Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Mối quan hệ giữa "nhập thế" của Phật giáo Việt Nam với sự hình thành và phát triển của văn học cổ điển Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.27 KB, 10 trang )

Mối quan hệ giữa "nhập
thế" của Phật giáo Việt Nam
với sự hình thành và phát triển
của văn học cổ điển Việt Nam
Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng thế kỉ II sau công nguyên.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng và to lớn.
“Nhập thế” của Phật giáo Việt Nam không những thúc đấy sự phát triển của
xã hội, văn hoá Việt Nam, mà còn góp phần vào sự hình thành và phát triển
của văn học cổ điển Việt Nam, nhất là văn học chữ Hán Việt Nam.
I. Đặc trưng “nhập thế” của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo thông thường chủ trương về “xuất thế”: cuộc đời của con
người là một kiếp khổ sở, cho nên cách làm tốt nhất của con người là “xuất
thế”, giải thoát. Nhưng trong một giai đoạn khá dài trên lịch sử Việt Nam,
nhất là thế kỷ X-XIV, Phật giáo Việt Nam có một đặc trưng rất rõ rệt là
“nhập thế”. Từ nhà Đinh, nhà tiền Lê cho đến nhà Lý và nhà Trần, các vị
thiền sư thông thạo cả Phật giáo lẫn chữ Hán. Họ “đức tính siêu quần, giỏi
cả việc nhập thế và xuất thế”
(1)
. Các thiền sư từ Vạn Hạnh cho đến Minh
Không đã “nhập thế” chẳng khác nhà nho để giúp vua làm việc nước. “Nhập
thế” của họ đã góp phần vào việc xây dựng chế độ xã hội phong kiến và sự
nghiệp văn hoá giáo dục của Việt Nam lúc bấy giờ.
1. Các nhà sư Phật giáo Việt Nam tham gia giải quyết nhiều công
việc về mặt chính trị, ngoại giao
Trong thời kỳ nhà Đinh(968 ~ 980) và nhà tiền Lê (980 ~1009), những
người trí thức và nhân tài quản lý nhà nước thiếu thốn nghiêm trọng, các
vua chúa đều trọng dụng các vị thiền sư Phật giáo, giao cho họ những đặc
quyền, để cho họ làm những việc quan trọng về mặt chế định luật pháp, xử
lý công việc quân sự, ngoại giao. Trong thời kỳ nhà Lý (1010 ~1225) và nhà
Trần (1225 ~1400), tầng lớp tăng lữ Phật giáo là một thế lực lớn mạnh. Chế
độ tổ chức của họ chặt chẽ từ các cấp tăng lục, tăng thống đến quốc sư. Họ


có một địa vị rất cao trên xã hội lúc bấy giờ. Các vị quốc sư có thể tự do ra
vào cung đình, địa vị ngang như vương hầu, tể tướng. Các thiền sư tiêu
biểu như Khuông Việt, Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh,Mãn Giác, Viên Thông
và Huyền Quang đã góp phần lớn vào công việc chính trị, ngoại giao của
nhà nước trên lịch sử thế kỷ X-XIV của Việt Nam.
Khuông Việt (933 ~1011) tên thật là Ngô Chân Lưu. Ông là một vị
thiền sư đầu tiên tham gia giải quyết nhiều công việc chính trị nhà nước
trên lịch sử Việt Nam. Ông đã phụ trợ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại
Hành. Ông thuở nhỏ học Nho, lớn lên quy y đạo Phật. Năm 40 tuổi, danh
tiếng vang dội đến triều đình. “Vua Đinh Tiên Hoàng (968 ~ 979) vời ông về
kinh đô hỏi chuyện. Sư đối đáp hợp ý, được vua phong làm Tăng Thống.
Năm thứ 2 hiệu Thái Bình được ban hiệu Khuông Việt đại sư”
(2)
. Sau khi lên
ngôi, Lê Đại Hành lại trọng dụng Khuông Việt đại sư. “Vua Lê Đại Hành
(980 ~ 1005) đối với sư càng đặc biệt kính trọng, phàm các việc quân quốc
triều đình, sư đều được tham dự.”
(3)
Cùng thời với Khuông Việt, thiền sư Đỗ Pháp Thuận (Đỗ Thuận)
(915/? ~ 990) cũng làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành. “Trong buổi đầu, khi
nhà tiền Lê mới sáng nghiệp, sư có công dựng bàn hoạch định sách
lược”
(4)
. Đỗ Pháp Thuận là một người học vấn uyên bác và có tài ngoại
giao. Ông được cử ra giao thiệp với đoàn sứ thần nhà Tống Trung Quốc:
“Năm Thiên Phúc thứ bảy (968 ) nhà Tống sai Lý Giác sang sứ. Bấy giờ
pháp sư Đỗ Thuận cũng có danh tiếng lớn. Vua sai pháp sư cải trang làm
giang lệnh đón tiếp sứ giả ở chỗ sông quanh. Giác thấy giang lệnh có tài
nói chuyện bèn làm thơ tặng”
(5)

