Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bất cập và giải pháp phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước - 4 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.69 KB, 10 trang )

địa phương mới đảm bảo được hầu hết các nhiệm vụ chi về giáo dục, y tế, văn
hoá, xã hội…Do đó, các khoản thu của ngân sách địa phương nhìn chung được
tập trung thu đúng, thu đủ, kịp thời, giảm bớt sự phân tán nguồn thu nên số thu
ngày càng ổn định và nguồn thu ngày càng được mở rộng.
Luật NSNN một mặt đề cao vai trò của ngân sách trung ương, mặt khác để
đảm bảo khả năng cân đối của ngân sách các cấp địa phương, luật đã thu hẹp dần
các khoản thu của ngân sách trung ương được hưởng 100%. Quá trình thu hẹp
này còn diễn ra khi Quốc hội sửa đổi luật ngân sách(20/5/1998), một mặt thay
đổi thuế doanh thu bằng thuế GTGT, thuế lợi tức bằng thuế thu nhập doanh
nghiệp; mặt khác điều chỉnh nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách,
trong đó hai khoản thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế tài nguyên (trừ
dầu khí) được đẻe lại 100% cho ngân sách địa phương (theo luật cũ là phân chia
giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương). đồng thời, tăng thêm các
khoản thu cho NSĐP, đặc biệt là cấp huyện và đô thị về thuế tiêu thụ đặc biệt
(trước đây trung ương thu 100%), thu đối với hàng sản xuất trong nước thu vào
các mặt hàng bài lá, vàng mã, kinh doanh vũ trường…đã tạo điều kiện làm
phong phú nguồn thu của NSĐP.
Quy mô thu NSNN
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Nsđp 38.8. 36 43.1 39.4 28.3 29.5 33 33.3 33.5 33.2
Nstư 61.2 64 56.9 60.6 71.7 70.5 67 66.7 66.5 66.8
Bên cạnh những tỉnh đạt yêu cầu thu còn có nhiều tỉnh, thành phố thụ động
trong khai thác các nguồn thu của mình, để tồn đọng thu trong nhiều năm. kết
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
quả kiểm tra năm 1996 qua 10 tỉnh, thành phố cho thấy cả 10 tỉnh, thành phố chi
mới thực hiện được 97.3% kế hoach thu Chính phủ giao, mà khả năng thực tế có
thể thu hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra, nhiều nguồn thu chưa được khai
thác hết. Năm 1995 (trước khi có luật) có 1/3 số tỉnh, thành tự cân đối được ngân
sách, còn lại không tự cân đối được, nhưng đến năm 1997 đã có 50% số tỉnh tự
cân đối được.
Trước thực trạng phân cấp, quản lý ngân sách đó, tình hình thu, chi NSNN đã


đạt được nhiều kết quả:
Về thu NSNN không những đảm bảo đủ nguồn thu cho chi tiêu thường
xuyên của nhà nước mà còn giành ra một phần tích luỹ cho đầu tư phát triển,
tăng cường dự trữ, củng cố tiềm lực tài chính. Bình quân 10 năm (1991-2000), tỷ
suất thu NSNN so với GDP đạt 20.2%, tăng khá so với mức 13.4% giai đoạn
1986-1990. Những năm cuối thế kỷ, quy mô của NSNN tăng gấp khoảng 2.6 đến
2.9 lần so với năm 1991. Xét về số tuyệt đối, tính theo giá hiện hành, thu NSNN
năm 2000 tăng gấp 7.7 lần năm 1999. Nếu loại trừ yếu tố lạm phát, quy mô tuyệt
đôi thu NSNN vẫn còn tăng gấp 2.6 lần năm 1991. Trong đó, số thu từ thuế, phí
và lệ phí ngày càng lớn và chiếm tỷ trọng quyết định trong tổng thu NSNN, bình
quân đạt khoảng 95% đến 98% tổng thu. Thành tựu này không chỉ do luật NSNN
đem lại mà còn đánh dấu sự tiến bộ của ngành thuế, đồng thời khẳng định chiều
hướng phát triển đúng đắn của công cuộc chuyển đổi kinh tế, cải cách thuế.
