Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tính năng động nghệ thuật của văn học hiện đại Việt Nam và một cách nhìn từ thể loại ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.33 KB, 13 trang )

Tính năng động nghệ thuật
của văn học hiện đại Việt Nam và
một cách nhìn từ thể loại

1. Tính năng động nghệ thuật là một thuộc tính bản chất, một đặc
trưng loại hình của văn học hiện đại. Chúng tơi đã có dịp nêu vấn đề này
như một trong năm tiêu chí để hiểu nội dung khái niệm văn học hiện
đại trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 9/2005 và sau đó, tháng 3/2006
trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật tồn quốc (Ban tư
tưởng văn hố TW tổ chức tại Hà Nội). Bấy giờ, năm tiêu chí ấy mới chỉ là
những xác định mang tính chất một “tín chỉ” để “nhập cảnh” vào thế giới của
nền văn học hiện đại – một nền văn học được khu biệt về loại hình với nền
văn học trung đại.

Tính năng động nghệ thuật vừa là một đặc trưng loại hình, vừa là một
quy luật tồn tại và phát triển của văn học hiện đại. Điều hiển nhiên, tính
năng động là đặc điểm của mọi nghệ thuật và mọi loại hình văn học. Bởi vì
nói đến văn học nghệ thuật là nói đến sự sáng tạo cái mới, cái độc đáo.
Khơng có tính năng động nghệ thuật thì làm sao văn học các thời đại có thể
để lại những giá trị nghệ thuật đặc sắc, không trùng lặp, làm sao tồn bộ
nền văn học có thể vận động phát triển từ phạm trù này, trình độ này đến
phạm trù khác, trình độ khác được? Nhưng mặt khác, xét ở quan điểm
chính thống, quan phương của văn học từng thời đại, tính năng động nghệ
thuật khơng phải bao giờ cũng được đặt ở bình diện thứ nhất như là hệ


thống chiếm ưu thế trong tương quan với tính quy phạm, khuôn mẫu được
giới định bởi hệ thống các quy tắc nghệ thuật, các cơng thức thẩm mỹ. Ở
loại hình văn học trung đại, khơng phải khơng xuất hiện tính năng động
nghệ thuật trong sáng tác. Nhưng điều chắc chắn, tính năng động đó chủ
yếu được biểu hiện trong thực tiễn sáng tạo của nhà văn khi nó có nhu cầu


và có khả năng vượt thốt ở những vị trí nhất định trên biên giới nghiêm
khắc của “luật pháp” nghệ thuật thời trung đại. Nó khơng có được đặc
quyền đứng ở bình diện số một, chiếm ưu thế. Đặc quyền ấy thuộc về các
phép tắc, các quy chuẩn nghệ thuật của thời đại. Đảo ngược vị thế giữa hai
mặt đó sẽ khơng cịn là loại hình văn học trung đại. Nhìn ở ý nghĩa này, trên
hoạt động tổng thể của nền văn học có thể khẳng định sự tiến bộ của văn
học hiện đại so với văn học trung đại, trong khi khơng thể nói được nghệ
thuật thơ Xn Diệu tiến bộ hơn, cao hơn nghệ thuật thơ Nguyễn Du hay
thơ Hồ Xuân Hương chẳng hạn.

2. Văn học hiện đại xem tính năng động nghệ thuật như là bình diện
chiếm ưu thế trong tương quan với các “phép tắc” nghệ thuật hiện đại.
Nhưng khơng phải vì thế mà văn học hiện đại là một nền văn học hoàn toàn
phi chuẩn. Nó có chuẩn của nó, ở mỗi thời kỳ văn học hiện đại, đều có mơ
hình nghệ thuật, có chuẩn mực thẩm mỹ cho thời kỳ đó. Song tuyệt nhiên,
các chuẩn mực, phép tắc nghệ thuật này không phải là luật pháp bất di bất
dịch của nghệ thuật, không phải là những phép tắc thống trị nghệ thuật hiện
đại “nhất thành bất biến”.