.
Vạn Hạnh (939/? ~1018) là một thiền sư giao thời giữa nhà Tiền Lê
và nhà Lý. Quốc sư “thuở nhỏ thông minh khác thường, học thông ba giao,
đọc kỹ trăm nhà, nhưng cọi nhẹ công danh phú quý. Năm 21 tuổi xuất gia,
cùng Đinh Huệ theo hầu học đạo với Thiền Ông đạo giả ở chùa Lục Tổ.”
Vạn Hạnh từng làm cố vấn cho Lê Đại Hành, được vua Lê Đại Hành “đặc
biệt tôn kính”
(6)
. Lê Đại Hành thường học hỏi, bàn bạc với Thiền sư Vạn
Hạnh về những việc quân sự và chính trị. “Năm Thiên Phúc thứ nhất (980)
nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo đem quân sang xâm lược nước ta, đóng quân
ở gò Tử Cương núi Giáp Lăng, vua mời sư đến hỏi tình thế thắng bại thế
nào. Sư đáp: - Chỉ trong ba, bảy ngày, giặc tất phải lui. Sau quả đúng như
thế”
(7)
. Khi nhà Tiền Lê suy tàn, Thiền sư Vạn Hạnh đã gây dư luận, ủng hộ
Lý Công Uẩn lên làm vua, khai sáng ra nhà Lý. Dưới nhà Lý, Lý Thái Tổ
(1010 ~1028) phong Vạn Hạnh làm quốc sư. Quốc sư Vạn Hạnh có một địa
vị rất cao và danh tiếng rất lớn trong nhà Lý với công lao dựng nước và giữ
nước to lớn của ông.
Mãn Giác (1052 ~1096) “hiểu rộng, nhớ giỏi, học thông Nho, Phật”, là
“lãnh tụ của pháp môn một thời”
(8)
. Vua Lý Nhân Tông hết sức kính trọng
Mãn Giác, phong ông “tôn hiệu Hoài Tín đại sư”. Như vậy, đại sư “được dự
bàn chính sự ngang hàng với các quan tam ti”. Lý Nhân Tông còn “cho
dựng chùa Cửu Liên Giáo ngay ở bên cạnh cung Cảnh Hưng, thỉnh sư đến
trụ trì để tiện hỏi han về đạo Phật”
(9)
.

Viên Thông (1080~1151) họ Nguyễn, tên là Nguyên Ức. Quốc sư học
vấn uyên bác, thông thạo về sách lược trị quốc. Năm Thiên Thuận thứ 3
(1130), vua Lý Thần Tông (1128~1138) vời sư vào điện Sùng Khai để hỏi
kế hưng vong trị loạn. Quốc sư đáp: “Thiên hạ cũng như đồ dùng, đặt vào
chỗ yên thì nó tất yên, đặt vào chỗ nguy thì nó tất nguy. Xin hoàng thượng
hành xử đức hiếu sinh cho hợp với lòng dân thìdân sẽ kính yêu hoàng
thượng như cha mẹ, ngưỡng mộ hoàng thượng như mặt trăng, mặt trời. Ấy
là đặt thiên hạ vào chỗ được yên vậy”
(10)
. Những lời hùng biện trên của
Quốc sư Viên Thông khiến chúng ta thấy sự hiểu biết sâu sắc của ông về
sách lược quản lý nhà nước cũng như sự quan tâm thắm thiết của ông đối
với vận mệnh của quốc gia.
Huyền Quang (1254 ~1334) tên thật là Lý Đạo Tái. Ông là vị tổ sư đời
thứ ba của phái Trúc Lâm. Ông học vấn uyên bác, có tài ngoại giao:
“Những khi tiếp Bắc sứ hay thư từ qua lại, Tổ viện dẫn kinh nghĩa, ứng đối
trôi chảy, ngôn từ trội hơn hẳn sứ thần Bắc Quốc và các nước láng
giềng”
(11)
.
2. Các nhà sư Phật giáo Việt Nam góp phần lớn vào công việc
văn hoá giáo dục
Trong các triều đại Đinh, Tiền Lê và Lý, trình độ văn hoá của dân
thường rất thấp, những người có học vấn thiếu thốn nghiêm trọng. Còn các
nhà sư Phật giáo thì học vấn uyên bác, thông hiểu cả Phật giáo lẫn Hán
học. Có thiền sư còn am hiểu thiên văn, địa lý, y học và văn học. Các vị
thiền sư đã dạy dân thường học chữ Hán và những kiến thức khoa học xã
hội và khoa học tự nhiên. Thế là chùa chiền đã trở thành những nơi dân
thường học tập. “Cho nên các quý tộc đều đưa con em của mình đi cầu
học. Chùa chiền đã trở thành trường học”

