Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết "Mẫu Thượng ngàn" potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.49 KB, 9 trang )

Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân
gian trong tiểu thuyết "Mẫu Thượng
ngàn"
Tín ngưỡng thờ Mẫu: Một nhà thực dân khác lại phải hứng chịu sự trừng
phạt của Mẫu khi dám lên tiếng báng bổ đạo Mẫu là mê tín quàng xiên, thờ rắn
là tà giáo, không thể so sánh với các Phật giáo và Thiên Chúa giáo, ngay lập
tức bị rắn (được người dân Cổ Đình cung kính gọi là “ngựa ngài”) đuổi (ở chi
tiết này, người kể chuyện để cho người đọc thấy tính hư hư thực thực của thế
giới được thêu dệt nhiều bằng lời đồn đại: “có người còn nói”, “có người còn kể
lại những điều khó tin”, “chẳng biết những lời xầm xì ấy có đúng không”…
tr.436). Với chi tiết này, người kể chuyện muốn tạo một dư luận trong công
chúng để hạ bệ tư thế ngạo nghễ của kẻ đi chinh phục bằng phép thiêng của
đạo Mẫu hiện ra ở chốn trần gian.
Theo dẫn dắt của người kể chuyện, sự thức tỉnh của các nhà thực dân
đã đưa họ đến với nhận thức chung của cộng đồng thuộc địa. Nhà văn đã để
cho họa sĩ thực dân Pierre tổng kết về đạo Mẫu một cách say sưa và thấm thía
như người trong cuộc: “Đạo của họ thờ mẹ Trời, mẹ Đất, mẹ Nước. Họ nói đó
là đạo Người mẹ. Có thể nói gọn, đó là đạo thờ khí thiêng của thiên nhiên, thờ
người mẹ đã sinh ra thế gian này. Thờ như vậy là thờ những điều cao quý nhất,
đâu có phải là tà giáo”. (tr.427).
Cùng với mạch truyện trên, người kể chuyện còn để cho nhà thực dân
bênh vực và đánh giá cao tín ngưỡng dân gian bản địa, sánh nó ngang hàng
với những tôn giáo lớn. “Tôi nghĩ bất cứ tôn giáo nào cũng đều có trạng thái
lên đồng. Cơ Đốc giáo có sự thiên khải, Phật giáo có trạng thái ngộ đạo. Khi đã
lí thuyết hóa, ta mới coi đó là tôn giáo. Còn những sự thiên khải vô ngôn thì
sao? Còn những người bình thường bằng trực giác bỗng nhiên thấy được
những điều đẹp đẽ bí ẩn thì sao?” (tr.715). Ở đây, người kể chuyện đã đồng
nhất các khái niệm trên thực tế là không tương đồng nhau như: thiên khải, ngộ
đạo và lên đồng. Chính vì vậy, người kể chuyện đã tạo ra những cuộc đối thoại
giữa các nhà thực dân với nhau mà phần thắng nghiêng về phía những người
bênh vực và đề cao tín ngưỡng bản địa. Với người kể chuyện, trước sự áp đặt


của ngoại bang, tín ngưỡng dân gian Việt Nam có sức phản kháng mãnh liệt,
sức cảm hóa sâu sắc, thậm chí, sự áp chế trở lại của nó là một bí ẩn khiến cho
các nhà chinh phục thua cuộc. Sức sống này được Nguyễn Xuân Khánh thể
hiện trong tác phẩm bằng nguyên lí tính nữ, và Nguyễn Xuân Khánh đã mượn
lời một nhân vật để đưa ra lí thuyết chinh phục cho rằng, sức mạnh chinh phục
nam tính sẽ bị sự kháng cự mềm mại nữ tính đánh bại, từ đó đề cao nguyên lí
tính nữ trong tác phẩm của mình (tr.347). Lí thuyết này được hiện thực hóa
trong suy ngẫm của nhà văn qua những nhân vật phụ nữ đẹp và tràn trề sức
sống. Nhà thực dân Philipe đã bị chinh phục và đã chết trong một khát vọng
khôn nguôi về hoan lạc và chiếm đoạt người phụ nữ đẹp của làng Cổ Đình là
cô Mùi, mà theo tác giả là hiện thân của vẻ đẹp tràn trề nữ tính và sự huyền bí
của văn hóa bản địa.
