Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Nhãn quan văn hóa của Phạm Quỳnh, qua du ký" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.31 KB, 7 trang )




Đặng Hoàng Oanh Nhn quan văn hóa của Phạm Quỳnh , Tr. 48-54


48
Nhn quan văn hóa của Phạm Quỳnh, qua du ký

Đặng Hoàng Oanh
(a)


Tóm tắt. Bảy tập du kí của Phạm Quỳnh từng công bố trên Nam phong tạp chí
từ 1917 đến 1934 là một bộ phận quan trọng trong trớc tác của ông bởi giá trị nhiều
mặt của nó. Bài viết này chỉ đi vào tìm hiểu vấn đề nhãn quan văn hóa - một phơng
diện làm nên nét đặc sắc của du kí Phạm Quỳnh trong tơng quan với những cây bút
du kí cùng thời.

hời gian gần đây, một loạt tác
phẩm của Phạm Quỳnh, từ
Thợng Chi văn tập, Luận giải văn học
và triết học, Mời ngày ở Huế, Pháp du
hành trình nhật kí cho đến Tiểu luận
viết bằng tiếng Pháp trong thời gian
1922 - 1932 đã tái xuất, đến tay độc
giả. Tuy cha phải đầy đủ, song chừng
đó cũng cho thấy sự phong phú trong sự
nghiệp trớc tác của một học giả một
thời lừng lẫy và cũng một thời từng chịu
nhiều tai tiếng. Đánh giá một cách công


bằng và thỏa đáng về Phạm Quỳnh,
công việc đó đòi hỏi nỗ lực, thái độ công
tâm và khoa học của nhiều ngời.
Trong bài báo nhỏ này, chúng tôi chỉ
phác dựng một vài nét cơ bản trong
nhãn quan văn hóa của Phạm Quỳnh
qua những tác phẩm du kí. Mảng sáng
tác này của ông đã đợc tập hợp đầy đủ
trong bộ Du kí Việt Nam tạp chí Nam
phong 1917 - 1934 [1].
Phạm Quỳnh thuộc số những trí
thức trởng thành khi chế độ thực dân
phong kiến do Pháp thiết lập ở Việt
Nam đã khá ổn định. Trong con mắt
của ngời đơng thời, những Phạm
Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn
Tờng Tam, Nguyễn Tiến Lãng, đích
thị là những ông Tây An Nam. Tuy
nhiên, Phạm Quỳnh vẫn giữ một lập

trờng riêng, khác hẳn một số ngời.
Nghiên cứu văn nghiệp Phạm Quỳnh,
nhà văn học sử Phạm Thế Ngũ lu ý
một cách đúng mực hành trạng của
tác giả: Giữa một xã hội náo nức duy
tân, ông vẫn tự coi nh di lu của một
gia đình Nho học quê mùa muốn giữ lấy
nền nếp đạo đức của ông cha, cùng
những đức tính chân thật, cần cù của
anh đồ quê, trung thành với linh hồn

của đồng quê, với tiếng gọi của xứ sở
[2, tr. 153]. Nhng đó mới là một mặt,
ấy là mặt bảo thủ trong t tởng Phạm
Quỳnh. Nhìn mặt khác, con ngời ấy
hiện ra đầy đủ t cách một nhà tân học,
có cái vốn Pháp học vững vàng, uyên
bác, óc phán đoán sáng suốt của một
ngời từng thú nhận bị chinh phục bởi
bao nhiêu vẻ đẹp mĩ miều, tân tiến của
nền văn minh Tây phơng [2, tr. 154].
Hai mặt hoàn toàn trái ngợc nhau,
cùng tồn tại trong một con ngời, đã
góp phần làm nên cái diện mạo tinh
thần, t tởng, lối hành xử cũng nh
nhãn quan văn hóa của Phạm Quỳnh.
Có thể xem Phạm Quỳnh nh một
ngời dung hòa những đối cực: cũ và
mới, truyền thống và hiện đại, bảo thủ
và cách tân. Trân trọng, giữ gìn những
tinh hoa ngàn đời của dân tộc (mà ông
gọi là quốc túy, quốc văn), nhng cũng

Nhận bài ngày 08/4/2008. Sửa chữa xong 14/6/2008.