Tính năng động nghệ thuật như một yêu cầu bản chất của văn học
hiện đại, đã biến văn học hiện đại thành một hệ thống mở, luôn luôn vận
động, đổi mới trên mọi phương diện của nó. Từ nhà văn đến người đọc, từ
quan niệm về thế giới và con người, từ ý thức văn hoá đến nhận thức lịch
sử của nhà văn, từ tư duy nghệ thuật đến thể loại, ngôn ngữ, phong cách
và thi pháp v.v... Mỗi phương diện đó, ở từng thời kỳ nhất định của văn học
hiện đại, khi đã phát triển đến độ chín có nghĩa là tự nó mở ra những giới
hạn mới cho sự chiếm lĩnh nghệ thuật, nghĩa là tự nó có nhu cầu tiếp tục


đổi mới để vươn xa hơn khả năng phát hiện và sáng tạo thế giới nghệ

thuật. Điều đáng nói là quy luật về tính năng động nghệ thuật cũng chi phối
cả phương diện “phép tắc” - nếu có - ở mỗi thời kỳ của văn học hiện đại,
biến các “phép tắc” đó thành một phạm trù lịch sử - nghĩa là bản thân các
“phép tắc” cũng vận động, thay đổi để bắt kịp sự phát triển của thế giới hiện
thực và của nghệ thuật.

Vì vậy, khơng thể nhận thức được bản chất của văn học hiện đại xét
trên ý nghĩa tồn thể cũng như khơng thể giải thích một cách đúng đắn,
công bằng những đổi mới, cách tân của các hiện tượng văn học cụ thể đã,
đang và sẽ xuất hiện nếu khơng quan tâm đến tính năng động nghệ thuật như một đặc trưng loại hình của văn học hiện đại.

*

3. Tính năng động nghệ thuật của văn học hiện đại, do đó đã trở
thành một trong những cái nhìn phương pháp luận phổ biến trong nhiều
cơng trình nghiên cứu, khảo sát phê bình các hiện tượng văn học hiện đại
cả một thế kỷ vừa qua. Nhưng chính bản thân nó với tư cách một đặc trưng
loại hình của văn học hiện đại, hầu như chưa được khái quát một cách đích
thực, rõ ràng, chưa được lý giải và thực chứng thỏa đáng để nhận ra một
quy luật tồn tại và phát triển của nền văn học hiện đại. Chính khơng ý thức
đầy đủ tính năng động nghệ thuật như là một bản chất, một quy luật của
văn học hiện đại nên từ đầu nửa cuối thế kỷ XX, khi xuất hiện trào lưu văn
học hậu hiện đại, lập tức trào lưu này mở cuộc tuyên chiến đối lập với văn
học hiện đại. Theo họ, văn học hiện đại đã lỗi thời phải thay thế bằng văn
học hậu hiện đại. Xung đột nói trên xoay quanh câu chuyện “quyền uy” của
văn học hiện đại. Tinh thần hậu hiện đại chống lại “quyền uy” này như là
chống lại những quy phạm nghệ thuật mới, hay là tính “cổ điển mới” của
văn học hiện đại. Theo đó, chủ nghĩa hậu hiện đại chống lại việc văn học
hiện đại từng phủ nhận tính khn mẫu khắt khe trong tư duy nghệ thuật



trung đại, nhưng đến lượt nó, văn học hiện đại lại đẻ ra những khn mẫu
nghệ thuật của nó, trong khi thực tiễn cuộc sống xã hội hậu công nghiệp
từng giây, từng phút phá vỡ những giới hạn lý thuyết đã có trên mọi hoạt
động của con người. Trào lưu hậu hiện đại ra đời còn muộn mằn hơn,
nhưng cũng như một số trào lưu khác trong văn học thế kỷ XX, nó mong
muốn cắt đứt mối liên lạc giữa nghệ thuật với hiện thực. Ý đồ ly khai với
hiện thực đời sống của một số khuynh hướng nghệ thuật nào đó, thực chất
là việc phủ nhận một cách chủ quan quy luật về tính năng động nghệ thuật
của văn học hiện đại.