3. Tín ngưỡng dân gian với tư cách là vô thức cộng đồng cần khai
phóng
Tâm huyết khám phá hạt nhân của văn hóa làng: Nguyễn Xuân Khánh là
người trăn trở với những vấn đề quan thiết đối với số phận của cộng đồng.
Nếu như ở Hồ Quý Ly, ông chia sẻ những khó khăn to lớn của một nhà cách
tân vĩ đại thì ở Mẫu Thượng Ngàn, ông đã nỗ lực tìm kiếm một yếu tố mang
tính nền tảng của văn hóa Việt, một hằng số có khả năng kiến tạo văn hóa Việt,
có sức cố kết cộng đồng qua bao cuộc nổi nênh, thăng trầm của lịch sử dân
tộc từ xa xưa cho đến tận ngày hôm nay. Người kể chuyện Mẫu Thượng
Ngàn đã thể hiện một khát vọng khám phá để nhận diện nó, soi xét nó từ nhiều
chiều ngõ hầu nhận ra những gì bất cập, những gì cần khai phóng để tìm
hướng đi cho dân tộc. Nhân tố đó, theo ông là văn hóa làng. Chính ông đã tâm
sự: “Tôi muốn viết một cuốn sách về văn hóa làng, một vấn đề thiết yếu của
dân tộc. Tất cả chúng ta hiện nay ít nhiều đều mang gốc nông dân, có tính
nông dân. Cái hay, cái tốt cũng như cái hạn chế, nhược điểm cũng từ đó mà ra.
Tôi muốn phân tích sâu sắc vấn đề ấy. Và dù có những hạn chế gì đi chăng
nữa, tôi vẫn muốn đặt lòng tin và khẳng định một cách mạnh mẽ vào văn hóa
Việt Nam”

(14)
.
Ở đây, cần phân định rõ khái niệm văn hóa làng. Trong bài Làng, liên
làng và siêu làng - mấy suy nghĩ về phương pháp, Giáo sư Hà Văn Tấn khi
nghiên cứu làng Việt Nam từ phương diện cấu trúc đã nêu và làm rõ các khái
niệm làng, liên làng và siêu làng. Ông viết: “Để tránh các khái niệm phiến diện,
đã đến lúc chúng ta phải chú ý đầy đủ đến các mối liên hệ giữa làng với bên
ngoài, tức là những mối liên hệ ngoài cấu trúc. Có thể chia những liên hệ đó
làm hai loại: một loại gồm những liên hệ giữa làng này với làng khác, tức là
mối liên hệ giữa các hệ thống tương đương, mà ở đây, chúng tôi gọi là liên hệ
liên làng. Loại thứ hai gồm những liên hệ giữa làng với cộng đồng hay khu vực
rộng lớn hơn tức mối liên hệ giữa hệ thống coi làng với các hệ thống lớn chứa
đựng nó mà ở đây chúng tôi gọi là liên hệ siêu làng. Cộng đồng siêu làng rộng
hẹp với các thứ bậc khác nhau. Khi cộng đồng tộc người đã tiến tới trình độ
dân tộc thì cộng đồng siêu làng lớn nhất là nước, là dân tộc”
(15)
. Căn cứ vào sự
phân định này thì những tục thờ mà Nguyễn Xuân Khánh miêu tả trong tiểu
thuyết Mẫu Thượng Ngàn không chỉ thuộc phạm vi văn hóa làng (chỉ với việc
thờ thần cây đa, thần cẩu) mà còn thuộc phạm vi liên làng (lễ hội thờ ông Đùng,
bà Đà, lễ hội đền Mẫu). Nói điều này để nhìn nhận rõ hơn về tính tương đồng
của các làng ở phương diện tín ngưỡng vật linh (thờ Mộc thần, thờ Cẩu thần),
và tính mở, tính liên kết các làng từ góc độ tín ngưỡng dân gian (thờ Mẫu, lễ
hội vùng); đồng thời, để thấy rõ hơn việc nhìn nhận tín ngưỡng dân gian (với
các đối lực: sức kết tủa, lắng đọng và sức bùng nổ và bứt phá, độ nhạy cảm và
tính vững bền, khả năng cố kết nội tại và khả năng kháng cự quyết liệt với các
yếu tố ngoại lai) như một sợi chỉ cố kết cộng đồng làng và liên kết cộng đồng
các làng là một phát hiện quan trọng của Nguyễn Xuân Khánh. Tư tưởng này
tạo nên tính hướng đạo, chất kết dính cho tác phẩm, vượt lên và lấn át phần
viết của ông về mối giao lưu Pháp-Việt ở phương diện chính trị và lịch sử.

