Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Một số giải pháp nâng cao công tác thẩm định tín dụng ở ngân hàng VietComBank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.06 KB, 101 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ.
Chúng ta đặt mục tiêu rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế xã hội với các
nước trong khu vực và trên thế giới, phấn đấu đến năm 2020 trở thành nước
công nghiệp. Đầu tư vào các dự án kinh tế hiệu quả được coi là chiếc chìa khoá
để mở ra thành công. Hệ thống ngân hàng tài chính với chức năng là kênh dẫn
vốn quan trọng bậc nhất của nền kinh tế đã tham gia đầu tư ngày càng tích cực
vào các dự án. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) cũng không
đứng ngoài xu thế đó. Nếu như trước đây, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
thường được biết đến là một ngân hàng chuyên doanh hoạt động trong lĩnh vực
xuất nhập khẩu và thường chỉ quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước lớn, thì
nay với chiến dịch chuyển dịch cơ cấu, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã
nổi lên như một ngân hàng đa năng, cung cấp các dịch vụ tín dụng có chất lượng
cao, tương xứng với tiềm năng của ngân hàng. Cho vay theo dự án được coi là
ưu tiên trong chiến lược cho vay của ngân hàng. Nhưng đây là hình thức tín
dụng có độ rủi ro cao vì những đặc thù nhất định. Mở rộng, nâng cao chất lượng
tín dụng trung dài hạn, hạn chế rủi ro là một bài toán khó và tương đối phức tạp
đối với hệ thống các ngân hàng thương mại ở Việt Nam nói chung cũng như
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng.
Một trong hai hoạt động chính của ngân hàng là hoạt động tín dụng. Hoạt
động tín dụng có chất lượng tốt hay xấu đều ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh
của ngân hàng, trong đó tín dụng trung và dài hạn là các khoản ngân hàng cho
vay với số vốn lớn, thời hạn dài và thời gian thu hồi vốn chậm, do đó, rủi ro từ
hoạt động tín dụng trung và dài hạn là rất lớn, nhưng làm tốt thì lợi nhuận thu
được từ tín dụng trung và dài hạn rất cao.
Qua một thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương, nhận thấy đây là
một vấn đề cấp thiết ngân hàng quan tâm và được sự giúp đỡ tận tình, em quyết
1
định chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
Nam” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề được chia


thành ba phần chính:
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn
tại ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân
hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
Nam.
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI
HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các loại hình
Ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền
kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế - xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ
cho toàn xã hội. Thu nhập từ Ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều
hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá
nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh…). Đối với
các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ
cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị
kỹ thuật. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản
mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng

hay tài khoản điện tử…Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài
chính, họ thường đến ngân hàng để nhận lời tư vấn. Các khoản tín dụng của
ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua chứng khoán Chính phủ) là nguồn tài
chính quan trọng để đầu tư phát triển.
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng
nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ,
vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ ổn định
kinh tế.
Tóm lại, Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh
tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai
3
trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Nhưng cách tiếp cận thận trọng nhất
là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà
chúng cung cấp: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục
các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.
Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ghi: “Hoạt động của ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2. Đặc điểm của Ngân hàng thương mại
Thứ nhất, ngân hàng thương mại trung gian tài chính thực hiện kinh
doanh tiền tệ. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tài chính với hoạt động chủ
yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và
tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tàm thời thâm hụt chi tiêu,
tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những
người bổ sung vốn; (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu
nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy
họ có tiền để tiết kiệm.

Do tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân
hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả
hai cùng có lợi. Như vậy, thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài
chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại
với một lượng vốn lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan
hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Đây là quan hệ
tài chính trực tiếp.
Tuy nhiên, quan hệ tài chính trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù
hợp về qui mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát
4
triển và là điều kiện nảy nở trung gian tài chính. Trung gian tài chính đã làm
tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm
phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư). Trung gian
tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư. Cơ chế hoạt động trung gian
sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế,
phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi
lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế, các ngân
hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thỏa mãn nhu cầu thanh
khoản của nhiều khách hàng.
Ngân hàng là một trung gian thanh toán. Ngân hàng thay mặt khách hàng
thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ với nhiều hình thức thanh toán
như bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ...cung cấp mạng lưới thanh
toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các
ngân hàng cũng thực hiện bù trừ lẫn nhau thông qua Ngân hàng Trung ương
hoặc thông qua trung tâm thanh toán. Hiện nay, ngân hàng trở thành trung gian
thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia.
Một lý do để ngân hàng phát triển thịnh vượng là khả năng thẩm định
thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được
gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị

trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn
và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những
công cụ với các yếu tố rủi ro – lợi nhuận hấp dẫn nhất.
Thứ hai, ngân hàng là tổ chức kinh doanh phải có điều kiện. Ngân hàng
chịu sự điều hành chặt chẽ của Chính phủ hơn bất kỳ tổ chức nào trong nền kinh
kế, bởi ngân hàng là thủ quỹ của cả nền kinh tế. Ngân hàng muốn được cấp giấy
phép hoạt động phải có một lượng vốn nhất định, cam kết thực hiện một số
chính sách nhất định như cho vay, tài trợ cho một dự án hay một khoản chi tiêu
5
nào đó, đồng thời trong quá trình hoạt động, ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ
của Nhà nước. Muốn hoạt động tốt, ngân hàng không ngừng gia tăng nguồn vốn
của mình, tuyển nhân sự có đủ số lượng và chất lượng, có mạng lưới chi nhánh
rộng khắp để đáp ứng nhanh các nhu cầu của khách hàng và thực hiện nhiều
hoạt động khác, nhằm thu được lợi nhuận lớn, hạn chế rủi ro cho cả người gửi
tiền và ngân hàng.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Huy động vốn
♦ Huy động vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thường bao
gồm: vốn tự có (vốn góp), thặng dư vốn và lợi nhuận tích lũy. Để bắt đầu hoạt
động ngân hàng (được pháp luật cho phép), chủ ngân hàng phải có một lượng
vốn nhất định. Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn hình thành vốn
ban đầu khác nhau: ngân hàng nhà nước do ngân sách nhà nước cấp; Ngân hàng
cổ phần do cổ đông đóng góp; Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh
đóng góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu của tư nhân. Trong quá trình
hoạt động, ngân hàng phải không ngừng gia tăng vốn chủ sở hữu của mình
bằng: nguồn tích lũy từ lợi nhuận (chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn
đầu tư); nguồn thặng dư vốn cổ phần, nguồn bổ sung từ góp thêm, cấp
thêm...hoặc từ các quỹ và nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần (các
khoản cho vay trung và dài hạn).
♦ Nhận tiền gửi: Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan

trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn tiền của ngân hàng
thương mại. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được
nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện
nhiều hình thức huy động khác nhau như:
• Tiền gửi thanh toán: là tiền gửi của cá nhân hoặc doanh nghiệp gửi và
nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ trong phạm vi số dư cho phép với lãi
suất rất thấp hoặc có thể bằng không;
6
• Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: là khoản tiền
của doanh nghiệp hoặc các tổ chức xã hội gửi vào ngân hàng với kì hạn
nhất định (có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm...) với lãi suất
kì hạn tương ứng. Kì hạn càng cao thì lãi suất tiền gửi càng lớn. Người
gửi có thể đến ngân hàng rút tiền nếu có cần một khoản tiền chi tiêu, tuy
nhiên chỉ được hưởng lãi suất thấp hơn do không rút đúng hạn.
• Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: là khoản tiền tiết kiệm của dân cư gửi vào
ngân hàng với kì hạn nhất định. Ngân hàng đưa ra nhiều hình thức huy
động và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các kì hạn
khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ hoặc bằng vàng...).
• Tiền gửi của các ngân hàng khác: nhằm mục đích thanh toán hộ và một
số mục đích khác ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng
khác. Tuy nhiên, nguồn này thường không lớn.
♦ Đi vay từ các tổ chức khác: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm
với các phương thức đi vay đa dạng:
• Vay ngân hàng Nhà Nước: đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu
cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu
hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ thanh toán), ngân hàng
thương mại thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu
là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn.
• Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn vay mượn lẫn nhau giữa

các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân
hàng. Nguồn này dùng để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và
trong nhiều trường hợp nó bổ sụng và thay thế cho nguồn vay mượn từ
ngân hàng Nhà nước.
7
• Vay trên thị trường vốn: đây là nguồn vay nợ nhằm bù đắp thiếu hụt tiền
cho vay trung và dài hạn. Các ngân hàng vay bằng cách phát hành các
giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu).
♦ Huy động bằng các nguồn khác: như nguồn ủy thác, nguồn trong
thanh toán và nguồn khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả...
1.1.2.2. Sử dụng vốn
Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn
(huy động vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận.
♦ Hoạt động ngân quỹ: Ngân hàng phải để một lượng tiền mặt trong két
nhất định nhằm để chỉ trả nhanh chóng khi có với các nhu cầu của khách hàng.
Tiền mặt không phát sinh, do vậy, để vừa đáp ứng thực hiện mục tiêu thanh
khoản vừa tạo ra một khoản thu nhập cho ngân hàng, ngân hàng thường có một
khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước, tại các ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác.
♦ Hoạt động đầu tư chứng khoán: ngân hàng thương mại nắm giữ
chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản. Các chứng khoán
ngân hàng nắm giữ thường là: chứng khoán chính phủ; chứng khoán của các
ngân hàng khác, các công ty tài chính và chứng khoán của các công ty khác.
Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng
(lớn hơn so với tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng) và có
thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Nhưng phải hiểu rằng đầu tư
chứng khoán ở đây là đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu... chứ không phải là đầu tư
vào cổ phiếu. Đầu tư vào cổ phiếu thuộc hoạt động hùn vốn của ngân hàng.
♦ Hoạt động tín dụng: là hoạt động đặc trưng của ngân hàng thương
mại, chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng.