T



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 2B-2008



49
biết chắt lọc những giá trị văn minh
Tây phơng để bồi đắp, hiện đại hóa
nền văn hóa nớc nhà. Khát vọng đó,
ông bộc lộ nhiệt thành trong những
thiên tiểu luận, những bài diễn thuyết,
những trang dịch thuật, du kí
Giữa một thời đại đầy biến động,
bao nhiêu yếu tố mới nảy sinh, thậm chí
có những điều hoàn toàn nằm ngoài sự
hình dung của ngời Việt lúc bấy giờ.
Cái mới, cái khác bao giờ cũng có sức
hấp dẫn đặc biệt. Và đó cũng là một
trong những nguyên nhân tạo nên nhu
cầu xê dịch của tầng lớp trí thức mới. Đi
để thay đổi thực đơn cho giác quan
nh cách nói của Nguyễn Tuân. Đi để
trải nghiệm, tìm tòi, khám phá những
phơng xa, xứ lạ. Chính những chuyến
du lãm đã đẻ ra những trang du kí. Có
thể thấy đợc phần nào chủ ý của ông
chủ bút Nam Phong (cổ vũ, phát huy sự
ghi chép của những ngời đi du lịch)
khi mở ra chuyên mục riêng dành cho
du kí, và ông cũng là một cây bút đóng
góp bài thờng xuyên. Phạm Thế Ngũ
đã đánh giá xác đáng: Phạm Quỳnh
còn mở đờng cho một loại văn sau này

thành mốt thời ấy, là loại du kí [2, tr.
190]. Những tác phẩm du kí của Phạm
Quỳnh tuy cha bao quát hết đợc bức
tranh hiện thực của cuộc sống đơng
thời, nhng đã giúp bạn đọc một cách
nhìn, từ đó có những cảm nhận riêng về
mỗi một miền đất mà tác giả đã đi qua.
Dễ nhận thấy trong những trang ghi
chép ấy, mọi đối tợng đều đợc ông
quan sát, miêu tả dới góc nhìn văn
hóa. Cái ý vị riêng của du kí Phạm
Quỳnh, phải chăng trớc hết chính là
chỗ đó?
Qua bảy bài du kí mà Phạm Quỳnh
từng công bố trên Nam phong tạp chí,
có thể nhận thấy tác giả đã lựa chọn địa
chỉ du lịch một cách có chủ ý. Đó là
chốn kinh kì - miền đất thiêng liêng
trong tâm thức ngời Việt (Mời ngày ở
Huế); là miền châu thổ mới bồi, đất đai
phì nhiêu, sản vật phong phú, con ngời
phóng túng, chân tình (Một tháng ở
Nam Kì); là miền đất Phật linh thiêng
(Trẩy chùa Hơng); hay vùng biên giới
hẻo lánh, xa xôi (Chơi Lạng Sơn, Cao
Bằng) Xa hơn nữa là nớc Lào, dân
c tha thớt, kinh tế lạc hậu; là Pa-ri,
kinh đô ánh sáng của nớc Pháp, trung
tâm văn minh của châu Âu. Bằng sự
quan sát tinh nhạy, nhận xét sắc sảo,