Nhân vật cộng đồng và vấn đề tâm lí đám đông: Tiểu thuyết Mẫu Thượng
Ngàn không có nhân vật trung tâm mà có nhiều nhân vật chính. Nhân vật trung
tâm ở đây chính là cộng đồng làng Cổ Đình. Nhân vật này có một hành trang
tinh thần chung cho tất thảy, hay nói cách khác, các nhân vật dù có từng đời
sống riêng đều được quy tụ vào một mối quan tâm chung, đó chính là tín
ngưỡng dân gian của làng. Việc thờ thần cây, thần chó đá, việc thờ Mẫu, lòng
ngưỡng vọng đối với các nhân vật huyền thoại của làng là những mẫu số
chung của tất cả các thành viên trong làng Cổ Đình mà mọi biến động bể dâu
của thời cuộc không làm dời đổi. Phải chăng đó là hằng số văn hóa mà
Nguyễn Xuân Khánh đã tìm thấy trong văn hóa Việt? Trả lời phỏng vấn
báo Tuổi trẻ ngày 23-7-2006, ông đã nói: “Người làm văn chương phải có tài,
nhạy cảm, biết rung động, biết nói lên phần vô thức của dân tộc, chạm vào
đúng sợi tơ đàn ẩn ngầm của từng số phận con người và dân tộc mình”.
Xây dựng hình tượng nhân vật này, chắc chắn Nguyễn Xuân Khánh đã
chịu ảnh hưởng của học thuyết tâm lí học đám đông của nhà tâm lí học xã hội
nổi tiếng người Pháp Gustave Le Bon mà ông đã dịch. Một mặt, ông tìm thấy
sự tương đồng ở tính bất biến của đám đông và của cộng đồng làng và liên
làng. Mặt khác, ông nhìn thấy sự đồng chất của đám đông với làng ở “sự biến
mất cá tính có ý thức và việc định hướng những tình cảm, tư tưởng theo một
chiều nhất định là những nét đầu tiên của đám đông đang tự tổ chức”
(16)
. Ngoài
ra, đó còn là sự gặp gỡ của tính cộng đồng ở làng và ở đám đông vì “việc họ
chuyển biến thành đám đông, họ đã có một thứ tâm hồn tập thể để cho họ cảm
nhận, suy nghĩ và hành động theo một cách hoàn toàn khác với cách mà một
cá nhân riêng lẻ vẫn cảm nhận, suy nghĩ và hành động”
(17)
.
Xây dựng nhân vật cộng đồng trong Mẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân
Khánh nhận thấy những trải nghiệm cộng đồng, hằng số văn hóa của người

dân làng Cổ Đình mang trong mình nó đặc trưng tâm lí của đám đông. Từ bối
cảnh chật hẹp của làng Cổ Đình và những mối liên hệ liên làng, ông đã nhìn
thấy sự đồng thuận vững chãi cần được khai phóng và những mù quáng và
thiển cận cần được dẫn lối chỉ đường. Ở đây, Nguyễn Xuân Khánh thể hiện
mình vừa với tư cách là một nhà văn, vừa với tư cách là một nhà tư tưởng.
Trong tác phẩm, sau những sự mô tả mê mải về sự yên ổn, vững chãi
của cộng đồng, Nguyễn Xuân Khánh đã bắt đầu hé mở những sự rạn nứt báo
hiệu những đổi thay tất yếu xảy ra: dịch tả và việc xác nhận sự thất bại của
những thói tục (tr.538); bên cạnh đó là sự xuất hiện của hội Nông phu tương tế,
của lớp dạy chữ quốc ngữ, là sự xuất hiện của lớp trẻ có học và đi theo cách
mạng Đó là xu thế không thể đảo ngược của lịch sử. Con đường đi đã mở,
nhưng những sự xuất hiện trên vẫn chỉ là thưa thớt, mà người dân Cổ Đình thì
vẫn mang nặng hành trang là hằng số văn hóa làng mà họ chưa sẵn sàng trả
giá để đổi thay. Đó là một câu hỏi đặt ra thật gay gắt và khẩn thiết cho cả cộng
đồng trong buổi giao lưu. Nguyễn Xuân Khánh đã bộc bạch những trăn trở của
mình, mà qua đó, phần nào có thể soi sáng những gì ông gửi gắm qua số phận
của con người và làng Cổ Đình: “Văn hóa của chúng ta là văn hóa nông dân.