Thường được phân chia thành theo thời gian (tín dụng ngắn, trung và dài hạn),
theo hình thức tài trợ chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê, chiết khấu..., chia
theo tài sản đảm bảo, theo rủi ro (các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình
8
và thấp) hay theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp...) hay theo đối tượng tài trợ
(hàng hóa, hoặc bất động sản...) hoặc theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng...).
♦ Các hoạt động khác: Các hoạt động khác là các hoạt động như hoạt
động thanh toán, hoạt động ủy thác, hoạt động hùn vốn (ngân hàng tham gia
góp vốn với các tổ chức khác dưới hình thức nắm giữ cổ phiếu, góp vốn liên
doanh, liên kết...), các hoạt động sử dụng vốn khác như mua sắm, nhà cửa trang
thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh của khác hàng và cho thuê.
1.1.2.3. Hoạt động khác
Bên cạnh các hoạt động mang tính truyền thống và đặc trưng, ngân hàng
thương mại cũng tiến hành các hoạt động khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận như:
cung cấp dịch vụ ủy thác, dịch vụ tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán,
dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý...
1.2. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm của tín dụng
Tín dụng xuất phát từ chữ Latinh Creditium có nghĩa là sự tin tưởng, tín
nhiệm. Tiếng anh là Credit. Theo Kmarx, tín dụng là quá trình chuyển nhượng
tạm thời một một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng sau một
khoảng thời gian nhất định thu hồi một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn dựa trên
sự tin tưởng.
Theo quan hệ tài chính, tín dụng được hiểu theo nghĩa sau đây:
• Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay: Tín dụng được coi là phương
pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người cho vay; hay tín dụng
là sự chuyển dịch từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thâm hụt tiết
kiệm.
9

• Trong mối quan hệ tài chính cụ thể: Tín dụng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
• Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền vay mà các định chế tài chính cung
cấp cho khách hàng.
Như vậy có thể hiểu: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền vay hàng hóa)
giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có
trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho vay khi đến hạn thanh toán.
Như vậy, khái niệm tín dụng gồm ba mặt cơ bản và một quan hệ được gọi là
tín dụng khi có đầy đủ cả ba mặt dưới đây:
• Có sự chuyển giao quyền sử dụng một tài sản từ người này sang người
khác.
• Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời.
• Khi hoàn lại tài sản đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm thêm một
lượng giá trị dôi thêm – gọi là lãi hay lợi tức.
Tín dụng có các hình thức chủ yếu là tín dụng Nhà nước, tín dụng thương
mại, và tín dụng Ngân hàng. Tín dụng thương mại là việc mua bán chịu (hay
mua bán trả chậm) hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Tín
dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng với
một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn
vốn quan trọng nhất không chỉ với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp
mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Không một doanh nghiệp nào có
thể tồn tại vững chắc trên thương trường mà không vay vốn của ngân hàng.
Việc vay vốn từ ngân hàng đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất –
kinh doanh, đặc biệt là các dự án mở rộng sản xuất hay đầu tư chiều sâu của
doanh nghiệp.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của tín dụng trung và dài hạn
10
Khái niệm của tín dụng trung và dài hạn

Ở Việt Nam theo điều 8, số 1627/2001/QĐ-NHNN quy chế cho vay của
tổ chức tín dụng: “Tín dụng trung hạn là các khoản tín dụng có thời hạn từ 12
tháng đến 60 tháng, các khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở lên là tín
dụng dài hạn”.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được người đi vay sử dụng để mua tài sản cố
định, cải tiến đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh và xây dựng các
dự án mới có quy mô vừa và nhỏ.
Tín dụng dài hạn chủ yếu để tài trợ vào việc đổi mới dây chuyền sản xuất
hiện đại, xây dựng công trình có quy mô, thời gian hoạt động dài như xây dựng
nhà ở, các xí nghiệp nhà mày mới, các thiết bị phương tiện vận tải có giá trị
lớn.
Nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn
nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang
kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ
trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ ngân hàng.
Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn:
• Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài, thu hồi vốn chậm: Đối tượng tài trợ của
tín dụng trung và dài hạn là tài sản cố định và các công trình xây dựng.
Đặc điểm của đối tượng này là có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài.
Do đó, khoản cho vay để tài trợ cho các đối tượng này đòi hỏi một số
vốn đầu tư lớn. Mặt khác, nguồn để trả nợ là các quỹ khấu hao cơ bản và
lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả nợ thường kéo dài đến
khi dự án kết thúc.
• Rủi ro cao: Do lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nên độ
rủi ro của các khoản tín dụng trung và dài hạn là cao.
• Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung và dài hạn lớn: do lợi nhuận
càng cao thì rủi ro càng lớn, nên các khoản cho vay trung và dài hạn
11
thường có mức lãi suất cao. Thêm vào đó, do khoản cho vay thường có
số vốn lớn nên thu nhập mà khoản tín dụng này đem lại cho ngân hàng là