Trong các năm 1991, 1992, tốc độ thu NSNN năm sau luôn cao hơn năm
trước. Cao nhất là năm 1992, thu NSNN bằng 198% năm 1991. Số thực thu
NSNN trong những năm này phản ánh rõ rệt hiện tượng tăng trưởng nhanh của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nền kinh tế. Từ năm 1993, tốc độ tăng thu năm sau so với năm trước tuy vẫn tăng
nhưng mức tăng lại giảm dần và chậm lại, giảm từ 98.1% năm 1992 so vơi năm
1991 xuống 3.1% năm 1998 so với 1997, sau đó lại được nhích lên và điều này
được lý giải do có luật NSNN mà các khpản thu được tập hợp kịp thời vào
NSNN.
Về chi NSNN: chi NSNN diễn biến thất thường trong những năm đầu thập
niên 1990. Năm 1990, tổng chi NSNN đạt 20% GDP, năm 1991 giảm xuống còn
15%, sau đó lại đột ngột tăng lên tới gần 30% GDP vào năm 1993. Đây là hậu
quả của cơ chế tập trung nhưng phân tán. Trước khi có luật NSNN, ngân sách
của mỗi cấp chính quyền gồm hai phần: của chính bản thân cấp chính quyền đó
và của cấp dưới. Cách quản lý như vậy về hình thức thì tập trung nhưng trên thực
tế lại rất phân tán. Trung ương chỉ giao nhiệm vụ thu mà không giao nhiệm vụ
chi cho các địa phương. Hệ thống định mức tiêu chuẩn do trung ương ban hành

bị vi phạm dẫn đến tuỳ tiện trong quản lý ngân sách, gây thất thoát và lãng phí
nguồn lực. Từ năm 1994, đặc biệt là sau năm 1995, tổng chi NSNN so với GDP
liên tục giảm. Trong 5 năm, tỷ trọng chi NSNN đã giảm từ 29.4% GDP năm
1993 xuống 22.7% năm 1998. Các năm 1999, 2000, dù đã áp dụng các biện pháp
kích cầu nhưng chi so với GDP chỉ đạt 22.5%. Tuy nhiên, nếu xét cả thời kỳ 10
năm, tính theo giá hiện hành, quy mô tuyệt đối chi NSNN năm 2000 tăng gấp 8.5
lần so với năm 1991. Nếu loại trừ yếu tố lạm phát, quy mô tuyệt đối chi NSNN
năm 2000 vẫn tăng 2.9 lần năm 1991.
Thực tiễn cuộc sống đa dạng và phong phú hơn nhiều so với các quy định của
luật pháp, luật NSNN cũng không phải là ngoại lệ. Trong quá trình thực thi luật,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
bên cạnh những thành tựu đạt được là những hạn chế, bất cập phát sinh, đặc biệt
là khi luật đang ở giai đoạn còn phải tiếp tục xem xét và hoàn thiện, những bất
cập cần phải được phát hiện và giải quyết kịp thời.
II. Đánh giá thực trạng phân cấp và quản lý NSNN ở Việt nam:
1. Bất cập giữa văn bản và thực tế áp dụng.
Đây là những bất cập trong quá trình triển khai, vân hành luật NSNN. Những
nét chung là:
Do nền kinh tế có những biến động nên giữa văn bản và thực tế thường không
khớp nhau, lệch pha dẫn đến sự lạc hậu, hiệu lực điều chỉnh thấp của nhiều văn
bản khi đưa vào cuộc sống. Hơn nữa, nhiều văn bản, ngoài bỏ sót đối tượng điều
chỉnh, chưa dự kiến hết các tác động điều chỉnh trong nền kinh tế, các quan hệ
kinh tế quốc tế còn quy định quá chung chung nên thực tế việc chấp hành luật là
áp dụng các văn bản dưới luật. Các văn bản này lại quá nhiều nên sự chồng chéo,
trùng lắp, thậm chí là vô hiệu hoá quy định lẫn nhau là khó tránh khỏi. Một
nguyên nhân khác là do năng lực của bản thân hệ thống. Dù chất lượng cán bộ
làm công tác tài chính, kế toán, thuế, kho bạc nhà nước,…đã không ngừng được
nâng cao, bộ máy tổ chức đang từng bước tinh gọn để phát huy tốt hiệu quả. Tuy
vậy với yêu cầu quản lý NSNN trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ tài chính
ở cơ sở, nhất là từ xã, phường đến quận, huyện, thành phố vẫn còn phải hoàn

thiện.