Chúng ta là những người nhà quê. “Nhà quê” đã tạo ra dân tộc ta với những kỳ
tích. Nhưng cái nếp nông dân ấy cũng tạo nên những nếp hằn trong đầu óc
từng người dân ta và cũng gây khó khăn không ít cho dân tộc trong phát triển.
Cuộc giao lưu với phương Tây, cụ thể là với người Pháp, đã gây cho dân tộc
ta bao tủi nhục đau đớn; nhưng nếu bình tĩnh mà suy xét, cuộc va chạm lịch sử
ấy cũng làm cho chúng ta thức tỉnh khỏi giấc mơ dài để tạo ra những cơ hội để
tiến vào hiện đại”
(18)
.
Trải nghiệm cộng đồng và trải nghiệm cá nhân: Khai thác hình tượng
cộng đồng, người kể chuyện trong Mẫu Thượng Ngàn xuất hiện với tư cách là
người khái quát những kinh nghiệm cộng đồng như đã nói ở trên. Để thấy rõ
hơn điều này, chúng tôi so sánh cách triển khai của Nguyễn Xuân Khánh

trong Mẫu Thượng Ngàn và Nguyễn Huy Thiệp trong Con gái thủy thần. Truyện
của Nguyễn Huy Thiệp là câu chuyện của một cá nhân, không có gì chung với
những người xung quanh, hành trình của nhân vật là hành trình đơn độc, thậm
chí lập dị với xung quanh. Cũng như các nhân vật của Mẫu Thượng Ngàn,
Chương - nhân vật trong Con gái thủy thần cũng sinh ra ở nông thôn nhưng
làng quê ở đây đã đánh mất hoàn toàn vẻ thuần nhất của không gian và giá trị
cộng đồng. Làng quê đã bị cắt vụn ra thành những mảnh đời lam lũ, toàn
những chuyện lột giang, xắn đá ong, đào cát, canh bãi mía, đào đất đóng gạch,
khi ăn thì vục mặt xuống như chó. Vẻ điêu tàn và thê lương của làng quê, sự
ngu tối và vô vọng của người dân khiến cho những giá trị tinh thần trở thành
một cái gì đó thật là xa xỉ. Trong bối cảnh ấy, khát vọng về Mẹ Cả của Chương
xuất hiện. Cũng như trong Mẫu Thượng Ngàn, Mẹ Cả của Con gái thủy thần có
nguồn cội từ chính tín ngưỡng dân gian nơi làng quê. Mẹ Cả là con của giao
long, được sinh ra trong một đêm mưa gió dưới gốc muỗm bên sông. Chúng ta
đều biết rằng, sinh nở thần kỳ là một motif khá phổ biến trong truyền thuyết
Việt Nam. Vua Đinh Tiên Hoàng, vua Nam Chiếu, hoàng tử Linh Lang, Yết
Kiêu đều là con của thủy thần. Chính vì vậy, hình ảnh Mẹ Cả là một cổ
mẫu trong kho tàng folklore Việt Nam, và việc Chương đi tìm Mẹ Cả chính là
việc con người sống trong một thế giới bị giải thiêng triệt để đang hoài vọng về
những huyền thoại đã mất. Nuôi khát vọng tìm con gái thủy thần, tạo hóa đã
nhen nhóm lên trong lòng Chương một ngọn lửa phủ nhận thực tại tầm thường
với khát khao cháy bỏng tìm lại thế giới thiêng. Ràng buộc mình vào thế giới
thiêng đó là một thử thách nặng nề, khiến tín đồ “phải sống kiếp sống của kẻ
khổ sai, lưu đầy” mà rõ ràng cái làng quê tả tơi vì miếng cơm manh áo kia
không chịu nổi, không cần đến. Trước khi biết đến Mẹ Cả, Chương cũng như
họ, “chưa giác ngộ về lẽ tồn tại của cá nhân, cũng như của cả bầy người”;