(12)
. Ông Nguyễn Duy Hinh cũng
nói rằng: “Phật giáo phải dùng chữ Hán tải đạo và chùa trở thành những
trường học chữ Hán đông hàng ngàn người”
(13)
. Đại Việt Sử lược chép rằng:
Lý Công Uẩn “thuở nhỏ thông minh, phong thái hiên ngang, du học ở chùa
Lục Tổ”
(14)
. Sự thật lịch sử mà Lý Công Uẩn từng du học ở chùa Lục Tổ cho
chúng ta thấy, trong các triều đại Đinh, Tiền Lê, khi Văn Miếu, Quốc Tử
Giám còn chưa lập nên, các thiền sư đã gánh vác trách nhiệm đào tạo nhân
tài của nhà nước Việt Nam. Với sự khởi nguồn của nền giáo dục Nho giáo
vào nửa cuối thế kỷ XI, với nhân tài Nho giáo ngày càng nhiều, công việc
mở trường, dạy học, bồi dưỡng, đào tạo nhân tài của các thiền sư thìmới
dần dần giảm bớt.
Vào các triều đại Lý và Trần, có một số thiền sư đã từng đỗ cao trong
các khoa thi Nho giáo hoặc Tam Giáo. Thiền Uyển Tập Anh chép rằng:
Quốc sư Viên Thông “bẩm tính thông minh, học tập chóng tiến, đạt đến
mức tinh diệu”. “Năm Hội Phong thứ sáu (1097), sư đỗ đầu Tam Giáo,
được sung chức Đại Văn. Năm Long Phù Nguyên Hoá thứ 8 (1108) triều
đình mở khoa thi Hoành tài để chọn người bổ chức quan tăng, đạo còn
khuyết, sư lại đỗ đầu”
(15)
. Tam Tổ Thực Lục chép: Huyền Quang “năm hai
mươi tuổi, Tổ đỗ khoa thi Hương, khoa danh còn lưu nhưng những người
được tuyển dụng đều phải qua đại khoa vì thế Tổ tự hẹn đến khoa thi Hội
năm sau. Quả nhiên năm ấy Tổ đỗ đầu”
(16)
. Những thiền sư nói trên thông

thạo cả Phật giáo lẫn Nho giáo và Đạo giáo đã thúc đẩy sự hỗn dung giữa
các thứ văn hoá Phật Giáo, Nho giáo và Đạo giáo.
3. Phật giáoViệt Nam kết hợp chặt chẽ với chính quyền phong
kiến
“Nhập thế” của Phật giáo Việt Nam không những thể hiện ở chỗ các
thiền sư Phật giáo tham gia giải quyết công việc chính tri, ngoại giao, văn
hoá và giáo dục, mà còn thể hiện ở chỗ “chính giáo hợp nhất” - Phật giáo
kết hợp chặt chẽ với chính quyền phong kiến nhà nước Việt Nam. Ông
Kimura Hiroshi, học giả Nhật Bản nói: “Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam là
vương quyền và giáo quyền kết hợp một cách tự nhiên”. “Tình trạng của sự
kết hợp giữa vương quyền và giáo quyền hiếm có trên lịch sử Phật giáo”
(17)
.
Trong triều Lý và Trần, tình trạng “chính giáo hợp nhất” rất đậm nét và nổi
bật. Vào triều Lý, sau khi đã dời kinh đô đến Thăng Long, Lý Thái Tổ (1010
~1028) “bên tả dựng cung Thái Thanh, bên hữu dựng chùa Vạn Tuế, suốt
đời nhà Lý, tăng đạo đầy dân gian, chúa quán khắp trong nước”
(18)
. Trần
Nhân Tông (1279 ~1293) “khi lên ngôi, tuy ở chốn cửu trùng cao sang mà
vua vẫn sống thanh tịch. Vua thường ngủ trưa ở chùa Tư Phúc trong Đại
Nội”
(19)
. Trong nhà Lý và nhà Trần, khá nhiều vua chúa quý tộc tôn sùng đạo
Phật, trong đó còn có người sáng lập giáo phái. Ví dụ như, Lý Thánh Tôn
(1054 ~1072) là một trong ba vị tổ sư thế hệ thứ nhất của Thiền phái Thảo
Đường. Lý Anh Tôn (1138-1139) là một trong bốn tổ sư thế hệ thứ ba của
Thiền phái Thảo Đường. Lý Cao Tông (1176 ~1210) là một trong bốn tổ sư
thế hệ thứ năm của Thiền phái Thảo Đường. Các vị vua của nhà Trần, từ
Trần Thái Tông (1225 ~1258) cho đến Trần Minh Tông (1314 ~1329) đều