lối ghi chép giản dị và súc tích, văn
phong uyển chuyển, Phạm Quỳnh đã
giúp độc giả nắm bắt rất nhanh cái khí
cốt, cái thần hồn của mỗi vùng miền.
Những thiên du kí của Phạm Quỳnh
chẳng khác gì những mảnh ghép, tạo
nên bức tranh nhiều màu, khá hỗn tạp
và xô bồ của một xã hội Việt Nam với
những thay đổi của đời sống vật chất và
những rạn vỡ trong ý thức hệ. T tởng
Khổng Mạnh - một trong những điểm
tựa tinh thần vững chãi của các thế hệ
nhà nho - giờ đây đã tỏ ra thất thế trớc
sức mạnh của văn minh phơng Tây.
Nền văn hóa đầy mới mẻ ấy ùa vào,
mang theo biết bao biến đổi trong đời
sống thờng nhật, thậm chí, đi tới
những chỗ sâu kín nhất trong tâm hồn
con ngời (nhận định của Hoài Thanh
trong Thi nhân Việt Nam). Nó khiến
cho một bộ phận nhà Nho rơi vào trạng
thái hoài nghi, hoang mang tự vấn:
Đạo táng ngã an qui (Nguyễn
Khuyến). Vốn xuất thân từ dòng dõi
Nho gia, hẳn Phạm Quỳnh cũng lây
nhiễm nỗi hoang mang của thế hệ.
Trong một tiểu luận viết bằng tiếng
Pháp (vừa đợc dịch và xuất bản gần
đây), bàn về Nho giáo, ông viết: Vậy
mà nếu có một học thuyết cần phải đợc

làm sống dậy mạnh mẽ trong thời kì bất



Đặng Hoàng Oanh Nhn quan văn hóa của Phạm Quỳnh , Tr. 48-54


50
an và hỗn loạn này, hỗn loạn trong tâm
trí con ngời và hỗn loạn trong các thói
tục, còn trầm trọng hơn nhiều so với các
xáo động thoáng qua của chính trị hay
các cuộc đảo lộn hời hợt của xã hội, thì
đấy chính là học thuyết của bậc hiền
triết cổ đại này, ngời duy trì trật tự vĩ
đại nhất xa nay [4, tr. 172]. Cho nên,
ta nhận ra niềm tha thiết kín đáo qua
mỗi chuyến đi để làm nên mỗi trang du
kí chính là khát vọng tìm về với các giá
trị truyền thống và thấu hiểu những
chuyển động của văn hóa nớc nhà khi
đứng giữa giao điểm của những nền
văn minh. Ông đã đi với tâm thế của
một nhà văn hóa. Đi, do vậy, không chỉ
để thởng lãm, mà là để thức nhận,
thấm thía, từ đó rút ra những bài học
cần thiết. Cho nên, trong những tác
phẩm du kí của Phạm Quỳnh, kể và tả
thì ít mà bình luận, suy ngẫm thì
nhiều. Bình luận về một nghi thức chốn

cung đình, bình luận về Phật giáo, Nho
giáo, bình luận về chí nam nhi, về nghề
làm báo, về nghệ thuật diễn kịch Mỗi
lời bình luận đều có một điểm tựa văn
hóa rất vững vàng.
Nhà nghiên cứu Vơng Trí Nhàn đã
có lí khi cho rằng, với Phạm Quỳnh, văn
hóa là rất đa dạng, là gánh nặng, thấm
thía bao nhiêu mồ hôi nớc mắt cả tiên
tổ cha ông, lại in dấu bao vui buồn của
mỗi kiếp ngời [3, tr. 51]. Cho nên, mỗi
chuyến đi tới một miền đất, đồng thời
với hành trình trải nghiệm của bản
thân là công việc khám phá phong thổ
và những nét văn hóa đặc sắc của vùng
đất ấy. Chơi Lạng Sơn, Cao Bằng là để
nhiễm cái khí vị miền thợng du, thấy
đợc cái nghĩa lí của câu ca dao cổ:
Đồng Đăng có phố Kì Lừa / Có nàng
Tô Thị có chùa Tam Thanh; tới Nam
Kì để hởng cái nồng nàn của một miền
đất mới; đi Chùa Hơng để khảo cứu
cái lòng tôn giáo trong quốc dân, hiểu
thêm đời sống tâm linh của con ngời.
Đặc biệt, chuyến đi Huế, tới miền đất
kinh kì, đúng là một cuộc hành hơng
trở về cội nguồn thiêng liêng của cha
ông, để tinh thần đợc cảm cái hồn xa
của loài giống, thân thể gội cái khí
thiêng của núi sông. Đi và xem với tinh