nhưng khi khát khao đi tìm Mẹ Cả, Chương không còn lối quay về: “Tôi cũng
ước ao tâm lực của tôi hướng về một thứ vật chất cụ thể. Nếu như thế được,
nếu được như thế ”. Không dừng lại, tiếp tục cuộc hành trình vì biết “trái tim
tôi thuộc về Mẹ Cả”, Chương cảm nhận một niềm hạnh phúc mới mẻ, “không

nghĩ về mình”, “những khát khao của tôi nhấc tôi lên khỏi mặt đất. Những ý
nghĩ của tôi không gắn gì với đời sống và sự tồn tại của bản thân tôi” mà gắn
với “hình ảnh của một nửa thế giới bên trên tôi hoặc bên dưới tôi, thượng giới
và trần gian”. Kết thúc truyện, nhân vật Chương vẫn trên hành trình không
ngừng nghỉ đi về phía biển, với một câu hỏi diết da, đau đớn: “Con gái thủy
thần! Nàng ở đâu? Nàng ở chỗ nào? Bởi lẽ gì?”. Những câu hỏi rất người đó
chỉ đặt ra với mỗi mình Chương và lời giải đáp vẫn treo lơ lửng đâu đó, có có
không không
(19)
. Còn với làng Cổ Đình, câu hỏi đó đã có lời giải từ xa xưa, và
xem ra lời giải ấy vẫn làm yên lòng người hôm nay. Với người Cổ Đình, phép
màu hiện hữu, còn với Chương, chỉ có sự cô đơn hiện hữu còn phép màu ở
đâu xa quá, chàng phải đi tìm. Hành trình của Chương là hành trình đầy cô
đơn, còn hành trình của làng Cổ Đình là hành trình của cả cộng đồng. Trong
bối cảnh làng Việt có nhiều đổi thay, hành trình của Chương tỏ ra ứng hợp với
tâm trạng con người ở thời điểm đầu thế kỷ XXI, còn hành trình của những con
người làng Cổ Đình rõ ràng là câu chuyện của quá khứ. Để tìm đường đi cho
dân tộc, khó có thể “coi cộng đồng siêu làng hay cộng đồng nước chỉ là một
thứ “làng lớn”. Như vậy, tâm lí làng được phóng chiếu lên quy mô nước”. Và
theo giáo sư Hà Văn Tấn, “đó cũng là một thực tế cần thấy trong lịch sử và cần
khắc phục trong hiện tại”
(20)
. Thiết tưởng suy ngẫm này không quá xa với vấn
đề đang bàn trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn.
Trở lại học thuyết về tâm lí đám đông, có thể nhìn nhận sự khác biệt
giữa Con gái thủy thần và Mẫu Thượng Ngàn ở hai phía của thực tại đang
được phản ánh. “Đám đông bao giờ cũng thấp kém về mặt trí tuệ so với con
người đứng riêng lẻ, nhưng cũng phải kết luận rằng, xét về mặt tình cảm và
hành động mà tình cảm này gây ra, đám đông có thể tốt hơn hay xấu hơn tùy
theo hoàn cảnh. Tất cả phụ thuộc vào cái cách đám đông được gợi ý” (tr.53).

Trở về vấn đề đã bàn ở trên, khi miêu tả không-thời gian đặc biệt của lễ hội
ông Đùng-bà Đà, Nguyễn Xuân Khánh đã nhìn thấy sự cuồng nhiệt, sự nương
theo, sự lây lan đặc thù của tâm lí đám đông và từ đó, ông nhìn thấy một nhu
cầu khẩn thiết “cần một tôn giáo cho đám đông”
(21)
tàng ẩn dưới lớp ngôn từ.
Chính ở tư tưởng này, Nguyễn Xuân Khánh đã thiết tha mong muốn có một
định hướng, một sự dẫn dắt để cho đám đông kia không lầm đường lạc lối, có
được sự khơi thông về sức mạnh.
