câu
thơ
3
Viết trên đường
số 1
1975 100 câu
thơ
4
Hà Nội - nhìn từ
phía tôi
1983 74 câu
thơ
5
100 mảnh gỗ
vuông
(Trích trường
ca)
1982
-1984
95 câu
thơ và
43 đoạn
thơ
Nếu bàn sâu về hình thức thể loại, ta có thể lấy ngay ý kiến của chính Thu Bồn
để phản biện cách gọi của chính ông. Ông cho rằng: “Trường ca - một kiến trúc tổng
hợp của thơ ca” thì ta nhận ra mức độ “tổng hợp” của 4 tác phẩm trên của Thu Bồn là
vô cùng đơn giản so với một số bài thơ dài của Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo.
Ngay bản thân tên gọi (nhan đề) của 4 tác phẩm này đã chứng tỏ nó chưa đủ sức bao

chứa tính “hoành tráng, sử thi” của tác phẩm, cho dù, tất nhiên, tên gọi không phải là
sự thể hiện toàn bộ độ “hoành tráng” của một tác phẩm. Tiếng hú người Diôloa thật
ra
là bài thơ về người đi săn (Diôloa = người đi săn). Hà Nội ngày nào chỉ là những mảng
kỉ niệm một thời, mà xét về độ “hoảnh tráng” thì vẫn chưa sánh kịp với cái nhìn sắc
sảo đầy liên tưởng dữ dội về những mảng kỉ niệm trong Hà Nội - nhìn từ phía tôi củ
a
Thanh Thảo. Còn Thông điệp mùa xuânthực chất là một khúc ca thơ về công trình thủy
điện Cầu Đỏ (Đà Nẵng). Ở đó, bằng niềm tự hào của mình hòa trộn với cảm xúc dạt
dào về quê hương, Thu Bồn thực hiện một “thông báo thơ” đưa tin vui đến toàn dân về
một công trình hiện đại. Nếu so sánh với Đất ngoại ô của Nguyễn Khoa Điềm viết về
một vùng đất ủ mầm cách mạng trong những ngày đen tối ở Huế hoặc so với cái cảm
hứng xuyên dài theo đất nước những ngày hòa bình, thống nhất đầu tiên trong Viết trên
đường số 1 của Thanh Thảo thì rõ ràng tính “sử thi, hoành tráng” của Thông điệp mùa
xuân chỉ là một mảng cảm xúc chưa ngang tầm “cảm xúc tuôn chảy ồ ạt” để thể hiện
một cách nghệ thuật nội dung, tư tưởng lớn của trường ca.
Trong 4 bài thơ trên của Thu Bồn, có lẽ cái nhan đề Quê hương mặt trời vàng là
có hơi hướng trường ca hơn hết. Đây là bài thơ mang cảm hứng ngợi ca đất nước, song
với dung lượng 115 câu thơ tự do, bài thơ này không đủ sức làm nên yếu tố tự sự và
“nhân vật” của trường ca. Cũng xuất phát từ những yếu tố vàng son rực rỡ của truyền
thống dân tộc với Âu Cơ, An Tiêm, với chim lạc, Đông Sơn, Loa Thành, song so với
chương Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm thì
cái nền văn hóa truyền thống ấy chỉ được lướt qua một cách khái quát, chung chung,
chưa đủ sức làm nên tính “đồ sộ, sử thi lung linh, huyền ảo” như một chương Đất
nước của Nguyễn Khoa Điềm. Và thực ra, nếu đọc kỹ bài thơ này thì sức bao quát, “độ
lớn” nội dung, tư tưởng vẫn chưa thể sánh kịp với bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình
Thi. Thực chất Quê hương mặt trời vàng chỉ là bài thơ ngợi ca quê hương, đất nước.
“Ngợi ca” là một đặc trưng của trường ca, nhưng tính thuyết phục bằng một “cảm xúc
tuôn trào”, bằng độ lớn và chiều sâu của tư tưởng thì tác phẩm này của Thu Bồn chưa
thể đạt tới “độ” của một trường ca (dù là một trường ca đơn giản).