Các văn bản hướng dẫn luật nói chung là luôn thiếu sự thống nhất nên dễ dẫn
đến sự hiểu sai, hiểu nhầm, khó đưa luật vào cuộc sống, nhiều quy định chưa sát
với thực tế, chưa chỉ rõ những quy định cũ cần bác bỏ. Ngoài ra, khi có luật, có
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nhiều điều mới song văn bản của cấp dưới, sự giải thích của cấp co thẩm quyền,
các thủ tục hành chính lại gò bó trở lại.
Trên đây là những nét chung thường gặp phải nảy sinh giữa luật và thực tế
khi áp dụng, đối với luật NSNN quy định về hệ thống và phân cấp quản ly
NSNN có những nét riêng.
Chế định luật về hệ thống NSNN
Quyết định hệ thống NSNN gồm bốn cấp: trung ương- tỉnh- huyện- ã là phù
hợp vời Hiến pháp 1992 và luật tổ chức HĐND và UBND các cấp (1994), đồng
thời, nó gắn với nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền.
Tuy nhiên, hệ thống trên là lồng ghép, thể hiện ở tính bao hàm của ngân sách
cấp trên đối với ngân sách cấp dưới, cấp dưới lại bao hàm cấp dưới nữa. Nó thể
hiện rõ trong quy trìng lập, duyệt, tổng hợp dự toán và phân bổ ngân sách, cấp
trên vẫn can thiệp vào công việc của cấp dưới, trung ương can thiệp vào công
việc của địa phương; phân bổ ngân sách cấp dưới phải phù hợp với ngân sách
cấp trên theo từng lĩnh vực và khi tập hợp chung thì phải tổng mức đã được
Quốc hội thông qua, không được bố trí tăng giảm các khoản chi trái với định
mức được giao, do vậy đã không khuyến khích các địa phương ban hành chính
sách, chế độ, biện phàp nhằm thực hiện tố dự toán NSNN. Mặt khác, các định
mức, tiêu chuẩn do trung ương giao nhiều khi không sát với thực tế điạ phương.
Điều này vừa hạn chế tính chủ động, sáng tạo của ngân sách cấp dưới vừa là
nguyên nhân dẫn đến sự thoả hiệp, thương lượng trong quá trình lập dự toán và
quá trình quản lý NSNN. Hiện nay, cả nước có 10387 ngân sách xã, phường, thị
trấn; 604 ngân sách huyện quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, 61 ngân sách tỉnh,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thành phố trực thuộc trung ương. Do có tính chất như trên nên trên thực tế, quá

trình lập tổng hợp dự tóan NSNN rất khó đảm bảo đúng trình tự và thời gian do
phải trải qua nhiều đầu mối và làm nhiều thủ tục phức tạp.
Mặc dù đã được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp rõ ràng
nhưng hiện nay do khả năng quản lý của một số cấp nhích quyền địa phương
chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao nên mức độ tự chủ ngân sách còn hạn
chế.
Chế định luật về phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.
Với cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa NSTƯ với ngân sách tỉnh,
tỉnh với các cấp NSĐP khác đã có những thay đổi căn bản so với khi chưa có
luật. Khuynh hướng chung là tăng tính chủ động nguồn thu, nhiệm vụ chi cho
các cấp ngân sách cơ sở.
Về tiêu thức phân định nguồn thu.
Cách phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách như hiện nay chủ yếu dựa
theo tiêu thức tính chất, mức độ của các khoản thu chứ chưa thật chú ý đến đặc
điểm của đối tượng quản lý thu. Tuy có đơn giản hơn, song nếu chỉ phân chia
theo sắc thuế sẽ dẫn đến tình trạng một số khoản thu nhỏ, phân tán, khó quản lý,
gắn với cấp thấp lại được phân về cho cấp cao. Điều này thường làm hạn chế nỗ
lực của cơ quan thuế cũng như của chính quyến cơ sở trong việc khai thác đầy đủ
nguồn thu đó, vì tâm lý của cơ quan thuế ngại va chạm và coi thường các nguồn
thu nhỏ, lẻ, còn chính quyền cơ sở thì lại có thái độ thờ ơ đối với những khoản
hoặc không phải của mình hoặc chỉ được một phần nhỏ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Chẳng hạn, trong nội dung phân cấp nguồn thugiữa các cấp ngân sách, mỗi
cấp ngân sách đếu có những nguồn thu được hưởng 100%, mặc dù theo nguyên
tắc NSTƯ nắm giữ các nguồn thu quan trọng nhưng một số nguồn thu nế giao
cho ngân sách cơ sở (huyện, xã) thì hiệu quả thu sẽ cao hơn, hạn chế được tình
trạng thất thu trong thực tế. Ví dụ:
Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt, trừ những khoản giành lại cho ngân sách đại
phương (các dịch vụ tiêu thụ đặc biệt mặt hàng bài lá, vàng mã, hàng mã) thì còn
những khoản phát sinh từ những cơ sở sản xuất kinh doanh thủ công, phân tán ở

các xã, phường vốn là những khoản mà trung ương được hưởng 100% (thuế tiêu
thụ đặc biệt thu từ sản xuất thuốc lá, rượu, bia…). Do đó, sự thất thu từ những
khoản này là điều dễ hiểu.