Hiện thực của cuộc sống hiện đại là một hiện thực ln ln vận động
về phía trước, về tương lai. Đó là sức sống của thực tiễn khơng ai phủ nhận
được mà chính C. Mác từng khẳng định nó như một quyền lực, “quyền lực
của thực tiễn”. Nó chính là nguồn gốc sâu xa khởi động quy luật về tính
năng động của văn học hiện đại. Do đó, sự xuất hiện nhiều chủ nghĩa,
nhiều xu hướng nghệ thuật trong thế kỷ vừa qua - kể cả “hậu hiện đại”, một
mặt là những phương thức khác nhau của nghệ thuật để chiếm lĩnh hoặc
dự báo những thực tiễn mới của xã hội, biểu hiện quan hệ máu thịt không
thể ly khai giữa văn học nghệ thuật với hiện thực. Mặt khác, xét từ tính
năng động nghệ thuật của văn học hiện đại, nó chính là kết quả, là sự hiện
thân sinh động của quy luật này. Vậy thì “hậu hiện đại” cũng là văn học hiện
đại ở cấp độ mới, trong chiều kích mới. Chẳng qua muốn tìm cách đối lập
với tính năng động nghệ thuật của văn học hiện đại, những người đề
xướng văn học hậu hiện đại muốn tách nó ra như một loại hình nghệ thuật
mới, thốt ra khỏi loại hình văn học hiện đại một cách siêu hình vì trên thực
tế chính họ chưa thể khai phóng được một khái niệm mới để gọi tên đích
đáng loại hình nghệ thuật mới này (nếu có) để đối lập với khái niệm “văn
học hiện đại” (như văn học hiện đại từng đối lập với văn học trung đại) mà
vẫn phải sử dụng khái niệm “hiện đại”, còn “hậu” chẳng phản ánh ý nghĩa

phạm trù hay loại hình mà chỉ có ý nghĩa thời gian, như một thời kỳ phát
triển sau những thời kỳ khác của văn học hiện đại mà thôi. Mặt khác, người
ta vẫn thường hiểu khái niệm “hiện đại” theo hai nghĩa: Một là để chỉ một


thời kỳ lịch sử và văn học bắt đầu từ khi xuất hiện nền sản xuất cơ khí đại
cơng nghiệp, lấy xã hội đô thị làm trung tâm thay thế nền sản xuất nông
nghiệp trung cổ lấy nông thôn làng xã làm điểm tựa. Hai là “hiện đại” nói với
nghĩa trình độ cao nhất mà nền văn minh nhân loại đạt tới hiện thời (đương
đại). Cả hai cách hiểu này không đối lập nhau, cách hiểu thứ hai nằm trong
cách hiểu thứ nhất, bởi theo quy luật vận động của xã hội hiện đại, trình độ
cao nhất của thời kỳ này bao giờ cũng là bà đỡ, là bậc thang để nhân loại
vươn tới trình độ cao hơn ở thời kỳ sau.

*

4. Từ quy luật về tính năng động nghệ thuật của văn học hiện đại, có
thể hiểu rõ hơn thực chất ba bước chuyển lớn của văn học Việt Nam thế kỷ
XX.

Bước thứ nhất: thời điểm 1932: khi những trào lưu văn học hiện đại
chính thức trình diễn sau hơn một phần tư thế kỷ quằn quại, vật lộn trong
cuộc đấu tranh mới - cũ, Đông - Tây để đổi mới. Những thể nghiệm đầu tiên
đã xứng với vị trí mở đầu của nó: văn xi hiện thực từ Hồ Biểu Chánh qua
Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, tiểu thuyết lãng mạn với Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách và thơ lãng mạn Tản Đà được coi như những tiếng nổ
“đề pa”, những bản nhạc dạo đầu cho cuộc hoà tấu hiện đại bắt đầu náo
nhiệt. Tính năng động nghệ thuật được giải phóng, đẩy văn học đi lên với
tốc độ “một ngày của ta bằng ba mươi năm của người”. Đến một ngày nào
đó, tính năng động nghệ thuật qua thị hiếu cảm thụ của công chúng cũng

đẩy những khúc dạo đầu vào quá khứ. Từ sau 1932, Tố Tâm khơng cịn
bán chạy như 7 năm trước, ít ai còn đọc thơ Tản Đà, người ta lạ lẫm với
giọng đạo lý răn đời trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, người ta tìm đến Tự
lực văn đồn, thơ Mới và văn xuôi hiện thực phê phán. Và hơn 10 năm, đến
trước 1945 cả ba tư trào này sau khi đạt đến độ chín với những thành tựu
nghệ thuật ngang tầm văn học hiện đại thế giới cùng thời kỳ lại rơi vào bế