Thử trích vài đoạn so sánh để ta dễ nhận ra hơn. Đây là đoạn mở đầu Quê
hương mặt trời vàng của Thu Bồn: “Quê hương tôi bé nhỏ đẹp xinh/ có đá trong
mưa/ lửa trong nắng/ dòng sông cạn mà đồng lại sâu/ có mẹ Âu cơ đẻ ra trăm
trứng/ chim lạc bay về trên mặt trống Đông Sơn/ có Loa thành mở ra kho truyền
thuyết/ những điều ấy trẻ em đều biết”
(3)
. Truyền thống văn hóa dân tộc chỉ được Thu
Bồn lướt qua như thế, trong khi đó, chỉ cần đọc vài câu mở đầu của chương Đất
nước trong trường ca Nguyễn Khoa Điềm, ta dễ nhận ra độ bao quát mang tầm trường
ca của cả Mặt đường khát vọng.
Đây là đoạn kết trong Hà Nội ngày nào của Thu Bồn: “lên Hồ Tây với lạnh lẽo
mùa đông/ căn phòng nhỏ ngọn đèn dầu thắp nén hương tôi viết/ tôi viết những gì tôi
thương tôi yêu tôi tin tôi tiếc/ và cả những gì đau xót đến chua cay/ Hà Nội ơi! Đêm
nào đó Người có hay/ ngọn bút rưng rưng tôi viết về Người đó”.
Thật ra, trích một vài đoạn thơ riêng lẻ để chứng minh “độ lớn cảm xúc” của
trường ca thì cũng chưa thuyết phục, song nếu nghĩ đơn giản rằng đây là những câu kết
luận của một trường ca về Hà Nội thì lại càng khó thuyết phục hơn. Đó chỉ mới là cảm
xúc về “những gì tôi thương tôi yêu tôi tin tôi tiếc” của một bài thơ về Hà Nội ngày
xưa.
Cũng trên nền chủ đề Hà Nội, cũng tâm trạng của những người từng gắn bó với
Hà Nội thời chiến tranh và thời bao cấp trở về sinh sống tại miền Nam, song cái hơi
hướng trong bài thơ Hà Nội - nhìn từ phía tôi của Thanh Thảo có độ sâu của cảm xúc
dồn nén và tuôn trào mãnh liệt hơn:“tôi trào lên như một vại bia hơi không kèm/ ta
uống với cá chuồn khô bán cắt ô tem phiếu/ ta nhấm nháp thói quen vô hiệu hóa thời
gian/ nâng chén rượu làng Vân hiện đại/ tôi uống mà nhớ/ dệ cỏ mềm ven đê/ nơi đứa
trẻ phóng lên khoảng mây vàng lụn ráng chiều một ngôi sao/ trong lúc dòng sông di
động mờ mờ/ tôi nghe hơi nóng từ ngực em gấp gáp/ bấy giờ tôi chưa đọc “Trăm năm
cô đơn”/ chưa từng biết Gacxia Máckét/ nhưng em thì tôi biết/ em khác xa những câu
văn ẩn ức/ em là cái gì không thể dịch”
(4)

.
Đến đây, ta dễ dàng nhận ra rõ ràng 4 tác phẩm mà Thu Bồn gọi là trường ca
trên đây, thực chất là những bài thơ dài đúng theo cách gọi các tác phẩm của
Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo. Hơn nữa, khác hoàn toàn với 8 trường ca còn
lại, 4 bài thơ này, Thu Bồn viết liền mạch không hề có sự phân chia chương, mục
phổ biến thể hiện từng mảng cảm xúc như các trường ca.
Như vậy, đứng trên góc độ lý thuyết thể loại mà xem xét thì trong 12 tác phẩm
Thu Bồn gọi là trường ca, chỉ có 8 tác phẩm là trường ca thực sự với “nội dung lớn”,
“tư tưởng lớn” chứa đựng trong một “hình thức lớn”. Kết thúc phần này, ta đủ cơ sở để
kết luận rằng: Thu Bồn và Thanh Thảo là hai nhà thơ viết nhiều trường ca nhất trong
các nhà thơ hiện đại Việt Nam (mỗi tác giả đã viết 8 trường ca). Còn tất cả những bài
thơ dài (Thu Bồn: 4 bài, Nguyễn Khoa Điềm: 4 bài, Thanh Thảo: 4 bài và 1 trường ca
dang dở) đều là những bài thơ dài mang hơi hướng trường ca như là một sự tích lũy,
một sự thử nghiệm để làm cơ sở sáng tạo nên những trường ca thực thụ.
2. Cấu trúc của trường ca Thu Bồn
Xưa nay, trong quá trình nghiên cứu cấu trúc của trường ca, nhiều tác giả có đưa
ra hai mô hình cấu trúc phổ biến của trường ca hiện đại Việt Nam, là cấu trúc theo
tuyến sự kiện, có cốt truyện, "nhân vật" và cấu trúc theo mạch tư tưởng, cảm xúc. Đây
là hai mô hình chung nhìn từ góc độ cấu trúc nội tại của nội dung trường ca. Đứng ở
góc độ này, thì cấu trúc trường ca Thu Bồn gồm cả hai loại. Nhưng đúng như nhận xét
của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu: “Bài ca chim Chơ rao được Thu Bồn viết theo lối
truyền thống, có cốt truyện, có nhân vật dưới dạng một truyện thơ truyền thống. Người
đọc bị cuốn hút, rung động bởi lối dẫn truyện, bởi nhịp thơ, bởi ngôn ngữ hình tượng.
Ở những trường ca khác, Thu Bồn không chịu đi theo lối mòn, ông có một cuộc cách
tân bứt phá, tự vượt lên mình. Bứt phá cả trong cách cấu trúc, trong thể loại thơ, trong
cách biểu đạt”
(5)
.
Về tổng thể, ta có thể phân trường ca Thu Bồn ra hai dạng cấu trúc sau:
- Dạng cấu trúc có cốt truyện và "nhân vật" cụ thể, gồm 5 trường ca: Bài ca