thần đó, trong những trang du kí của
Phạm Quỳnh, thấp thoáng bóng dáng
một nhà hiếu cổ, luận bàn, bênh vực về
những giá trị truyền thống một cách
say sa. Viết về lễ tế Nam Giao, Phạm
Quỳnh đã rất công phu trong việc diễn
tả cái nghi thức thiêng liêng cũng nh
vẻ đẹp thoát tục của nó. Ông nhìn thấy
ở lễ tế Nam Giao cái ý nghĩa thâm
trầm, cái nét văn hóa lớn của dân tộc:
Phàm cái hình thức gì nó biểu đợc cái
hồn xa của Tổ quốc, dù phiền phức đến
đâu cũng không nên bỏ. Bỏ một cái, bỏ
mời cái là xóa mất cái hình ảnh nớc
nhà trong con mắt bọn hậu sinh vậy
(Mời ngày ở Huế). Trên quan điểm của
một nhà nho, Phạm Quỳnh luận giải về
cái hữu ích trong việc bảo tồn một nghi
lễ thiêng liêng của dân tộc. Ông cho
rằng: Tế Giao là vua thay mặt con dân
mà cầu trời giáng phúc cho dân; Vua Tế
Giao là biểu cái lòng tôn trọng với giời
và biểu cái tình thân ái với dân; Giao tự
cũng có quan hệ với chính trị, vì nhân
đấy mà cái dây thân mật bó buộc Vua
với dân, buộc ngời dân với nhau lại
càng bền càng mạnh thêm ra (Mời
ngày ở Huế). Nh vậy, Phạm Quỳnh đã
nhận thấy nghi thức tế lễ kia có mối
liên hệ với sự thịnh suy của non sông

tiên tổ. Bằng mẫn cảm của một con
ngời tha thiết với hồn thiêng sông núi,
ông nhìn thấy cái quốc túy vẫn hằng
sống qua bao hng vong. Không chỉ
quan sát nghi thức tế Giao bằng con
mắt của một nhà hiếu cổ, Phạm Quỳnh



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 2B-2008


51
còn thể hiện mĩ cảm của mình qua việc
thởng ngoạn cái cảnh tợng rất đẹp,
rất trang nghiêm của cái Việt Nam cổ
quốc này. Những câu văn trang nhã
ghi lại lễ tế Nam Giao trong thiên du kí
Mời ngày ở Huế là kết quả sự trùng
phùng của nhiều nguồn cảm hứng.
Trong bài giới thiệu bộ Du kí Việt
Nam - Tạp chí Nam phong 1917 - 1934,
Nguyễn Hữu Sơn nhận xét: Nhu cầu
hiểu biết, khám phá, đổi thay không
khí, nhu cầu xê dịch đi và xem chính là
tâm trạng nơi này yêu nơi kia- cơ sở
cội nguồn của những chuyến viễn du và
hình thành nên những trang du kí [1,
tr. 11]. Đúng nh vậy. Tuy nhiên,
chúng tôi muốn nói thêm rằng, những

trang du kí của Phạm Quỳnh còn cho
thấy một nhu cầu rất bức bách, đó là
muốn đợc chứng kiến tận mắt thực
trạng đời sống văn hóa của dân tộc,
muốn tìm những phơng thế nhằm bảo
tồn những gì tinh túy, tẩy rửa những
cặn bã tồn tại trong nền văn hóa ấy. Với
một t duy ít nhiều có tính biện chứng,
ông luôn luôn phát hiện ra hai mặt
trong mỗi vấn đề. Đâu đó ở những trang
viết của ông, bên cạnh những hoài nghi,
thất vọng, thậm chí thái độ tự tri, đôi
khi tự sỉ một cách thành thật và đau
đớn [4, tr. 154].

