Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nam Định - Sự hình thành cộng đồng và phát triển dân số ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.2 KB, 6 trang )

Nam Định - Sự hình thành cộng
đồng và phát triển dân số


Quá trình phát triển dân số Nam Định

Các kết quả nghiên cứu khoa học từ đầu thế kỷ XX đến nay đã đi
đến những kết luận rằng, Nam Định là một địa bàn từ rất sớm
đã có con người cư trú, gắn liền với quá trình chinh phục, khai
phá của cư dân người Việt ở châu thổ sông Hồng

Ngoại trừ vùng duyên hải như Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Giao Thủy
(huyện Giao Thủy hiện nay, khác với địa giới huyện Giao Thủy có từ
thời Lê được ghi chép trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi) được coi là
vùng đất trẻ mới được bồi tụ và khai phá sau này, vùng đất phía Bắc
tỉnh Nam Định là vùng đất cổ gắn liền với quá trình định cư của cư
dân người Việt từ hàng ngàn năm trước, cùng góp phần tạo nên nền
văn minh sông Hồng. Các nghiên cứu về thời tiền sử và sơ sử cho
biết, ngay từ thời văn hóa Phùng Nguyên, ở một số nơi trên đất Nam
Định đã có con người sinh sống.Tài liệu ghi chép về số dân của Nam
Định qua các thời kỳ lịch sử là vô cùng hiếm hoi, tuy thế, những
nghiên cứu về quá trình hình thành công đồng dân cư ở đồng bằng
Bắc Bộ nói chung và Nam Định nói riêng cho thấy số cư dân ở Nam
Định trước đây không lớn và biến động liên tục.

Theo thống kê của Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam thực
lục vào đầu thời Minh Mệnh (1820), tỉnh Nam Định có 58.003 người
và đến cuối đời Tự Đức có 70.898 người. Tuy nhiên, tỉnh Nam Định
thế kỷ XIX còn bao gồm phần lớn tỉnh Thái Bình, tương ứng với trấn
Sơn Nam Hạ trước đó, vì thế việc xác định rạch ròi về số lượng dân
cư gặp không ít khó khăn. Theo Sĩ hoạn tu tri lục, vào đầu Minh


Mệnh, toàn bộ nhân đinh của 11 trấn Bắc Thành là 186.229 người,
trong đó năm nội trấn Bắc Thành là 186.229 người, trong đó năm
nội trấn, tương đương khu vực đồng bằng Bắc Bộ chiếm tới 84,69%
dân số của cả 11 trấn với 157.616 nhân đinh, trong đó riêng trấn
Nam Định là 34.239 người.

Rõ ràng, sự sai lệch qua các số liệu về cư dân là một hạn chế trong
việc nhận diện về quá trình phát triển dân số Nam Định .Kết quả
cuộc điều tra dân số dưới thời thuộc Pháp năm 1931 theo tài liệu
của P.Gourou trong tác phẩm Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ cho
biết dân số đồng bằng Bắc Bộ khoảng 6,5 triệu người và mật độ
trung bình là 430 người/km2, sai số ít nhất là từ 10-15%. Theo tài
liệu thống kê và các tài liệu khảo sát thực địa của Gourou, Nam Định
là một trong các tỉnh có mật độ dân cư đông nhất ở đồng bằng Bắc
Bộ, trong đó nơi tập trung nhất là hai bên bờ thượng lưu sông Đại
Giang. Vào thời điểm này, toàn bộ Bắc kỳ có 580 làng có trên 5.000
dân, thì 413 làng là ở Nam Định và Thái Bình.

Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 1999, Nam
Định có 1.888.409 người là một trong sáu tỉnh có dân số đông nhất
trong cả nước, chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Nội, Hà Tây.Do mật độ dân cư đông mà diện tích đất canh tác ít
đã tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương.
Vì vậy mặc dù người dân đã cố gắng tận dụng thâm canh đất đai,
nhưng đời sống nông dân nói riêng và nhân dân nói chung vẫn thấp
vì sản lượng lương thực quy thóc/ đầu người dân mới đạt từ
342kg/người (năm 1991) lên 460kg/người (năm 1996) và 506kg/
người (1998). Chính sức ép đó đã khiến Nam Định nói riêng và các
tỉnh đồng bằng Bắc Bộ nói chung phải cố gắng giảm tốc độ gia tăng
dân số và tìm cách đưa dân đi khai thác vùng kinh tế mới, song song

với việc thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất cây trồng để cân đối
lương thực.Chính vì vậy, cư dân Nam Định hiện nay, phần lớn là cư
dân nông thôn nông nghiệp (87,6%) tạo ra một lượng sản phẩm
kinh tế chiếm trên 40% GDP toàn tỉnh.Tổng hợp chung, chỉ số phát
triển của dư dân Nam Định là 0,71, chỉ sau các tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu (do việc thu nhập khai thác từ dầu mỏ được tính vào GDP), Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Đà Nẵng, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng
Nai, Thái Bình, Hải Dương.