chim Chơ rao, Vách đá Hồ Chí Minh, Badan khát, Campuchia hi vọng và Oran 76
ngọn.
- Dạng cấu trúc theo mạch tư tưởng và cảm xúc, cốt truyện không rõ, không có
“nhân vật” cụ thể, gồm 3 trường ca: Người gồng gánh phương Đông, Chim vàng chốt
lửa vàNgười vắt sữa bầu trời.
Nhìn trên bề mặt tác phẩm, tất cả tám trường ca của Thu Bồn đều được cấu trúc
theo chương, mục trừ Bài ca chim Chơ rao. Tuy nhiên, khi nghiên cứu cấu trúc nội tại
của từng trường ca, ta dễ nhận ra bên trong của bề mặt chương, mục, Thu Bồn vận
dụng đan xen nhiều kiểu cấu trúc khác nhau. Để đi tìm cuộc “bứt phá” ngoạn mục
trong cấu trúc trường ca Thu Bồn, chúng tôi không đi lại theo cách phân chia thành hai
dạng cấu trúc như đã nêu trên mà tìm đến một nẻo đi riêng và quy ra bốn kiểu cấu trúc
nổi bật mà Thu Bồn đã vận dụng trong quá trình sáng tác trường ca của mình.
Cấu trúc theo kiểu truyện thơ
Bài ca chim Chơ rao trong bản của Nxb. Quân đội nhân dân (năm 1997) thì chia
làm 8 mục, mỗi mục được phân chia bằng một dấu sao (*) nhưng trong Thu Bồn - thơ
và trường ca của Nxb. Đà Nẵng (năm 2003) thì không còn những dấu sao mà in liên
tục từ đầu đến cuối mỗi khổ 4 câu thơ. Được xem là trường ca đầu tiên (in 1963) thành
công nhất viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhưng thực ra Bài ca chim Chơ rao của
Thu Bồn được cấu trúc theo lối truyện thơ truyền thống trên nền của các sử thi Tây
Nguyên. Có điều nó hoàn toàn không phải là truyện thơ vì tác giả không nặng về phần
kể mà nghiêng hẳn về cảm xúc biểu đạt. Trong toàn bộ trường ca, yếu tố trữ tình hoàn
toàn lấn át yếu tố tự sự. Cái hấp dẫn của trường ca này không phải lôi cuốn người đọc
bằng nội dung câu chuyện mà thật sự rung động bởi cảm xúc mãnh liệt, dạt dào, bi
tráng trong cách kể của Thu Bồn. Bài ca chim Chơ rao không phân chương, không có
nhan đề cho từng phần mà các phần được nối nhau bằng những câu thơ chuyển mạch
theo lối truyện thơ. Chính vì thế, trường ca này, xét về mặt cấu trúc ta dễ nhận ra nó
mang dáng cấu trúc của một truyện thơ. Mở đầu là tiếng hát trong nhà lao vào
một “đêm tháng bảy trời sao yên tĩnh”. Có không gian cụ thể (đêm), có thời điểm rõ
ràng (tháng bảy) của truyện. Tiếng hát dẫn đến cuộc hội ngộ của ba nhân vật chính là
Hùng, Rin và Sao; để từ đó, tác giả kể lại toàn bộ thiên tình sử bi tráng của Rin và Sao,