Thuế GTGT (không kể thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu) và thuế thu nhập
doanh nghiệp (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp của những doanh nghiệp hạch
toán toàn ngành) là khoản thu được phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa trung
ương và cấp tỉnh. Theo luật thì trung ương và tỉnh hưởng mỗi bên một phần từ
những khoản thu này. Đối với tỉnh và trung ương thì đâp là khoản chiếm tỷ trọng
nhỏ ngưng đối với ngân sách huyện, xã thì đây lại là nguồn thu quan trọng. Song,
tính chất quan trọng của nó lại phụ thuộc vào tỷ lệ điều tiết phân chia mà cấp
trên quy định cho họ được hưởng. Nếu tỷ lệ này càng xa 100% bao nhiêu thì nỗ
lực tìm cách tăng thu của họ càng giảm đi bấy nhiêu.
Việc ổn định nguồn thu lâu dài cho địa phương.
Việc ổn định nguồn thu lâu dài cho địa phương là bước tiến rất quan trọng
trong luật NSNN, được pháp lý hoá ở mức cao nên tạo điều kiện cho địa phương
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chủ động xây dựng, bố trí và điều hành nhân sách cấp mình. Tuy nhiên, cơ cấu
nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSĐP không chỉ phụ thuộc vào sự tăng trưởng
kinh tế mà còn bị tác động rất nhiều của các yếu tố ngoại lai nên việc ổn định
này đôi khi gây bị động cho cả trung ương và địa phương.
Qua nghiên cứu lịch sử chế độ phân cấp trước đây thấy rằng: chế độ phân cấp
quản lý NSNN đều ra đời trong điều kiện kinh tế tương đối ổn định (mặc dù là sự
ổn định trong bao cấp) và phù hợp với những mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong
mỗi thời kỳ. Chẳng hạn, với chủ trương xây dựng huyện thành “pháo đài Xã hội
chủ nghĩa” dựa trên cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá toàn diện và trực tiếp đã
là một trong những nguyên nhân ra đời Nghị quyết 108/CP (năm 1976) về phân
cấp ngân sách cho địa phương mà nét nổi bật là phải tạo cho huyện trở thành
một cấp ngân sách độc lập. Thế nhưng, kế hoạch 5 năm (1976-1980) không đạt
được mục tiêu, tốc độ phát triển kinh tế chậm lại và đến cuối kỳ kế hoạch, đất
nước bắt đầu lâm vào khủng hoảng. Trong bối cảnh đó, quan hệ NSTƯ và NSĐP

lại thêm căng thẳng mà nhiều nhà quản lý và khoa học đánh giá nổi bật là hiện
tượng “phá rào” của nhiều địa phương.
Tiếp theo thời kỳ suy thoái, bước vào thập kỷ 80, nền kinh tế nước ta có dấu
hiệu đi lên, có những điểm sáng nhất định do thực hiện cơ chế khoán trong nông
nghiệp (nghị quyết 10 và chỉ thị 100), nghị quyết 125/CP về kế hoạch ba phần
trong công nghiệp đã tác động vào cơ chế phân cấp quản lý NSNN. Yêu cầu về
ổn định nguồn thu cho NSĐP lại nổi lên và nghị quyết 138/CP (năm 1983) ra
đời. Theo đó tỷ lệ điều tiết được giữ ổn định từ 3 đến 5 năm. Đến năm 1985,
cuộc tổng điều chỉnh giá- lương- tiền đã làm đảo lộn toàn bộ cơ cấu thu chi
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
NSNN. Việc vận hành cơ chế giá không thống nhất giữa các địa phương dẫn tới
tình trạng giành giật nguồn thu qua chênh lệch giá của NSNN. Khi nguồn chênh
lệch giá giảm dần thì các địa phương đề nghị sửa lại tỷ lệ điều tiết, sửa không chỉ
một lần một năm mà thậm chí hai, ba lần một năm.