lớn.
Vai trò của tín dụng trung và dài hạn
♦ Đối với doanh nghiệp: là một chủ thể trong nền kinh tế thị trường,
doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh từ phía các đối thủ. Để tồn
tại, phải triển và thắng thế trong cạnh tranh, điều cần thiết là các doanh nghiệp
phải chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, mua sắm trang thiết bị hiện đại, đổi
mới công nghệ nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí
đến mức thấp nhất có thể. Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi doanh nghiệp
phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Nguồn tài trợ mà doanh nghiệp có thể lấy
từ các nguồn: tự tích lũy lợi nhuận không chia (đây là nguồn quan trọng, tuy
nhiên phương thức tài trợ này đòi hỏi một thời gian dài, có thể khiến các doanh
nghiệp bỏ lỡ cơ hội kinh doanh); phát hành cổ phiếu, trái phiếu (nguồn này có
ưu điểm là tập trung được lượng vốn lớn trong thời gian ngắn song doanh
nghiệp phải đối mặt với sự phân quyền kiểm soát trong công ty, và không phải
doanh nghiệp nào cũng được phép và sự tín nhiệm để phát hành trái phiếu, cổ
phiếu ra công chúng, trái phiếu cũng không tạo ra sự linh hoạt về kỳ hạn trả nợ)
và sử dụng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Tín dụng trung và dài hạn
của ngân hàng, có ưu thế hơn so với các nguồn trên, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất,
nó giúp doanh nghiệp chớp lấy thời cơ kinh doanh nhờ rút ngắn thời gian tìm
kiếm vốn. Thủ tục vay ngân hàng tuy chặt chẽ nhưng nếu tuân thủ đúng thì thời
gian doanh nghiệp nhận được khoản tín dụng này của ngân hàng là ngắn hơn
nhiều so với tự tích lũy hay phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Thứ hai, không dẫn
đến sự phân chia quyền kiểm soát công ty với bên ngoài so với việc phát hành
cổ phiếu. Thứ ba, tín dụng trung và dài hạn ngân hàng tạo ra sự linh hoạt về kì
hạn: doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng theo kỳ hạn phù hợp với yêu cầu
kinh doanh và chu kỳ thu nhập. Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ của các khoản tín
12
dụng trung và dài hạn của ngân hàng là dễ dàng: khi doanh nghiệp làm ăn thuận
lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và làm ăn có lãi, có thể trả nợ ngân hàng
trước hạn. Ngược lại, khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất – kinh

doanh, có thể xin ngân hàng gia hạn nợ. Mặt khác, việc trả nợ trung và dài hạn
được chia thành các kỳ hạn hợp lý và ổn định, giúp cho doanh nghiệp chủ động
trong việc tìm kiếm nguồn trả nợ.
♦ Đối với ngân hàng: Tín dụng trung và dài hạn với đặc điểm là vốn đầu
tư lớn, thời gian cho vay dài, rủi ro cao nên có lãi suất cao, là nguồn mang lại
lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng.
Thông qua hoạt động tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng không ngừng
mở rộng quy mô khách hàng, bằng việc: thu hút thêm các khách hàng mới, tạo
ra mối liên hệ chặt chẽ và lâu bền với các khách hàng truyền thống. Nhờ đó,
ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, ngày càng khảng định vị
thế và vai trò của mình trong nền kinh tế.
Tín dụng trung và dài hạn góp phần vào việc làm cho vốn huy động
không bị nhàn rỗi, mà được sử dụng hiệu quả để đem lại lợi nhuận cho ngân
hàng. Do ngân hàng không thể ngừng nhận tiền gửi từ dân cư, và vẫn phải trả
lãi cho tiền gửi nên nếu để khoản tiền nhàn rỗi trong “ket”, làm tăng chi phí
ngân hàng và giảm lợi nhuận. Tín dụng trung và dài hạn là một trong các cơ sở
để ngân hàng mở rộng huy động vốn, sử dụng vốn một cách khả thi, tăng sức
cạnh tranh của bản thân ngân hàng.
♦ Đối với nền kinh tế: Ở mọi quốc gia, nhu cầu vốn trung và dài hạn là
rất lớn để đầu tư phát triển cơ sở hạn tầng. Nhu cầu này có thể được đáp ứng
bằng nhiều nguồn như: Ngân sách Nhà nước, viện trợ phát triển, vay nợ nước
ngoài nhưng nguồn quan trọng nhất vẫn là tín dụng trung và dài hạn của các
ngân hàng thương mại. Do đó, tín dụng trung và dài hạn rất quan trọng trong sự
phát triển kinh tế - xã hội.
13
1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm của chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng
thương mại
Bất kì một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện
nền kinh tế thị trường đều phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm,

đưa ra mức giá phù hợp,...Ngân hàng thương mại – một doanh nhiệp đặc biệt –
cũng không nằm ngoài quy luật đó. Hoạt động tín dụng mang lại thu nhập chủ
yếu cho ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng là điều kiện hàng đầu để ngân
hàng không ngừng phát triển.
Xuất phát từ mối quan hệ tín dụng, xem xét chất lượng tín dụng trên ba
giác độ: ngân hàng thương mại, khách hàng và nền kinh tế.
♦ Trên giác độ ngân hàng thương mại
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải
phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và
phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả
đúng hạn và có lãi. Chất lượng tín dụng phải đảm đảm chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý
và gia tăng, dư nợ ngày càng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo và giảm thiểu,
đảm bảo cân đối giữa nguồn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong nền kinh tế.
♦ Trên giác độ khách hàng
Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu về khách hàng sẽ
làm cho ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của Ngân hàng, đảm bảo thỏa mãn
nhu cầu về vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, chất lượng là
yêu cầu hàng đầu, vì vậy, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của
khách hàng: lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, không phiền hà, thu hút được
khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng.
♦ Trên giác độ nền kinh tế
Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động,
tăng thêm sản phẩm cho xã hội, thu hút tối đã nguồn vốn nhàn rỗi trong nước,
14
góp phần tăng trưởng kinh tế, đảm bảo các mục tiêu kinh tế của Nhà nước và
chính phủ đặt ra.
Như vậy, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp được đánh giá trên
quan điểm của: ngân hàng, khách hàng và của nền kinh tế. Chất lượng tín dụng
trung và dài hạn là một bộ phận của chất lượng tín dụng cũng không nằm ngoài
sự đánh giá này. Tóm lại, tín dụng trung và dài hạn được đánh giá là có chất