Sự hình thành cộng đồng cư dân

Nằm trong bối cảnh chung của đồng bằng sông Hồng, từ hàng
ngàn năm trước, trên vùng đất Nam Định đã có con người cư
trú

Nằm trong bối cảnh chung của đồng bằng sông Hồng, từ hàng ngàn
năm trước, trên vùng đất Nam Định đã có con người cư trú. Một số
nơi trên đất Nam Định, đặc biệt là ở vùng thềm phù sa cổ đã phát
hiện những di tích khẳng định sự có mặt từ rất sớm của con người
trên mảnh đất này từ thời Phùng Nguyên cho đến Đông Sơn. Cư dân
thời bấy giờ chưa hẳn là người Kinh như hiện nay mà có nhiều bằng
chứng khảo cổ học ngôn ngữ, kiến trúc, nghệ thuật đã chứng minh
rằng, cư dân Nam Định nói riêng và cư dân đồng bằng sông Hồng nói
chung thời bấy giờ có gốc Môn – Khowme, Tày – Thái, Nam Đảo.Cư
dân thời bấy giờ từng bước tiếp xúc với biển và lấn dần ra biển.
Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, đất đai ven biển tiếp tục được mở
rộng.

Vào khoảng thế kỷ X, cư dân đã tới vùng đất cửa sông Thái Bình
thuộc Hải Phòng ngày nay, còn về phía cửa sông Hồng thì đã tới cửa

sông Ninh Cơ. Chính quá trình hình thành đó đã tạo nên những vùng
đất đai thuận lợi cho con người cư trú và sản xuất nông nghiệp. Với
ưu thế đó, trên vùng đất Nam Định đã cuốn hút cư dân nhiều nơi ở
vùng Bắc bộ và vùng Thanh – Nghệ đến khai phá đất đai và lập làng,
ấp. Trên vùng đất Nam Định có các luồng cư dân từ vùng châu thổ
trung tâm xuống, từ vùng Bắc Trung Bộ đi ra và luồng cư dân từ nơi
khác đến theo đường biển vào trong nhiều thời điểm khác
nhau.Trong nhiều thời điểm khác nhau, các lớp cư dân từ nhiều địa
phương khác nhau tiếp tục chuyển cư tới Nam Định. Sự tụ cư của
cộng đồng cư dân Nam Định khá đa dạng có liên quan chặt chẽ với
quá trình chinh phục đồng bằng duyên hải và sự hình thành làng xã
ở khu vực này.

Vào thời Lê, nhà nước đã cho đắp đê từ Nghĩa Hưng chạy dọc theo
ven bờ biển đến Nga Sơn, Thanh Hóa – nơi tiếp giáp với Ninh Bình.
Và do vậy các làng xã ngoài đê đương nhiên là có niên đại hình thành
muộn hơn. Theo tài liệu khảo sát ở làng Hoành Nha (Giao Thủy), vào
khoảng thế kỷ XV, một số người từ làng Hòe Nha ngoại thành Nam
Định ngày nay đã đến đây khai khẩn đất hoang lập ấp Hòe Nha. Tiếp
theo ấp Hòe Nha từng bước được bổ sung thêm các dòng họ khác từ
nhiều địa phương như Thanh Hóa, Thái Bình và có những dòng họ có
nguồn gốc khá xa như dòng họ Tiêu vốn từ Phúc Kiến, Trung Quốc
sang từ thế kỷ XVIII.Cho tới đầu thế kỷ XV, địa bàn tỉnh Nam Định
thuộc Sơn Nam, theo dư địa chí của Nguyễn Trãi, đây là trấn thứ ba
trong bốn kinh trấn và là phên dậu phía nam, có 9 lộ, 36 thuộc
huyện, 2059 làng xã. Nếu tính theo địa giới hành chính bao gồm: Phủ
Nghĩa Hưng có 4 huyện, 245 xã. Phủ Thiên Trường có 4 huyện, 317
xã.Mặc dù có một số khác biệt nhưng các tài liệu trên đây cũng cho
thấy diện mạo các làng xã đã được hình thành và ổn định trên địa dư
tỉnh Nam Định hiện nay vào đầu thế kỷ XIX. Năm 1926, theo Địa dư

các tỉnh Bắc Kỳ của Ngô Vi Liên, toàn tỉnh Nam Định gồm 2 phủ, 7
huyện, 78 tổng, 708 xã.

×