tắc. Do tính năng động nghệ thuật của nó, đến đây văn học hiện đại cần
tiếp tục đổi mới. Có lẽ không cần đặt một giả định khác khi cuộc Cách mạng
tháng Tám - 1945 thực sự đã tạo ra một thế giới hiện thực mới cho văn học
hiện đại. Hiện thực đã năng động đổi mới, văn học cũng tìm được lối thốt
mới cho những bế tắc của mình. Bước chuyển của văn học từ sau 1945
trước hết biểu hiện tính năng động của nền văn học ở phương diện sứ
mệnh lịch sử cải tạo thế giới của nó. Ở phương diện này, văn học cách
mạng và kháng chiến từ 1945 đến 1975 trong chừng mực nhất định đã có
nhiều thành tựu. Nó đã tạo ra được thi pháp đặc thù của thời đại mà khơng
thể nói là cao hơn hay thấp hơn so với trước và sau nó, vì nó giải quyết
những bài tốn cuộc sống đặc trưng cho thời đại của nó.

Nhưng, như bất cứ thời kỳ nào của văn học hiện đại, tự thân nền văn
học 1945-75 cũng bao hàm trong nó những mâu thuẫn: trong giao thời văn
học trước và sau 1945, tính năng động nghệ thuật đã là bà đỡ cho sự “lột
xác”, cho sự giải thốt bế tắc của nền văn học, thì từ sau 1945, tính năng
động nghệ thuật của văn học hiện đại theo quy luật của nó lại bắt đầu va
chạm với các “quy tắc” miêu tả, những chuẩn mực và định hướng nghệ
thuật của văn học thời kỳ này.

Sự va chạm, mâu thuẫn thể hiện trên nhiều phương diện: giữa con
người cá nhân với con người cộng đồng, giữa tư duy nhị nguyên phân lập

với cái nhìn đa tuyến, đa phương về con người và cuộc sống, giữa cái một
thời và cái vĩnh cửu… Tất cả tập trung vào va chạm điển hình: giữa cá tính
sáng tạo tự do với những yêu cầu chính trị xã hội của thời đại đối với văn
học. Nhiều hiện tượng văn học phức tạp “có vấn đề” của thời kỳ 1945-75 và
đến cả 1985 đều là những “mảnh vỡ” khác nhau của sự va chạm đó. Điều
đó chứng minh rằng tính năng động nghệ thuật của văn học hiện đại đang
có mặt, đang vận hành để thúc đẩy nền văn học tiếp tục phát triển trên
hành trình hiện đại hố.


Giờ đây nền văn học hiện đại của ta đang trong bước chuyển thứ ba
kể từ đổi mới (1986). Thực ra, bước chuyển này đã được dự báo từ một số
hiện tượng văn học trước 1986. Nhưng tính năng động nghệ thuật của văn
học hiện đại thực sự được thể hiện một cách thuận lợi hơn nhờ có sự năng
động mở đường của tư duy chính trị xã hội. Cá tính sáng tạo tự do của nhà
văn dường như tìm được chân trời mới của nghệ thuật. Cá tính sáng tạo
của nhà văn được trả lại tính năng động nghệ thuật vốn có của nó bởi vì nói
như R. Rơ-lăng: “Hoạt động của tôi (của nhà văn - LVT) luôn ln có tính
chất năng động. Tơi bao giờ cũng viết cho những người đang tiến lên phía
trước, bởi vậy bản thân tơi bao giờ cũng tiến lên phía trước... Đối với tơi
cuộc sống sẽ khơng là gì cả nếu như nó khơng biểu thị sự vận động, lẽ cố
nhiên là hướng thẳng về phía trước”(1).

Cá tính sáng tạo tự do của nhà văn ngày càng tìm được sự đồng
thuận, bình đẳng với yêu cầu chính trị. Một tác phẩm văn học hiện đại đích
thực ngày nay phải được một sự bảo đảm đầy đủ cho cá tính sáng tạo của
nhà văn, thể hiện rõ rệt nhất phương thức cảm thụ thế giới của chủ thể. Có
như vậy, văn học hiện đại mới tạo ra được những thế giới nghệ thuật sống
động, đỉnh cao, gắn bó máu thịt với sự vận động của thế giới hiện thực hiện
đại đang diễn ra chóng mặt. Cá tính sáng tạo được giải phóng tự do, có