lượng khi: khoản tín dụng đó đạt được mục đích vay vốn đã đề ra; hoàn trả vốn
vay đầy đủ, đúng hạn, mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cho cả người vay và
người đi vay.
1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng trung và dài hạn của Ngân hàng
thương mại
Chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn
nói riêng là một chỉ tiêu tổng hợp, vừa mang tính cụ thể, vừa mang tín trừu
tượng. Do đó, để đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn cần thiết lập hai
nhóm chỉ tiêu: chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng:
1.3.2.1. Chỉ tiêu định tính
Chỉ tiêu này được thể hiện qua một số khía cạnh sau:
• Khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng: thủ tục đơn giản,
nhanh chóng, thuận tiện, kỳ hạn và phương thức thanh toán phù hợp với
chu kỳ kinh doanh và chu kỳ thu nhập của khách hàng.
• Ngân hàng có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực cấp tín dụng nói chung
và tín dụng trung và dài hạn nói riêng, cở sở vật chất được trang bị tốt và
đầy đủ. Hình thức huy động vốn, hình thức cho vay và đầu tư đa dạng.
Ngân hàng không ngừng cung cấp các dịch vụ mới.
• Đối tượng khách hàng đa dạng, lượng khách hàng vay trung và dài hạn
đông đảo, không ngừng được mở rộng.
Cách đánh giá chỉ tiêu định tính:
15
Để đánh giá chỉ tiêu định tính, các cách thường dùng là các cách dùng
trong thống kê học như điều tra, phỏng vấn và phương pháp chuyên gia. Trong
đó, điều tra là phương pháp hay sử dụng nhất. Thông qua điều tra, quan sát có
thể biết được thủ tục cho vay đối với khách hàng như thế nào, rút ra nhận xét.
Cũng có thể thấy được cơ sở vật chất của ngân hàng. Thông qua điều tra cũng
cho thấy được đối tượng khách hàng là ai, số lượng là bao nhiêu, đang kinh
doanh ngành nghề gì, cần vay sử dụng vào mục đích nào. Hình thức huy động
vốn, đầu tư, cho vay của ngân hàng đa dạng hay không, sử dụng phương pháp

này cũng cho kết quả tương đối chính xác. Ngoài ra, có thể dùng phương pháp
phỏng vấn để thấy được khách hàng có hài lòng với ngân hàng hay không, các
chuyên gia đánh giá về hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng ra sao. Để
đánh giá chất lượng tín dụng của mình thông qua chỉ tiêu định tính, Ngân hàng
thường thuê các công ty kiểm toán uy tín.
1.3.2.2. Chỉ tiêu định lượng
♦ Dư nợ tín dụng trung và dài hạn (TDH)
Tổng dư nợ của ngân hàng bao gồm: dư nợ vốn ngắn hạn, dư nợ vốn
trung dài hạn, vốn góp đồng tài trợ. Chỉ tiêu dư nợ phản ánh số còn cho vay của
ngân hàng trong một thời kì nhất định – thường là một năm. Chỉ tiêu này phản
ánh một phần uy tín, khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng. Tổng dư nợ
cao, chứng tỏ ngân hàng cho vay được nhiều, có hút được nhiều khách hàng, uy
tín của ngân hàng tương tối tốt. Ngược lại, tổng dư nợ thấp cho thấy ngân hàng
khả năng thu hút khách hàng là thấp, uy tín chưa cao, khả năng mở rộng khách
hàng còn hạn chế.
Dư nợ tín dụng trung và dài hạn
Tỷ lệ dư nợ tín dụng trung và dài hạn =
Tổng dư nợ tín dụng
16
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng của tín dụng trung và dài hạn trong tổng
dư nợ.
• Nếu đem so sánh với các chỉ tiêu khác của ngân hàng như tỷ lệ dư nợ tín
dụng ngắn hạn trên tổng dư nợ tín dụng, thì chỉ tiêu này cho thấy quy mô
của tín dụng trung và dài hạn so với tín dụng ngắn hạn. Chỉ tiêu này càng
cao chứng tỏ ngân hàng có quy mô tín dụng trung và dài hạn lớn, đồng
thời đem lại thu nhập cao nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro lớn cho hoạt động tín
dụng của ngân hàng.
• Có thể đem so sánh chỉ tiêu này với chỉ tiêu trung bình ngành. Nếu tỷ lệ
tín dụng trung và dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng cao hơn
trung bình ngành, chứng tỏ, khả năng thu hút khách hàng có nhu cầu cho