sùng đạo và tích cực ủng hộ Phật giáo. Trần Thái Tông là một cây đuốc
sáng khai nguồn cho tinh hoa đạo Phật bùng cháy. Trần Thánh Tông
(1258~1278) tuy ngồi trên ngai vàng mà hành trạng chẳng khác một thiền
sư đắc đạo. Trần Nhân Tông là vị tổ sư đời thứ nhất của phái Trúc Lâm.
Trong triều đình nhà Trần, xuất hiện một tình trạng: “lấy địa vị vua chúa mà
làm đại sĩ, hoàng hậu mà làm tì khưu, khanh tướng mà làm thầy
chùa”
(20)
. Họ “vừa giữ vai trò một nhà lãnh đạo quốc gia, vừa có tư thế của
một lãnh tụ Phật giáo”
(21)
. Tam tổ thực lục chép rằng, mùa đông năm Giáp
Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), Trần Anh Tông (1293 ~1314)
“dâng biểu mời Điều Ngự (Trần Nhân Tông) vào Đại Nội để thọ tâm giới tại
gia Bồ tát. Ngày vào thành, vương công, bách quan sắm lễ nghi đầy đủ đón
rước xa giá của Điều Ngự, rồi cùng thọ giới pháp”
(22)
.
Theo chúng tôi, sở dĩ hai triều đại Lý, Trần thi hành “chính giáo hợp
nhất” là vì các vua của hai triều đại này cho rằng khi quản lý nhà nước,
Phật giáo có một tác dụng tích cực, Phật giáo và Nho giáo bổ sung lẫn
nhau. Trần Thái Tông nói rằng: “Trẫm thầm nhủ: Phật không chia Nam Bắc,
đều có thể tu mà tìm; tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành
đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê muội; con đường tắt sáng tỏ
lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu thế; làm
khuôn mẫu cho tương lai, ấy trách nhiệm của Tiên thánh. Cho nên Lục tổ
có nói: “Bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác gì nhau”. Như thế đủ
biết đại giáo của đức Phật ta phải nhờ Tiên thánh mà truyền lại cho đời; thế
thì nay lẽ nào trẫm không coi trách nhiệm của Tiên thánh là trách nhiệm của
mình, giáo lý của đức Phật là giáo lý của mình!”