nghĩa là tính năng động nghệ thuật tìm được mơi sinh của nó, truyền cho
sáng tác văn học hiện đại một ý nghĩa xã hội, một sức mạnh thẩm mỹ to
lớn. Vì vậy, ý nghĩa đích thực của sự giải phóng cá tính sáng tạo khơng thể
tách rời sự vận động của thế giới hiện thực. Ý đồ muốn khẳng định cái “tôi”
chủ quan một cách cực đoan, siêu hình, dìm mình vào một thế giới đơn thể,
quay lưng, đối lập với thế giới phức điệu của hiện thực cuộc sống đương
đại, của dân tộc và nhân loại, của số phận và tương lai của con người sẽ
đẩy nhà văn và nghệ thuật đến chỗ đánh mất cái sức mạnh thực sự của
nghệ thuật, cái sức mạnh được nảy sinh trên cơ sở sự gắn bó mật thiết với
hiện thực.

*


5. Tính năng động nghệ thuật của văn học hiện đại chi phối mọi
phương diện của nền văn học này. Nó là một thứ năng lực đặc thù, một khả
năng đặc biệt để văn học hiện đại vận hành theo một lối riêng tạo ra thế giới
nghệ thuật phong phú, phức tạp chưa từng có xét ở cả hai chiều đồng đại
và lịch đại. Dưới đây là bước đầu nghiệm thu hiệu quả của thứ năng lực
đặc thù đó qua hành trình vận động đổi mới thể loại hiện đại.

Thể loại trong văn học nói chung thường là điểm gặp, là phạm trù
nghệ thuật hội ngộ các phạm trù khác. Khi ở ngồi tác phẩm, thể loại là cái
khn vơ hồn. Khi nhà văn lựa chọn một thể loại để viết tác phẩm, thì thể
loại thành một yếu tố nghệ thuật mang ý thức văn hoá của nhà văn trong
tác phẩm. Cũng như các yếu tố hình thức khác, thể loại của tác phẩm là
một kiểu khúc xạ các dạng thức, hình thái của hiện thực qua tâm lý sáng
tạo của chủ thể. Thể loại trong tác phẩm là một phần linh hồn, một phần
chân dung văn hoá của nhà văn.


Thể loại văn học trung đại mang tính khép kín xét trong cả hệ thống
và từng thể loại. Có vận động, biến đổi ít nhiều là kết quả của những cá tính
sáng tạo mạnh, khơng phải do đặc trưng bản chất loại hình của văn học
trung đại. Tính khép kín tạo ra những quy tắc thể loại máy móc, bất biến,
cầm tù sáng tạo của nhà văn trong những công thức tiền định. Hiện tượng
số hố cơng thức thể loại là biểu hiện rõ nhất của tính khép kín đó:
“Thất ngôn bát cú”, “Thất ngôn tứ tuyệt”, “Ngũ ngôn tứ tuyệt”, “lục bát”,
“song thất lục bát”,… Nghe tên các thể loại này, người ta liên tưởng liền
mạch với những quy phạm nhân sinh cũng bị số hóa: đàn ơng thì
“Tam cương, ngũ thường”; đàn bà phải “Tứ đức, tam tòng”. Sách vở chỉ
nam thì phải là “Tứ thư ngũkinh”. Cùng với số hoá thể loại là những quy tắc
về bố cục, kết cấu, chất liệu, những niêm, luật, vần, đối, bằng trắc, v.v… Tất
cả là những “barie” nghệ thuật bao vây, cản trở tính năng động sáng tạo
của cá tính nhà văn.


Thể loại văn học hiện đại là một hệ thống mở đầy tính năng động.
Ngay từ đầu q trình hiện đại hoá văn học, thể loại cũng bắt đầu một tiến
trình vận động, biến đổi khơng ngừng, vì bản thân cuộc sống hiện thực hiện
đại đang từng giờ đổi thay, mở rộng tầm nhìn người Việt vào những chân
trời mới lạ, những quan hệ đa chiều phức tạp. Phương thức và quan niệm
thể loại cũng thay đổi. Sau những thể nghiệm do học tập các thể loại hiện
đại phương Tây ở bước đi đầu với tiểu thuyết Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu
Chánh, Hoàng Ngọc Phách…, truyện ngắn Phạm Duy Tốn…, kịch nói Vũ
Đình Long, Nam Xương…, cùng những cải biến thể loại truyền thống của
Tản Đà, Phan Bội Châu…đến cuối những năm 20 thế kỷ trước đã có thể
nói đến một “sự định hình tính chất mới, hệ thống thể loại mới của văn học
hiện đại”(2). Nhưng không nên hiểu “định hình” ở đây như là một sự cố định
hố, như là các thể loại đã được an bài mà nên hiểu “định hình” theo nghĩa
khẳng định xu hướng và quan điểm thể loại mới chuẩn bị cho một cuộc