Như vậy, trong lịch sử phân cấp quản lý NSNN đã có ổn định nguồn thu và
nhiệm vụ chi và tỷ lệ điều tiết từ 3 đến 5 năm cho chính quyền địa phương. Thế
nhưng, việc thực hiện đã không mang lại kết quả như mong muốn, một phần do
nên kinh tế còn đang trong giai đoạn khủng hoảng, một phần chưa có cơ sở pháp
lý tối cao để đảm bảo chắc chắn việc ổn định nên khi thực hiện chỉ mang tính
hình thức, nửa vời. Thêm vào đó, mục đích của ổn định nguồn thu là để đảm bảo
NSĐP chủ động xây dựng, bố trí và điều hành ngân sách cấp mình, tuy nhiên
trên thực tế, luật vẫn chưa tạo được thế chủ động thực sự cho các cấp ngân sách
ở địa phương, đáng chú ý nhất là cơ sở để tính toán, phân bổ để giao nhiệm vụ
thu chi cho các ngành, cấp chưa đầy đủ và chính xác. Vì vậy, việc phân cấp
nhiệm vụ thu chi cho các cấp, ngành, tỉnh còn chưa thực hiện ổn định được tối
thiểu 3 năm theo quy định của luật NSNN.
Về vấn đề tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa các cấp ngân sách.
Sẽ hết sức phức tạp nếu thực hiện đầy đủ những quy định về tỷ lệ phần trăm
phân chia cho các cấp NSĐP. Theo điều 39 của luật NSNN và điều 28 của Nghị
định 87/CP (19/12/1996) và Nghị định 51/1998/NĐ-CP (18/7/1998) thì ngân

sách các địa phương có thể có các loại tỷ lệ sau đây:
* Tỷ lệ phân chia cho ngân sách từng tỉnh về 5 khoản thu: thuế GTGT, thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chuyển thu nhập ra nước ngoài, thuế về sử dụng vốn ngân sách. Các tỷ lệ này do
Chính phủ quy định cho từng tỉnh, thành phố và là tỷ lệ thống nhất cho cả 5
khoản thu thuộc diện phân chia.
* Tỷ lệ phân chia giữa ngân sách tỉnh với ngân sách từng huyện, quận, thị xá,
thành phố thuộc tỉnh và ngân sách xã, phường, thị trấn đối với một phần của 5
khoản thu mà ngân sách càp tỉnh được phân chia; tỷ lệ này do chính quyền tỉnh
quy định.
* Tỷ lệ phân chia giữa ngân sách tỉnh với ngân sách từng huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và ngân sách xã, phường, thị trấn đối với 7 khoản thu thuộc
loại phân chia giữa ngân sách các cấp này (thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế
chuyển quyền sử dụng đất, thuế tài nguyên, thuế nhà đất, tiền sử dụng đất, lệ phí
trước bạ nhà đất, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước thu vào một số
mặt hàng); tỷ lệ này do cấp tỉnh quy định.
Rõ ràng là việc xác định tỷ lệ điều tiết phân chia cho từng địa phương hết sức
phức tạp. Để việc tính toán chính xác đòi hỏi phải có sự trung thực của từng địa
phương và cán bộ phải có năng lực, trình độ chuyên môn.
Về phân định chi và tính toán số bổ sung:
Đối với nhiệm vụ chi có tính chất không thường xuyên hoặc các khoản chi
đột xuất phát sinh thì chưa có cơ sở để xác định nhu cầu chi loại này. Đồng thời,
việc ổn định nhu cầu chi này từ 3 đến 5 năm liệu có vững chắc hay không? Nếu
không vững chắc thì khó có thể ổn định được số bổ sung từ ngân sách cấp trên.
nhu cầu chi cũng như số bổ sung từ ngân sách cấp trên được xác định cho năm
đầu tiên của thời kỳ ổn định nên việc bảo vệ được kế hoạch trong giai đoạn này
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×