(23)
.
II. “Nhập thế” của Phật giáo Việt Nam thúc đẩy văn học cổ điển
Việt Nam hình thành
Ông D.G.E Hall - học giả Anh Quốc nói: “sự phát triển của văn hoá
Việt Nam với sự thúc đẩy của Phật giáo đã trở thành một đặc trưng của ý
thức hệ dân tộc”
(24)
. Việc các vị thiền sư Phật giáo trong các triều đại Đinh,
Tiền Lê, Lý, Trần tham gia giải quyết công việc chính trị, ngoại giao và văn
hoá giáo dục không những đã đóng góp lớn vào việc xây dựng chế độ xã
hội, quản lý công việc nhà nước, phát triển văn hoá giáo dục mà còn thúc
đẩy sự hình thành của văn học cổ điển Việt Nam.
Trong thế kỷ X-XII, thành phần chính của dòng văn học viết Việt Nam
là văn học chữ Hán. Sự nảy sinh của văn học chữ Hán gắn bó chặt chẽ với
công việc sáng tác văn học của các thiền sư.
Từ cổ xưa, kinh điển của Phật giáo Việt Nam viết bằng chữ Hán. Các
thiền sư Việt Nam đều thông thạo chữ Hán. Trong xã hội đương thời, họ là
một trong những nhóm người tiếp xúc văn hoá Hán sớm nhất của Việt
Nam. Đồng thời họ là một nhóm người quan trọng trong việc truyền bá chữ
Hán và văn hoá Hán. Giữa thế kỷ VII, các thiền sư Việt Nam được vua
Đường mời đến kinh đô Trung Quốc “thuyết pháp giảng kinh”. Họ giao lưu
nhiều với các nhà sư và các nhà thơ của triều Đường về Phật giáo và văn
học. Phụng Đình Pháp sư, Duy Giám Pháp sư, Vô Ngại Thượng Nhân,
v.v đã ngâm thơ với các nhà thơ nổi tiếng của nhà Đường như Vương
Duy, Giả Đảo, Trương Tịch và Dương Cự Nguyên, v.v Có thể nói, các
thiền sư Việt Nam là một trong những nhịp cầu giao lưu văn hoá, văn học
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các thiền sư Việt Nam đã góp phần không
nhỏ trong việc truyền bá văn học Hán, nhất là nghệ thuật thơ Đường.
Trên văn đàn Việt Nam thế kỷ X-XII, các nhà sư là lực lượng nòng cốt

sáng tác thơ văn. Việc sáng tác thơ văn của họ đã quyết định hướng đi của
văn đàn. Tiến sĩ Hồ Huyền Minh nói: “Các nhà sư Việt Nam học vấn uyên
bác, hiểu sâu về thi học, giỏi thơ văn và sáng tác thơ văn. Vì vậy, họ đã
trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến tư tưởng văn học cũng như nghệ thuật
văn học Việt Nam đương thời”
(25)
. Thành tựu văn học của họ đã thể hiện
trình độ văn học lúc bấy giờ. Khuông Việt, Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Mãn
Giác, Viên Chiếu, Không Lộ và Viên Thông là những thiền sư tiêu biểu có
thành tựu văn học nổi bật trên văn đàn Việt Nam đương thời.
Khuông Việt đại sư đã viết một bài từ Vương Lang Quy bằng chữ
Hán. Bài từ này có thể coi như là bài từ cổ nhất còn giữ được trên lịch sử
văn học Việt Nam:
“Tường quang, phong hảo cẩm phàm trương.
Dao vọng thần tiên, phục đế hương.
Vạn trùng sơn thuỷ thiệp thương lang.
Cửu thiên quy lộ trường.
Tinh thảm thiết.
Đối ly thương.
Phan luyến sứ tình lang.
Nguyện tương thâm ý vị biên cương.
Phân minh tấu ngã hoàng”
(Trời đẹp gió lành cánh buồm giương,
Xa ngóng thần tiên, lại đế hương.
Vượt sóng xanh, muôn trùng non nước,
Về phương trời, đường trường.
Tình thảm thiết!
Chén li biệt,
Vin xe sứ vấn vương.
Xin đem thâm ý vìbiên giới,

Tâu vua thật tỏ tường)
Một bài từ tuyệt vời như vậy chứng tỏ trình độ nghệ thuật từ nói riêng
và văn học chữ Hán nói chung của các thiền sư Việt Nam lúc bấy giờ đã
đạt trình độ khá cao.
Vào năm 981, để trả lời Lê Đại Hành hỏi về vận nước, Thiền sư Đỗ
Pháp Thuận đã làm một bài thơ Quốc tộ:
Quốc tộ như đẳng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh
(Vận nước rất bền vững,
Trời Nam mở thái bình.
Vô vi trên điện gác,
Chốn chốn dứt đao binh)
Bài Quốc tộ là một bài thơ cổ nhất còn giữ được của dòng văn học
viết Việt Nam. Tuy là tác phẩm thuộc thời kỳ nảy nở của văn học Việt Nam,
nhưng nó rất chuẩn xác về vần bằng trác. Với phong cách “đi sát hiện
thực”, nó đã sớm xác lập được hướng đi cho cả một tiến trình văn học về
sau. Đó là tiến trình của một nền văn học luôn luôn gắn chặt với những vấn
đề có liên quan tới vận mệnh của đất nước.

×