cách mạng thật sự về thể loại sắp mở màn. Xưa, cha ông ta tập theo thể
loại của văn học cổ Trung Hoa và hầu như chủ yếu là rập khuôn theo mẫu
gốc suốt 10 thế kỷ văn học trung đại. Những cải biến thể loại khơng nhiều
do tính năng động, sáng tạo của nhà văn không được phát động. Bước
sang văn học hiện đại, thế hệ nhà văn đầu tiên cũng bắt chước học tập thể
loại văn học hiện đại phương Tây (trực tiếp là văn học Pháp). Hiện tượng
đó là tự nhiên, cần thiết, nhưng chỉ diễn ra chủ yếu trước 1920, từ 1920 về
sau nhất là từ đầu những năm 30 trở đi, các “mẫu gốc” thể loại hiện đại
phương Tây sẽ đi qua ý thức sáng tạo của nhà văn Việt Nam không ngừng
vận động, đổi mới làm cho năng lực chiếm lĩnh nghệ thuật đối với hiện thực
của thể loại ngày càng tăng trưởng cả chiều sâu lẫn chiều rộng.

Tính năng động của thể loại hiện đại đã phát động đầu tiên cuộc cách
mạng về thơ. Hồi Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã nói đến cuộc đổi thay
này như “những năm đại náo trong làng thơ”, đó là một “cơn gió dữ dội” tạo
ra “cuộc biến thiên vĩ đại”, “cuộc cách mệnh về thi ca”. Nền tảng thơ xưa “bị
một phen điên đảo” do cuộc thâm nhập táo tợn của văn xuôi “tràn vào thơ,


phá phách tan tành” thơ cũ để tạo dựng mô hình thơ mới. Cuộc thâm nhập
này làm chuyển hố căn bản kiểu câu thơ điệu ngâm trung đại sang câu
thơ điệu nói hiện đại. Chất văn xi tạo câu thơ vắt dịng, ngắt dịng kiểu
mới khơng chỉ trong thơ Mới mà cả trong Từ ấy của Tố Hữu. Hiện
tượng câu thơ khơng tương ứng với dịng thơ đã thành phổ biến (trong khi
thơ trung đại câu thơ thường trùng khớp với dòng thơ): do yêu cầu diễn tả
đa dạng các kiểu thức lời nói có logíc, có sự mạch lạc, khúc chiết nhằm
truyền đạt những ý tưởng khác nhau: nhân quả, tương hỗ, hô ứng, khẳng
định - phủ định, đồng tình - tranh biện, và để trình bày những lý lẽ ấy, thơ
hiện đại sử dụng nhiều hư từ, quan hệ từ vốn không thông dụng trong thơ
trung đại: vẫn, để, như, nhưng, hãy, cứ, chẳng, sẽ, với, nếu, hay,... Đoạn

thơ tám dòng sau đây thực ra là diễn đạt một câu – lời nói dài với một chủ
từ: “ta” và nhiều từ chỉ hành động của “ta”: “ta hát”, ta“cười
nói”, ta “khổ”, ta “nuốt”, ta “nao nao”, ta “cháy ruột”:
... Nếu đôi lúc ta hát thầm nho nhỏ
Dưới gầm xai, hay cười nói huyên thiên
Như một thằng trẻ dại, một thằng điên
Là để khổ trong những giờ im lặng
Để nuốt bọt với bao nhiêu mật đắng
Của một đời cách biệt với đời chung
Để nao nao với những mộng không cùng
Để cháy ruột mơ những ngày hoạt động,,,

(Quanh quẩn – Tố Hữu)
Hiện tượng đối thoại, chuyện và thời gian chuyện xuất hiện nhiều
trong thơ 1932-1945 cũng là chứng tích của cuộc thâm nhập của văn xi
vào thơ. Có thể gặp hai hiện tượng đó trên nhiều bài thơ: Chùa
Hương (Nguyễn Nhược Pháp), Lời kỹ nữ (Xuân Diệu), Bà má Hậu
Giang (Tố Hữu),… và gặp từng hiện tượng trên nhiều bài thơ khác.