cũng như cuộc đời xa quê đi làm cách mạng của Hùng. Câu chuyện kết thúc bằng cái
chết cao cả, bi hùng của hai người chiến sĩ Hùng và Rin. Nếu là truyện thơ thì tác
phẩm đến đây là kết thúc. Song, vì là trường ca, do đó, Thu Bồn lại mở ra một đoạn
hiện tại mới “Sau mấy năm, hôm nay tôi trở lại” gặp lại Sao “Bây giờ thành chị bí
thư” và được cô dẫn đến thăm mộ của Hùng, Rin trong một bối cảnh Tây Nguyên
hoàn toàn khác trước. Nếu được viết ở giai đoạn sau này thì tác giả sẽ không ngần ngại
gắn vào đoạn kết này hai chữ “Vĩ thanh” như ta thường gặp ở trường ca.
Cấu trúc kiểu truyện thơ trong trường này thể hiện trước tiên ở những câu thơ
mang đậm tính chất kể cùng những câu chuyển mạch nối liền các phần truyện để
chúng được liên tục với nhau. Những câu thơ đậm chất kể này thường nằm ở câu mở
đầu chuyển dẫn các đoạn liên kết nhau: “Đêm tháng bảy trời sao yên tĩnh”, sau
đó: “Trong tù đêm nay có người con gái”… rồi “Lum - tên chánh tổng làng bên kia
suối”, “Một đêm trên đồi le trăng nở”, “Sáng hôm sau cành cây trên mồ treo cổ nó”,
“Rin bỏ làng ra đi năm trước”, hoặc “Hùng có mái nhà tranh nho nhỏ”, “Ngày ra đi
anh hẹn em trở lại”, rồi “Trở về buồng giam Sao hát”, “Trên nương sáng nay lúa vừa
ngậm sữa”, “Lính quan khiếp đởm ùn nhau chạy”, “Chim chơrao ơi! Bay về buôn
vắng”, cuối cùng “Sau mấy năm hôm nay tôi trở lại”, “Tôi và Sao đi trên đỉnh đồi
nắng ấm”, và “Tôi đến thăm nơi một già làng yên nghỉ”. Tất cả đều là những câu mở
đầu đầy chất tự sự để làm nền chuyện cho những câu thơ đầy cảm xúc phía sau. Đây
cũng chính là thành công nổi bật của Bài ca chim Chơ rao.
Ngoài Bài ca chim Chơ rao, bốn trường ca được viết theo lối cấu trúc có cốt
truyện và nhân vật của Thu Bồn như đã nêu trên đều có chuyện, song các trường ca
này không còn cấu trúc theo kiểu truyện thơ truyền thống mà là lối cấu trúc mang tính
tổng hợp theo cách của truyện ngắn hiện đại. Nghĩa là không nhất thiết phải theo trình
tự thời gian mà đảo lộn trật tự câu chuyện theo từng mảng cảm xúc của tác giả. Đồng
thời với lối xáo trộn nội dung này, Thu Bồn đã vận dụng rất nhiều dạng cấu trúc khác
nhau.
Cấu trúc kiểu điện ảnh (montage)
Đứng về mặt văn học mà nói, kịch bản điện ảnh nổi lên hai đặc trưng chủ yếu
tạo nên “phong cách kịch bản”, đó là: kịch bản chủ yếu thuộc về nghệ thuật nghe nhìn

và bao giờ cũng diễn ra ở thì hiện tại. Nếu “các loại hình văn học khác chủ yếu viết ra
để được đọc” thì “ngược lại, kịch bản được viết ra chỉ nhằm để được nhìn và được
nghe mà thôi. Chính vì vậy mà trong kịch bản ta chỉ nên nói đến hình ảnh và càng
tránh càng tốt tất cả những gì thuộc về dự định, ý nghĩa; nói chung, là tất cả những gì
không có tính chất “nghe nhìn”
(6)
. Từ những kiến thức điện ảnh cơ bản trên, ta có thể
dễ nhận ra trong bảy trường ca còn lại của Thu Bồn, nổi rõ lên hai trường ca được anh
chú tâm cấu trúc theo mô hình loại “nghệ thuật thứ bảy” này. Đó là trường ca Ba dan
khát và Oran 76 ngọn.

×