Về trình độ dân trí
nớc nhà, còn có niềm cảm thông trớc
những cái thấp hèn, bạc nhợc cũng
nh cái hồn nhiên mộc mạc, chân thật
đến đáng thơng của ngời dân An
Nam. Trẩy Chùa Hơng để tìm hiểu cái
tín ngỡng của dân gian, Phạm Quỳnh
không có cái tâm thế của một ông Tây
An Nam, xem cảnh tợng lễ bái với con
mắt khách quan diễu cợt của ngời
ngoại quốc tân tiến trớc một dân tộc
bán khai

nh Nguyễn Văn Vĩnh,
nhng không vì thế mà ông làm ngơ

trớc những nhếch nhác, bệ rạc của dân
mình. Ông viết: ở những chốn thành
thị phồn hoa, thời sự lễ bái đã nghiễm
nhiên thành một cách hối lộ vô ngần;
ngời ta đối với thần thánh chẳng khác
gì lũ dân ngu xử với bọn quan tham,
tởng cứ lễ lót nhiều là đợc ơn huệ to
(Trẩy Chùa Hơng). Khi về với đời sống
dân gian, về với những ngời mà ông
cho là thật thà mộc mạc, gần cái bản
tính thiên nhiên, ông vẫn cảm thấy
chua xót trớc những hủ tục bày ra
trớc mắt. Đó là cảnh tợng hỗn tạp
của ngời dân nơi cửa Phật, là lòng tin
một cách mù quáng. Ông than thở: Ôi
cái lòng tín ngỡng của ngời mình
phát biểu ra một cách thật là thô bỉ sỗ
sàng thay (Trẩy Chùa Hơng). Tuy
nhiên, bằng cái nhãn quan văn hóa sắc
sảo, Phạm Quỳnh vẫn nhận ra đằng
sau việc cúng bái, cầu nguyện, đằng sau
bức tranh lễ chùa hỗn tạp ấy là một đời
sống tâm linh phong phú của ngời
dân, là niềm tin bất di bất dịch vào một
đấng tối cao cứu khổ cứu nạn cho đời.
Theo ông, căn nguyên của sự sùng kính
là ở cái đau khổ chung của cả loài
ngời, ngời ta có cực mới phải cầu,
cầu mà đỡ cực thời chẳng phải là một sự
hay ru? (Trẩy Chùa Hơng). Phạm

Quỳnh đã truy nguyên cái gọi là tâm lý
lễ bái, khảo cứu cái nguồn gốc tôn giáo
trong hoạt động tinh thần của con
ngời. Ông cho rằng, những hủ tục lạc
hậu hay những tục mê tín dị đoan, buôn
thần bán thánh tồn tại là bởi Phật giáo
ở đây không có thành giáo hội, không
có thể thống, không có cơ quan gì. Là
ngời xem trọng nho học, song Phạm
Quỳnh vẫn khách quan nhận ra rằng
chính cái chủ nghĩa độc tôn nho giáo
trong suốt thời kì lịch sử đã bó buộc con
ngời trong những quy phạm, chuyên
chế, hạn chế quyền tự do tín ngỡng:
đối với Phật giáo, Lão giáo thờng



Đặng Hoàng Oanh Nhn quan văn hóa của Phạm Quỳnh , Tr. 48-54


52
nhất khái xem là tà thuyết, coi là
những chuyện hoang đờng quái đản
(Trẩy chùa Hơng). Cho nên, lòng tôn
giáo không thịnh, các giáo hội không có,
mới sinh ra vô số những sự thờ cúng lễ
bái vô nghĩa lý, lắm khi hại cho phong
tục luân thờng (Trẩy Chùa Hơng).
Ta nhận thấy trong chiều sâu suy tởng