Sự thâm nhập lẫn nhau giữa các thể loại hiện đại là hiện tượng phổ
biến mang tính quy luật, vì trong cuộc sống hiện đại, càng ngày con người
càng phải ném mình vào vơ vàn mối quan hệ mỗi lúc thêm phức tạp và
phong phú. Để nghiệm ra mình và thế giới xung quanh qua những quan hệ
ấy, con người (tác giả và người đọc) không thể chỉ sử dụng “vốn tự có” của
từng thể loại văn học. Nhu cầu tự thân của thể loại hay của chính con
người là phải “vay vốn”, “hoán vị vốn” từng phần cho nhau để cùng mở rộng
chân trời và năng lực sáng tạo. Trên là văn xuôi vào thơ, đến lượt văn xuôi
cần chất thơ như cần thêm sinh khí mới hình thành loại văn xi trữ tình
độc đáo trong tác phẩm Thạch Lam, Hồ Zdếnh, Thanh Tịnh, Xuân Diệu…

Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng đầy chất thơ. Văn học hiện thực phê
phán khi phân tích “tàn nhẫn” cái hiện thực thù địch với con người vẫn
không chối từ chất thơ. Chất thơ trong văn Nguyên Hồng rạo rực tình người
(Những ngày thơ ấu), trong thế giới phiêu lưu của Tơ Hồi (Dế mèn phiêu
lưu ký)… Rồi chất thơ đi vào vương quốc của kịch, tạo ra thể kịch thơ có
lịch sử riêng của nó. Phóng sự và tiểu thuyết hốn vị cho nhau một phần
hồn cốt của mình tạo ra những khả năng vô tận trong việc lột trần hiện thực
qua tác phẩm Vũ Trọng Phụng và nhiều nhà văn khác. Chúng tôi đồng ý với
Vũ Tuấn Anh khi sử dụng thuật ngữ “cộng sinh”(3) thể loại để nói hiện tượng
trên, nhưng muốn chỉ rõ cả hai bình diện sinh thành và chức năng của hiện
tượng đó nhằm phân biệt với hiện tượng có vẻ tương đồng của văn học
trung đại: dịng truyện thơ nơm. Theo chúng tơi, khác với hiện tượng cộng
sinh thể loại hiện đại, truyện thơ nôm là một hiện tượng ký sinh: cốt truyện
tự sự tìm đến gửi thân phận vào hình thức thơ, do cha ơng mình xưa thiên
tính thơ trội hơn “gien” văn xi. Ở bình diện sinh thành, có thể nói đó là
hành vi năng động sáng tạo bất đắc dĩ, khác với hiện tượng cộng sinh thể
loại hiện đại do nhu cầu tự thân, quy luật vận động nội tại của mỗi thể loại
như đã nói trên. Cịn ở bình diện chức năng: các yếu tố thể loại do cộng
sinh hay ký sinh khi đã hiện diện trong tác phẩm, đều có sự cộng hưởng với
nhau để biểu hiện thế giới một cách độc đáo.

Từ sau 1945, tính năng động nghệ thuật của thể loại vẫn tiếp tục vận


hành trong những sứ mệnh nghệ thuật mới của từng thể loại. Từ sau đổi
mới đến cuối thế kỷ XX, sang đầu thế kỷ này, tính năng động nghệ thuật
của thể loại dường như đang tạo ra những đột phá mới. Ở đây chỉ nói tiếp
về thơ như một dẫn chứng nhất thể.