Nguyễn Xuân Khánh - người tái tạo truyền thuyết: Truyền thuyết dân gian
được chép vào các văn bản của văn xuôi trung đại từ khá sớm (tác phẩm có
niên đại sớm nhất còn lại ngày nay là Việt điện u linh, 1329), và trong những
chặng đường đi của mình, việc ghi chép truyền thuyết lại mang những sắc thái
khác nhau. Chặng đường đầu, tính đến trước thế kỷ XV, với Việt điện u
linh và Lĩnh Nam chích quái, các truyền thuyết dân gian được chép với sắc thái
tôn vinh, nhân vật trung tâm ở đây là các vị thần là “tinh túy của núi sông, là
nhân vật kiệt linh, khÝ thÕ rõng rùc lóc ®¬ng thêi, anh linh to¶ réng ®Õn ®êi
sau” (Lời tựa Việt điện u linh). Tiêu biểu cho xu hướng tôn vinh này là các
truyện chép về Phùng Hưng, Trương Hống, Trương Hát, Hai Bà Trưng
Chặng đường sau, với văn xuôi thế kỷ XVIII và XIX, truyền thuyết dân gian
được chép theo hai hướng, hướng tôn vinh chiếm số lượng ít và hướng nghi
ngờ, giễu nhại và giải thiêng chiếm số lượng nhiều hơn.
Nối tiếp mạch văn bản hóa truyền thuyết dân gian từ thời trung đại,
Nguyễn Xuân Khánh - nhà khảo cứu và Nguyễn Xuân Khánh - nhà văn đã tung
hoành ngòi bút của mình ở cả hai xu hướng: tôn vinh và giải thiêng. Mẫu
Thượng Ngàn vừa có sự thừa nhận sự hiện hữu của phép màu lại vừa lồng
vào đó yếu tố giải thiêng như một xu thế tất yếu của thời hiện đại. Là sáng tạo
của riêng cá nhân ông nhưng Mẫu Thượng Ngàn mang khát vọng hòa vào để
nhận ra tiếng nói chung của cả cộng đồng mà ông là một thành viên. Dựa trên
đời sống tín ngưỡng dân gian truyền thống, bằng việc tạo dựng không gian văn

hóa liên làng, quy trình sáng tạo tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn vì vậy, có sự
gần gũi với quy trình sáng tạo văn học dân gian, nhưng hiển nhiên nhà văn
Nguyễn Xuân Khánh đã không hòa tan vào nhân vật đám đông như các nhà
biên soạn văn học dân gian thuần tuý mà đã chứng tỏ sự khác biệt của mình
bằng sự nghiền ngẫm và tổng kết ngay trong vai người kể chuyện ở trong tác
phẩm. Có thể nói, người kể chuyện - Nguyễn Xuân Khánh đã thành công trong
việc “đóng vai” và “thoát xác” khỏi vai một nghệ nhân bằng sự chững chạc của
tư thế một nhà khảo cứu, và bằng tai hoa của một nhà văn sống hết mình với
những lao tâm khổ tứ cho nghệ thuật.
*
Chọn thời điểm đầu thế kỷ XX làm bối cảnh cho cuốn tiểu thuyết, có thể
thấy, vấn đề mà Nguyễn Xuân Khánh đặt ra trong Mẫu Thượng Ngàn là vấn đề
số phận của dân tộc trước ngoại xâm, rộng ra là những thách đố về ứng xử
của cả dân tộc trước sự tiếp xúc với ngoại bang - một vấn đề nổi lên nhức nhối
ở nhiều thời điểm trong lịch sử Việt Nam. Xuất bản cuốn sách vào đầu thế kỷ
XXI này, Nguyễn Xuân Khánh không thể là người ngoài cuộc về các vấn đề
giao lưu và hội nhập đang đặt ra hết sức bức thiết và nóng bỏng vào thời điểm
hiện nay.
Tìm hằng số văn hóa người Việt trong tín ngưỡng dân gian ở văn hóa làng và liên
làng, Nguyễn Xuân Khánh đã thực sự tìm cho mình một lối nẻo mới. Nếu Hồ Quý
Ly là việc nhìn nhận vai trò của cá nhân đối với lịch sử thì Mẫu Thượng Ngàn nhìn
nhận vai trò của cộng đồng như là một nền tảng mà từ đó, cá nhân mới có cơ hội
để bứt phá. Nhưng cộng đồng, với sự đồng thuận và mù quáng đặc trưng của
tâm lí đám đông, lại dựa vào tín ngưỡng dân gian với tất cả sức mạnh và sức ỳ
của nó, với tác dụng cố kết cộng đồng cũng như tác hại cản trở đối với sự phát
triển của nó, quả là có nhiều giới hạn. Nhận diện để khai phóng nguồn sức mạnh
đó là một vấn đề quan thiết cho vận mệnh của dân tộc hôm nay./.

×