của Phạm Quỳnh, nỗi đau đáu chân
thành của một ngời tự thấy mình
không thể trút bỏ trách nhiệm đối với
cuộc đời.
Qua những trang du kí của Phạm
Quỳnh, có thể hiểu thêm, một trong
những nguyên nhân khiến một thời ông
phải chịu sự phê phán nặng nề chính là
thái độ của ông đối với thực dân Pháp
và văn hóa Pháp. Những từ ngữ nh
nớc mẹ Pháp xuất hiện không ít lần
trong những trang viết của ông. Ông
cũng nhiệt thành ca ngợi công khai hóa
của Pháp đối với thuộc địa. Những
chuyến đi đã giúp ông chủ bút Nam
phong tạp chí có một cái nhìn bao quát
về bức tranh hiện thực của xã hội Việt
Nam đầu thế kỉ, từ đó, có điều kiện đối
sánh, nhận ra sự khác biệt giữa văn
hóa Pháp và văn hóa Việt Nam. Cho
nên, nói về cuộc tiếp xúc giữa Việt Nam
với phơng Tây, ông nghiêng hẳn về
phía khẳng định công lao khai hóa của
Pháp. Chính điều này gây ra những
phản ứng tức thời và gay gắt trong các
sĩ phu yêu nớc chống Pháp thời đó, và
hệ quả kéo theo là sự đánh giá rất khắt
khe của giới nghiên cứu suốt mấy thập
kỉ qua về con ngời và di sản Phạm
Quỳnh. Giờ đây, với độ lùi của thời

gian, với sự bình tĩnh trong nhìn nhận
những vấn đề lịch sử, có thể thấy một
số quan điểm của Phạm Quỳnh là khả
thủ. Quả thực, nếu không có ngọn gió
phơng Tây tràn tới, không biết quá
trình hiện đại hóa nền văn hóa Việt
Nam sẽ diễn ra thế nào. Về tác dụng
tích cực của công cuộc Âu hóa, Vơng
Trí Nhàn cũng khẳng định: tuy Việt
Nam đã làm một cuộc thay máu hoàn
toàn dới ảnh hởng của nền văn hóa
Pháp, nhng nền văn hóa Việt Nam
nửa đầu thế kỉ vẫn đẻ ra đợc những
đứa con bụ bẫm, nh nền tiểu thuyết
hiện đại, phong trào Thơ mới [3, tr.
56]. Bởi, có một quy luật tất yếu không
một quốc gia nào tránh khỏi, đó là lịch
sử mọi nền văn hóa không chỉ là sự
phát triển tự thân của nó mà còn là lịch
sử của mối quan hệ giữa nó với các nền
văn hóa khác [3, tr. 56]. Cho nên,
những chuyến viễn du, đặc biệt là
những chuyến du lịch ra ngoài biên giới
của Tổ quốc đã khiến Phạm Quỳnh luôn
đối sánh giữa văn hóa Việt Nam và văn
hóa phơng Tây. Từ giáo dục, học
thuật, ngôn ngữ, mĩ thuật, kịch nghệ,
cho đến tôn giáo, tất cả đều hiện lên
những tơng phản gay gắt. Chẳng hạn,
về sự học, ông không khỏi chua xót vì sự

khác biệt giữa Tây và ta. Nhìn nét mặt
các ngời sinh viên đó nh có cái hào
quang của sự học, trong lòng cảm phục
cái chí cao của kẻ thanh niên nớc
Pháp, mà lại bùi ngùi cho cái công học
hành dở dang của mình. Than ôi, mình
không phải là không có cái lửa nhiệt
thành về sự học nhng mà sinh trởng
vào giữa buổi thanh hoàng, học không
ra gì cả, Nho đã chẳng ra Nho, mà Tây
cũng chẳng thành Tây Dở dang, dở
dang, thôi mình đã đành là một con
ngời dở dang, - mà cả nớc mình cũng
là một nớc dở dang (Pháp du hành
trình nhật kí). Bàn về trí thức, rờng
cột của nớc nhà, ông thấm thía rằng:
Nhân nghĩ nhà nho Tây họ cũng có
khác nhà nho mình: họ lanh lợi, hoạt
bát, sắc sảo, khôn ngoan, biết đem cái
cổ học mà điểm vào cuộc đời nay cho có