Hoài Thanh từng ghi nhận thơ Mới 1932-1945 như Một thời đại trong

thi ca, hiển nhiên ta hiểu là một thời đại mới sau nghìn năm thi ca trung đại.
Nếu ta xét “thơ Mới” với ý nghĩa một tư trào nghệ thuật, một sự kiện văn
học sử, thì giá trị mà thơ Mới để lại là vô tiền khống hậu, một giá trị khơng
gì thay thế được. Cịn nếu nhìn “thơ Mới” như là một loại hình thơ Việt Nam
hiện đại, thì cũng như với bất cứ một thể loại nào khác khi đã phát triển đến
rực rỡ, hồn chỉnh ở một thời kỳ, khơng có nghĩa thể loại đó đã định hình,
đã trở thành kiên cố. Do quy luật về tính năng động nghệ thuật của thể loại,
nó phải vận động, phải đổi mới, vừa giải thể, vừa kiến tạo, vừa hoại thải,
vừa sinh sôi, nếu không nó sẽ “yên giấc” như một số thể loại văn học trung
đại đã từng cáo chung. Giờ đây (cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI), ta nói
về một thời đại mới của thơ Việt Nam đang hình thành, đang lớn dậy; biện
chứng và cơng bằng là nói theo nghĩa đó. Nhà thơ Trần Dần vào khoảng
năm 1996 có nhấn mạnh ý này: “Trung thực một lòng cho đổi mới văn học.
Phải chôn vùi văn học tiền chiến (Tự lực văn đồn và thơ Mới…) vào lịch
sử. Có như vậy mới mở ra được một thời đại văn học thực sự mới”(4). Chúng
tơi hiểu và đồng cảm với cách nói khoa trương, vót nhọn của nhà thơ,
nhưng chúng tơi cũng muốn hiểu thêm rằng, Tự lực văn đoàn và thơ Mới…
từng làm cuộc cách mạng văn học nghìn năm một lần, mở ra cả một loại
hình tư duy nghệ thuật hiện đại. Đến nay, tuy mới có trên dưới bảy mươi
năm, quả có những yếu tố của tư duy thơ 1932-1945 đáng để “chôn” thật
rồi, nhưng không phải tất cả. Nhiều yếu tố đầu thai từ đó và trước đó, có
thể đến bây giờ mới có khí quyển mà lớn dậy. Thơ văn xi ló mầm đầu
tiên trong một nét phóng bút của Tản Đà khi Luận cơ Kiều. Thơ không hạn
khổ, câu không hạn từ, gồ ghề, trắc trở đã có từ thơ Mới, đến Nhất định
thắng (1956) của Trần Dần đã thành một điển hình với 509 dịng thơ - nói
như Phong Lê - “dài - ngắn… leo thang”, “… rất lô nhô…” cũng “rất êm, rất


thấm”(5). Thơ Việt Nam 1932-1945 cũng sớm chịu ảnh hưởng các trường
phái hiện đại phương Tây: thơ tượng trưng, siêu thực, phi lý, v.v… Có thể

tán thành ý kiến của Đỗ Đức Hiểu: “Khởi đầu biến động thơ hôm nay có thể
từ những bài thơ của Nguyễn Xuân Sanh trong Xuân Thu Nhã tập”(6). Vậy là
ngay từ trong cuộc cách mạng về thơ 1932-1945, thơ Việt Nam (thơ Mới và
các xu hướng khác) đã ngấm ngầm một sức năng động mới để mở rộng
biên giới của thơ. Thơ mới đương đại vừa tiếp tục những năng lượng ấy,
vừa được bồi dưỡng những năng lượng mới mẻ từ sức sống mới của thời
đại, dân tộc, từ cuộc tiếp giao văn hoá đa phương với thế giới hiện đại.
Hướng tới “một thời đại văn học thực sự mới” như niềm khao khát của nhà
thơ Trần Dần thật là chân thành, cảm động. Nhưng cũng như quan niệm
của bạn ông - nhà thơ Lê Đạt - về tính khơng đầy đủ, khơng tồn vẹn của
mọi hệ kiến giải mà ông diễn từ nguyên lý bất tồn của Godel (Văn nghệ, số
42-2006) thì “thời đại văn học thực sự mới” theo ý Trần Dần thực ra cũng
chỉ là tương đối, khơng thể tồn hình, tồn cốt được vì hiện thực vẫn đang
vận động qua biên giới của một kiến giải và quy luật về tính năng động
nghệ thuật của văn học hiện đại sẽ tạo ra tiếp tục trong “thời đại văn học
thực sự mới” đó những sức sống ngầm, rồi sẽ đến lúc “thực sự mới” lại trở
thành cái cũ để cho cái mới khác lại ra đời và mãi mãi.



×