vay trung và dài hạn là lớn, uy tín của ngân hàng tương đối tốt. Ngược
lại, nếu tỷ lệ này thấp hơn trung bình ngành, chứng tỏ ngân hàng chưa
thực sự hấp dẫn các khách hàng nhu cầu vay trung và dài hạn.
Chỉ tiêu này chỉ là một phần đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn
của ngân hàng. Thông qua chỉ tiêu này, chưa thể đánh giá chất lượng tín dụng
trung và dài hạn của ngân hàng tốt hay xấu. Để đánh giá toàn diện và tương đối
chính xác, phải xem xét đồng thời các chỉ tiêu.
♦ Vòng quay vốn tín dụng trung và dài hạn:
Doanh số thu nợ TDH BQ trong kỳ
Vòng quay vốn tín dụng TDH =
Dư nợ tín dụng TDH BQ trong kỳ
Vòng quay vốn trung và dài hạn phản ánh số vòng chu chuyển vốn tín
dụng trung và dài hạn trong chu kỳ (thường là một năm). Vòng quay vốn tín
dụng cho biết hiệu quả trong việc sử dụng vốn ngân hàng. Vòng quay càng lớn
17
chứng tỏ ngân hàng sử dụng vốn có hiệu quả, khả năng thu nợ của ngân hàng
tốt. Vòng quay vốn tín dụng trung và dài hạn nhỏ chứng tỏ, khách hàng không
thể hoàn trả nợ đúng hạn, làm phát sinh nợ quá hạn hoặc ngân hàng phải tiến
hành gia hạn nợ cho khách hàng.
♦ Nợ quá hạn và nợ khó đòi
Nợ quá hạn trung và dài hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn TDH =
Dư nợ tín dụng trung và dài hạn
Khi đến kỳ hạn trả nợ, nếu khách hàng không thể hoàn trả đầy đủ và đúng
hạn, không được ngân hàng gia hạn nợ thì khoản nợ đó chuyển thành nợ quá
hạn. Các ngân hàng đều cố gắng sao cho hạ tỉ lệ này xuống càng thấp càng tốt,
bởi lẽ tỷ lệ này cao thì chứng tỏ ngân hàng đang gặp nhiều rủi ro. Tuy nhiên,
trên thực tế, do những rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi nên các
ngân hàng thường chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định coi như giới hạn an
toàn. Theo ý kiến của một chuyên gia thì tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ ở mức

dưới 3% là có thể chấp nhận được. Tuy nhiên chỉ tiêu này đôi khi cũng chưa
phản ánh đầy đủ chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Bởi vì,
bên cạnh những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, còn có những ngân
hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông qua việc cho vay đảo nợ, không
chuyển nợ quá hạn theo đúng quy định.
Nợ khó đòi trung và dài hạn
Tỷ lệ nợ khó đòi trung và dài hạn 1 =
Nợ quá hạn trung và dài hạn
Nợ khó đòi trung và dài hạn
Tỷ lệ nợ khó đòi trung và dài hạn 2 =
Dư nợ tín dụng trung và dài hạn
18
Hai chỉ tiêu này cho thấy tỷ trọng nợ khó đòi trung và dài hạn trong tổng
nợ quá hạn trung và dài hạn và trong tổng dư nợ tín dung trung và dài hạn. Chỉ
tiêu này càng thấp càng tốt, chứng tỏ các khoản nợ có khả năng không đòi được
càng giảm, phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân
hàng.
Các chỉ tiêu về nợ quá hạn và nợ khó đòi vẫn là những chỉ tiêu phản ánh
rõ nét nhất chất lượng tín dụng của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho thấy không phải
lúc nào dư nợ tín dụng cao cũng tốt vì nếu ngân hàng không có chiến lược quản
lý nợ tốt thì sẽ dẫn đến phát sinh nhiều nợ quá hạn, nợ khó đòi.
♦ Hệ số sử dụng vốn trung và dài hạn
Dư nợ tín dụng trung và dài hạn
Hiệu suất sử dụng vốn trung và dài hạn =
Tổng nguồn vốn trung, dài hạn
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sử dụng vốn trung và dài hạn đề đầu tư cho
tín dụng trung và dài hạn. Nếu tỷ lệ này nhỏ hơn hoặc bằng một, chứng tỏ,
nguồn vốn trung và dài hạn để để tài trợ cho tín dụng trung và dài hạn, tín dụng
trung và dài hạn có sự phù hợp về kỳ hạn nên độ an toàn sẽ được đảm bảo.
Ngược lại, nếu tỷ lệ này lớn hơn một, chứng tỏ nguồn vốn huy động trung và

dài hạn không đủ để tài trợ cho tín dụng trung và dài hạn ngân hàng. Tuy nhiên,
phải so sánh một cách tương đối. Chẳng hạn như nếu tỷ lệ này nhỏ hơn nhiều so
với một, chứng tỏ ngân hàng sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn đề tài trợ
cho tín dụng trung và dài hạn. Điều này là không an toàn cho ngân hàng, tiềm
ẩn rủi ro cao, nếu khách hàng ồ ạt đến rút tiền. Nhưng nếu tỷ lệ này gần bằng
một, có nghĩa rằng chỉ có một phần nguồn vốn ngắn hạn dùng để tài trợ cho tín
dụng trung và dài hạn, điều này làm giảm rủi ro, vừa làm giảm chi phí lãi của
19
khoản tiền nhàn rỗi của các khoản tiền gửi ngắn hạn không tài trợ hết cho tín
dụng ngắn hạn.
♦ Chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn
Chỉ tiêu lợi nhuận 1 =
Dư nợ tín dụng trung và dài hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung và dài hạn,
cho biết một trong một trăm phần trăm dư nợ tín dụng trung và dài hạn thì lợi
nhuận từ tín dụng trung và dài hạn là bao nhiêu. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ
tín dụng trung và dài hạn là một nghiệp vụ sinh lời cao.
Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn
Chỉ tiêu lợi nhuận 2 =
Tổng lợi nhuận của ngân hàng
Chỉ tiêu này cho biết lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn chiếm bao
nhiêu phần trăm trong tổng thu nhập của ngân hàng. Nó phản ánh tầm quan
trọng của tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động ngân hàng.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Việc xác định các nhân tố có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và
dài hạn của ngân hàng là rất quan trọng trong việc đề ra các giải pháp nâng cao
chất lượng của hoạt động tín dụng này.
1.4.1. Nhân tố chủ quan
♦ Quy mô và cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại

Các ngân hàng khi cho vay phải cần có lượng vốn lớn. Do yêu cầu đảm
bảo khả năng thanh toán thường xuyên nên các khoản vay trung và dài hạn của
ngân hàng phải được tài trợ chủ yếu bằng nguồn vốn trung và dài hạn. Nếu một
ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng chủ yếu là vốn ngắn hạn, không ổn định
20
khì không nên mở rộng cho vay trung và dài hạn. Các nguồn vốn của một ngân
hàng có thể sử dụng cho vay trung và dài hạn bao gồm: nguồn tự có của ngân
hàng, vốn vay trung và dài hạn, vốn huy động trung và dài hạn và một bộ phận
nhất định vốn ngắn hạn. Quy mô của các nguồn này là một trong những nhân tố
quyết định quy mô cho vay trung và dài hạn và do đó ảnh hưởng đến chất lượng
cho vay trung và dài hạn của ngân hàng. Ngoài ra, một ngân hàng có nguồn vốn
trung và dài hạn dồi dào cũng dễ dàng hơn trong việc tạo lập uy tín đối với
khách hàng, nhờ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn.
♦ Hiệu quả của công tác thẩm định của ngân hàng
Một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng là vốn và lãi phải
được trả đúng hạn. Điều này khó có thể có được nếu dự án được thực hiện
không hiệu quả như mong muốn, hoặc doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng.
Để hạn chế nguy cơ đó ngân hàng cần thực hiện tốt công tác thẩm định dự án,
thẩm định khách hàng. Nếu thẩm định sai, đánh giá sai năng lực pháp lý, tài
chính và hiệu quả của dự án sẽ dẫn đến gia tăng các khoản nợ xấu, nợ quá hạn.
Chi phí trong hoạt động thu nợ, thanh lý tài sản của ngân hàng tăng, gây tổn thất
cho ngân hàng, giảm lợi nhuận. Thậm chí, ngân hàng không thể thu được nợ,
mất vốn ngân hàng. Cũng có thể những dự án có hiệu quả nhưng không được
cấp tín dụng, ngân hàng sẽ mất đi một khoản lợi nhuận. Thực hiện tốt công tác
thẩm đinh giúp ngân hàng loại bỏ những dự án không khả thi, giảm rủi ro cho
ngân hàng đồng thời tiết kiệm chi phí cho nền kinh tế, nâng cao chất lượng tín
dụng trung và dài hạn.
♦ Chính sách tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng, trong đó hoạt
động tín dụng trung và dài hạn đóng vai trò rất quan trọng. Hoạt động này phải

được thực hiện theo một chính sách rõ ràng và cụ thể. Chính sách này phản ánh
cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín
dụng, tạo sự thống nhất chung cán bộ tín dụng và các chuyên viên ngân hàng,
21
tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung
cho hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Chính sách tín dụng thường bao gồm các nội dung như: chính sách khách hàng,
quy mô và giới hạn tín dụng, lãi suất và phí suất tín dụng, thời hạn và kỳ hạn
nợ, chính sách về đảm bảo tiền vay, chính sách đối với các khoản vay có vấn đề.
Một chính sách tín dụng đúng đắn và linh hoạt phù hợp với từng thời kỳ sẽ góp
phần nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói
riêng.
♦ Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng luôn là yếu tổ cơ bản và cần thiết. Trong hoạt động tín
dụng ngân hàng, để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng trước tiên phải có
thông tin về khách hàng đó, về dự án đó, để làm tốt công tác giám sát khi cho
vay cũng cần có thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời càng thuận lợi cho
ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay
và tiến độ trả nợ. Thông tin chính sác, kịp thời, đầy đủ còn giúp cho ngân hàng
xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chinh sách tín dụng một cách
linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều đó góp phần nâng
cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng
♦ Công tác tổ chức ngân hàng
Việc tổ chức các hoạt động của ngân hàng theo quy trình khoa học, hợp
lý có sự phối hợp giữa các thành viên sẽ làm giảm chi phí của ngân hàng, đáp
ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Hoạt động ngân hàng sẽ thống nhất và
đồng bộ. Đây là cơ sở nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
♦ Công nghệ ngân hàng
Đây cũng là một nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng trung và dài
hạn của ngân hàng, nhất là trong thời đại khoa học – kỹ thuật phát triển như vũ