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 2B-2008


53
phong vị nghĩa lý chứ không phải làm
nô lệ cổ nhân; họ là thông nho không
phải là tục nho, hủ nho. Nớc ta bây

giờ đơng phải cần có những nhà nho
nh thế (Pháp du hành trình nhật kí).
Với cái nhìn đối sánh triệt để, Phạm
Quỳnh không khỏi có lúc rơi vào cực
đoan. Chẳng hạn, bàn về nghệ thuật
kịch, do đề cao kịch nói của phơng
Tây, ông đã hạ thấp kịch hát của nớc
nhà - một loại hình sân khấu vốn có
những đặc sắc riêng: Diễn kịch ta
không phải là diễn theo nghĩa Tây.
Diễn kịch ta chỉ là múa và hát mà thôi,
ngời xem cũng chỉ chủ coi cái dáng
múa, nghe cái điệu hát mà thôi, không
ai chú ý đến cái kịch là cái phần hành
động trong bài tuồng. Đến nh tuồng
Tây thì thuần là kịch cả còn nh
nghề hát, nghề múa lại là hai nghề
riêng, không lẫn với nghề diễn kịch
Ôi cái t tởng hàm hồ của ngời nớc
Nam nó phát hiện cả ra lời ăn tiếng nói;
bao giờ phá tan đợc cái màn sơng mờ
ám nó bao bọc cái trí não ngời mình
(Một tháng ở Nam Kì). May sao, nhìn
trên đại thể, sự so sánh đó không dẫn
ông tới chỗ đề cao thái quá văn hóa
ngoại bang và phủ nhận những giá trị
truyền thống của nớc nhà. Phạm
Quỳnh có cái mặc cảm tự tôn rất đặc
trng của một nhà nho. Nói đúng ra,
trong con ngời ông có sự đan xen

những yếu tố đối nghịch: vừa có cái tự ti
của một nhà nho nớc Việt, lại phần
nào ngấm ngầm tự hào về cái chất nhà
nho của cha ông trong bản thân mình.
Diễn thuyết ở đất khách quê ngời,
Phạm Quỳnh vẫn vận khăn đóng, áo
the ra dáng một anh đồ nho: Gặp
những cơ hội nh lúc này mà nỡ bỏ quốc
phục đeo tây phục, thì cũng tủi cái áo
cái khăn anh đồ quá; thôi thì cứ mặc An
Nam, cho dẫu đi ngoài phố thiên hạ chỉ
trỏ nữa cũng chẳng hề gì (Pháp du
hành trình nhật kí). Trên đất ngời,
ông vẫn lớn tiếng bênh vực tiếng An
Nam, khẳng định rằng tiếng An Nam
không phải là hèn mạt gì, cũng có cơ
tiến hóa đợc. Trên tinh thần đó, ông
phát hiện những mặt hạn chế của nền
văn hóa phơng Tây: Duy cái văn
minh Tây phơng nó phồn tạp quá, các
phơng diện nhiều quá, muốn bao
quát cho đợc hết mà thu gồm lấy cái
toàn thể, toàn bức thật là khó lắm
Hiện nay thời nó làm vạ cho ngời đời
cũng đã nhiều; vẫn biết rằng không
phải tại nó, tại ngời đời hiểu nhầm mà
thôi, nhng cớ chi nó can thiệp đến
ngời đời làm chi, mà làm cho lôi thôi
đa sự nh thế (Pháp du hành trình
nhật kí).

Từ những điều mắt thấy, tai nghe,
từ sự đối sánh thờng xuyên nh một
thao tác quen thuộc của nhận thức,
Phạm Quỳnh hiểu rằng, nền văn hóa
dân tộc không thể không thay đổi.
Nhng thay đổi bằng cách nào?
Trớc hết, theo Phạm Quỳnh, hiện
đại hóa phải gắn liền với quá trình bảo
tồn những giá trị truyền thống quý báu
của dân tộc. Hiện đại hóa không phải là
du nhập ồ ạt những gì nền văn hóa
ngoại bang có sẵn, mà biết tiếp thu
chọn lọc những cái cần cho sự hng
thịnh của dân trí nớc nhà, phù hợp với
hiện trạng của một quốc gia có bề dày
lịch sử. Với nhận thức nh vậy, ông biết
rằng, phổ biến tiếng Pháp cho ngời
Việt là rất cần thiết, nhng phải thực
hiện một cách khoa học: Nếu dân Việt
Nam là một dân mới có, cha có nền
nếp, cha có lịch sử gì thì quý quốc cứ
việc hóa theo Tây cả, dạy cho học chữ
Tây hết cả, đồng hóa đợc đến đâu hay
đến đó. Nhng ngặt thay, dân Việt
Nam không phải là một tờ giấy trắng



Đặng Hoàng Oanh Nhn quan văn hóa của Phạm Quỳnh , Tr. 48-54



54
muốn vẽ gì vào cũng đợc; tức là một
tập giấy đã có chữ sẵn từ đời nào đến
giờ rồi. Nếu bây giờ viết lên thì e thành
giấy lộn mất (Pháp du hành trình nhật
kí). Thật là một thái độ có trách nhiệm
với đất nớc, quê hơng. Cũng từ những
đề xuất trên, có thể thấy một đặc điểm
rất rõ nét ở Phạm Quỳnh: tâm lí dung
hòa. Dung hòa, theo ông là sự cứu vãn
duy nhất cho nền văn hóa nớc nhà,
vừa đảm bảo không đồng hóa, lại vừa có
cơ tiến bộ.
Đúng nh một số ngời nhận xét,
Phạm Quỳnh mang dáng dấp một nhà
văn hóa, một học giả hơn là nhà văn.
Viết văn, ghi chép những chuyến đi,
ông không chọn lối văn thiên về cảm
giác, tả những cảnh lạ, ngời lạ, chuyện
lạ vốn là u thế của thể du kí. Trong
văn ông, bề bộn những khảo luận, bàn
bạc, suy t. Chính lối viết này cho phép
ông bộc lộ rõ nhất tầm t tởng, vốn tri
thức và nhãn quan văn hóa của mình.
Dĩ nhiên, muốn thâu tóm những vấn đề
lớn lao ấy của học giả, kí giả, nhà văn
hóa Phạm Quỳnh, cần tìm hiểu toàn
diện trớc tác mà ông để lại. Bởi vậy,
những gì chúng tôi đề cập trên đây mới

chỉ là vài khía cạnh của một vấn đề lớn.
Hi vọng có dịp trở lại vấn đề này với
phạm vi khảo sát rộng hơn.

Tài liệu tham khảo

[1] Du kí Việt Nam Tạp chí Nam phong 1917 - 1934, 3 tập, bài giới thiệu của Hữu
Sơn, NXB Trẻ, 2007.
[2] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ớc tân biên, Tập 3, Văn học hiện đại
1862 1945, NXB Đồng Tháp, 1997.
[3] Vơng Trí Nhàn, Vai trò của trí thức trong quá trình tiếp nhận văn hóa phơng
Tây ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, Nghiên cứu văn học, Số 7, 401, tháng 7/2005.
[4] Phạm Quỳnh, Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 - 1932, NXB
Tri thức, 2007.

Summary

Phạm quynhs cultural vision through stories of a traveller
Pham Quynh's seven epidsodes of traveller's story once published on Nam
Phong magazine in the period of 1917 to 1934 played a significant part in his works
for its muti-faceted values. This paper focuses on his cultural vision - a feature that
dishtinguished Pham Quynh's traveller's story from his contemporary writers.

(a)
45 A - Khoa Ngữ văn, trờng Đại học Vinh.

×