bão hiện nay. Một ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, được trang bị các
phương tiện kỹ thuật cao sẽ đem lại điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn
22
thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là
điều kiện tiền đề để ngân hàng thu hút them khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự
hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông
tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín
dụng cũng có hiệu quả hơn.
♦ Chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự của ngân hàng
Cho dù khoa học kỹ thuật hiện đại đã mở ra cơ hội tự động hóa nhiều lĩnh
vực song nhân tố con người luôn giữ vai trò quyết định. Đặc biệt trong hoạt
động tín dụng ngân hàng là hoạt động rất phức tạp, có liên quan đến nhiều vấn
đề của đời sống xã hội thì vai trò của con người càng quan trọng. Các phương
tiện kỹ thuật hiện đại chỉ có thể trợ giúp chứ không thể thay thế được “sự nhạy
cảm” hay “kinh nghiệm” của cán bộ tín dụng. Do vậy, vấn đề nhân sự là một
vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mỗi ngân hàng. Chất lượng nhân sự ở đây
không chỉ đề cập đến trình độ chuyên môn mà còn cả lương tâm, đạo đức, tác
phong, kỷ luật lao động của người cán bộ ngân hàng. Bên cạnh chất lượng nhân
sự thì công tác quản lý nhân sự cũng là nhân tố quan trọng tác động đến chất
lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. Mỗi cán bộ tín dụng đều có điểm
mạnh va yếu riêng, điều quan trọng là phải biết bố trí sắp xếp công việc sao cho
phát huy hết thế mạnh và hạn chế những điểm yếu của từng người, đồng thời có
chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, tạo ra sự phối hợp
thống nhất cũng hướng tới một mục tiêu chung là nâng cao chất lượng tín dụng
ngân hàng.
1.4.2. Nhân tố khách quan
1.4.2.1. Nhân tố thuộc về khách hàng
Khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn của ngân hàng và tiến hàng
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc ngân hàng có thu hồi được gốc và lãi
hay không phụ thuộc vào quá trình sử dụng vốn ngân hàng của khách hàng. Khả

23
năng của khách hàng trong việc đáp ứng các điều kiện tiêu chuẩn tín dụng trung
và dài hạn là mối quan tâm lớn của ngân hàng. Khả năng này được thể hiện:
♦ Năng lực thị trường của khách hàng: năng lực này thể hiện ở khối
lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp trong nền kinh tế, vị trí trên thị
trường trong nước hay quốc tế, vị trí và tương lai phát triển của ngành kinh tế
mà doanh nghiệp đang hoạt động...Năng lực thị trường cho biết khả năng thích
ứng của doanh nghiệp với thị trường, thể hiện ở mức độ chấp nhận của thị
trường đối với các sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có năng lực thị
trường cao thì rủi ro đối với ngân hàng càng thấp.
♦ Năng lực sản xuất của khách hàng: nghiên cứu năng lực sản xuất của
doanh nghiệp cho biết quy mô sản xuất của doanh nghiệp, sự đáp ứng quy mô
ấy với thị trường, cơ cấu và việc làm chủ giá thành sản phẩm. Biểu hiện cụ thể
và rõ nhất của năng lực sản xuất là doanh nghiệp phải sản xuất ổn định và có lãi.
♦ Năng lực tài chính của khách hàng: Năng lực tài chính của khách
hàng (doanh nghiệp) thể hiện ở khối lượng và tỷ trọng vốn tự có trong tổng
nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng. Điều kiện tín dụng thường quy định một tỷ lệ
cụ thể, tối thiểu của vốn tự có trong tổng nguồn vốn hoạt động hay tỷ lệ vốn đầu
tư tự có tương ứng với khối lượng vốn vay, tỷ lệ vốn tự có tham gia dự án vay
vốn. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng điều kiện
tín dụng của ngân hàng càng lớn.
♦ Năng lực quản lý của doanh nghiệp: Sự thành bại của doanh nghiệp
phụ thuộc rất lớn vào năng lực quản lý của doanh nghiệp. Năng lực quản lý của
doanh nghiệp tốt làm cho đồng vốn đầu tư của ngân hàng ít rủi ro hơn.
♦ Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp bảo đảm:
Doanh nghiệp có tài sản đảm bảo càng giá trị, dễ phát mại thì ngân hàng càng
mong muốn mở rộng tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng.
24
♦ Tính khả thi của dự án: Nếu doanh nghiệp có thể thuyết trình và
chứng minh được dự án xin được vay vốn là có tính khả thi thì ngân hàng sẽ có

cơ sở mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.
1.4.2.2. Các nhân tố khách quan khác
Để nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương
mại trong nền kinh tế thị trường ngoài những nhân tố chủ quan từ phía ngân
hàng, nhân tố khách quan từ phía khách hàng thì các nhân tố khách quan khác
cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng
thương mại. Đó là:
♦ Môi trường kinh tế: Nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động tín dụng ngân hàng. Nếu nền kinh tế rơi vào suy thoái, sản xuất đình
trệ, nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất thấp bởi khả năng trả nợ của doanh
nghiệp là thấp. Ngoài ra, những biến động về lãi suất, tỷ giá trên thị trường cũng
ảnh hưởng trực tiếp tới lãi suất ngân hàng, dẫn đến ảnh hưởng tới mức lãi suất
ròng của khoản tín dụng. Và rất nhiều những biến động kinh tế khác đều ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng.
♦ Môi trường chính trị - xã hội: Sự ổn đinh của môi trường chính trị xã
hội là một căn cứ quan trọng để ra quyết định đầu tư. Môi trường chính trị xã
hội ổn định thì các nhà đầu tư sẽ yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do
đó nhu cầu vốn tín dụng trung và dài hạn sẽ tăng lên. Ngược lai, môi trường bất
ổn thì họ tìm cách thu hẹp sản xuất để bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro, khi đó nhu
cầu vốn tín dụng ngân hàng cũng giảm sút theo.
♦ Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống các văn
bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp. Các văn bản pháp lý có
vai trò hướng dẫn hoạt động tín dụng của ngân hàng tạo ra sự cạnh tranh lành
mạnh giữa các ngân hàng, giúp ngân hàng xử lý các tranh chấp trong hoạt động
tín dụng. Mặt khác, môi trường pháp lý có ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất,
hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, nên nó tác động gián tiếp tới nhu cầu vốn
25

×