Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bất cập và giải pháp phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước - 2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.75 KB, 10 trang )

+ Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở có tầm
quan trọng đặc biệt và cũng có đặc thù riêng: nguồn thu được khai thác trực tiếp
trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố tríđể phục vụ cho mục đích trực tiếp
của cộng đồng dân cư trong xã mà không thông qua một khâu trung gian nào.
Ngân sách xã là cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống NSNN, đảm bảo điều kiện
tài chính để chính quyền xã chủ động khai thác các thế mạnh về đất đai, phát
triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới, thực hiện các chính sách xã hội,
giữ gìn an ninh, trật tự trên địa bàn.
Trong hệ thống ngân sách Nhà nước ta, ngân sách trung ương chi phối phần
lớn các khoản thu và chi quan trọng, còn ngân sách địa phương chỉ được giao
nhiệm vụ đảm nhận các khoản thu và chi có tính chất địa phương. Quan hệ giữa
các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc sau:
Ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương được
phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể.Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách
cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa
các vùng, các địa phương. Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách cấp
dưới.Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản
lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vị chi thuộc chức năng của mình, thì phải
chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện
nhiệm vụ đó.Ngoài việc bổ sung nguồn thu và uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ chi,
không được dùng ngân sách cấp này để chi cho nhiệm vụ của ngân sách cấp
khác trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Chương II: phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và thực trạng phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước ở việt nam
I. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:
1. Sự cần thiết và tác dụng:
Chế độ phân cấp và quản lý ngân sách ở nước ta ra đời từ năm 1967, tới nay
đã qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất
định nhằm giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa ngân sách trung
ương và chính quyền các cấp trong quản lý NSNN.


NSNN được phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp chính quyền địa
phương là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống NSNN gồm nhiều cấp. Điều
đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế phân cấp quản lý về
hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm bảo bằng những
nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp đề xuất và bố chí chi tiêu
sẽ hiệu quả hơn là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt khác, xét về yếu tố lịch sử và
thực tế hiện nay, trong khi Đảng và Nhà nước ta đang chống tư tưởng địa
phương, cục bộ … vẫn cần có chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích chính
quyền địa phương phát huy tính độc lập, tự chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa
phương mình trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Có một số
khoản thu như: tiền cho thuê mặt đất, mặt nước đối với doanh nghiệp, tiền cho
thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước, lệ phí trước bạ, thuế môn
bài,…giao cho địa phương quản lý sẽ hiệu quả hơn.
Phân cấp quản lý NSNN là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của NSNN với
cac hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực sự nhằm tập trung đấy đủ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính quốc gia và phân phối
sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao, phục vụ các mục
tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp quản lý NSNN
đúng đắn và hợp lý không chỉ đảm bảo phương tiện tài chính cho việc duy trì và
phát triển hoạt động của các cấp chính quyền ngân sách từ trung ương đến điah
phương mà còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng
vùng, từng địa phương trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá
NSNN được tốt hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như
quan hệ giữa các cấp ngân sách được tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điều
chỉnh vĩ mô của NSNN. Đồng thời, phân cấp quản lý NSNN còn có tác động
thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế, xã hội ngày càng hoàn thiện hơn.
Tóm lại phân cấp ngân sách đúng đắn và hợp lý, tức là việc giải quyết mối
quan hệ giữa chính quyền Nhà nước trung ương và các cấp chính quyền địa
phương trong việc xử lý các vấn đề hoạt động và điều hành NSNN đúng đắn và

hợp lý sẽ là một giải pháp quan trọng trong quản lý NSNN.
2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN.
Phân cấp quản lý NSNN là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính
quyền Nhà nước về vấn đề liên quan đến việc quản lý và điều hành NSNN.
Để chế độ phân cấp quản lý mang lại kết quả tốt cần phải tuân thủ các
nguyên tắc sau đây:
Một là: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp
quản lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp quản lý
NSNN. Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết mối quan hệ vật
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chất giữa các cấp chính quyền qua việc xác định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của
các cấp. Thực chất của nguyên tắc này là giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ
và quyền lợi, quyền lợi phải tương xứng với nhiệm vụ được giao. Mặt khác,
nguyên tắc này còn đảm bảo tính độc lập tương đối trong phân cấp quản lý
NSNN ở nước ta.
Hai là: ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ
bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước. Cơ sở
của nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của Nhà nước trung ương trong
quản lý kinh tế, xã hội của cả nước mà Hiến pháp đã quy định và từ tính chất xã
hội hoá của nguồn tài chính quốc gia.
Nguyên tắc này được thể hiện:
- Mọi chính sách, chế độ quản lý NSNN được ban hành thống nhất và dựa
chủ yếu trên cơ sở quản lý ngân sách trung ương.
- Ngân sách trung ương chi phối và quản lý các khoản thu, chi lớn trong nền
kinh tế và trong xã hội. Điều đó có nghĩa là: các khoản thu chủ yếu có tỷ trọng
lớn phải được tập trung vào ngân sách trung ương, các khoản chi có tác động đến
quá trình phát triển kinh tế, xã hội của cả nước phải do ngân sách trung ương
đảm nhiệm. Ngân sách trung ương chi phối hoạt động của ngân sách địa phương,
đảm bảo tính công bằng giữa các địa phương.
Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm

(%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp
dưới được cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, chỉ xem xét điều chỉnh số bổ sung
một phần khi có trượt giá và một phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chế độ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phân cấp xác định rõ khoản nào ngân sách địa phương được thu do ngân sách địa
phương thu, khoản nào ngân sách địa phương phải chi do ngân sách địa phương
chi. Không để tồn tại tình trạng nhập nhằng dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lai
hoặc lạm thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Có như vậy
mới tạo điều kiện nâng cao tính chủ động cho các địa phương trong bố trí kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ trách
nhiệm của địa phương và trung ương trong quản lý NSNN, tránh co kéo trong
xây dựng kế hoạch như trước đây.
Bốn là: đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân sách
phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nước, cố gắng hạn chế thấp nhất
sự chênh lệch về văn hoá, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ.
3. Nội dung của phân cấp quản lý NSNN.
Dựa trên cở quán triệt những nguyên tắc trên, nội dung của phân cấp quản lý
NSNN được quy định rõ trong chương II và III của luật NSNN bao gồm:
Nội dung thứ nhất là phân cấp các vấn đề liên quan đế quản lý, điều hành
NSNN từ trung ương đến địa phương trong việc ban hành, tổ chức thực hiện và
kiểm tra, giám sát về chế độ, chính sách.
Tiếp theo là phân cấp về các vấn đề liên quan đế nhiệm vụ quản lý và điều
hành NSNN trong việc ban hành hệ thống biểu mẫu, chứng từ về trình tự và
trách nhiệm của các cấp chính quyền trong xây dựng dự toán ngân sách, quyết
toán ngân sách và tổ chức thực hiện kế hoạch NSNN.
Cụ thể:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Quốc hội quyết định tổng số thu, tổng số chi, mức bội chi và các nguồn bù
đắp bội chi; phân tổ NSNN theo từng loại thu, từng lĩnh vực chi và theo cơ cấu
giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, chi trả nợ. Quốc hội giao cho Uỷ

ban thường vụ Quốc hội quyết định phương án phân bổ ngân sách trung ương
cho từng bộ, ngành và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho từng tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương. Như vậy, Quốc hội quyết định những vấn đề then
chốt nhất về NSNN, đảm bảo cơ cấu thu, chi NSNN hợp lý và cân đối NSNN
tích cực, đồng thời giám sát việc phân bổ ngân sách trung ương và ngân sách của
các địa phương.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của Quốc hội
giao về quyết định phương án phân bổ ngân sách trung ương, giám sát việc thi
hành pháp luật về NSNN.
Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội các dự án luật, pháp
lệnh và các dự án khác về NSNN; ban hành các văn bản pháp quy về NSNN; lập
và trình Quốc hội dự toán và phân bổ NSNN, dự toán điều chỉnh NSNN trong
trường hợp cần thiết; giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng bộ, ngành;
thống nhất quản lý NSNN đảm bảo sự phối hợp chăth chẽ giữa các cơ quan quản
lý ngành và địa phương trong việc thực hiện NSNN; tổ chức kiểm tra việc thực
hiện NSNN; quy định nguyên tắc, phương pháp tính toán số bổ sung nguồn thu
từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới; quy định chế độ quản lý quỹ dự
phòng NSNN và quỹ dự trữ tài chính; kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân
dân về dự toán và quyết toán NSNN; lập và trình Quốc hội quyết toán NSNN và
quyết toán các công trình cơ bản của Nhà nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Bộ tài chính chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về NSNN
trình chính phủ; ban hành các văn bản pháp quy về NSNN theo thẩm quyền; chịu
trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng thống nhất quản lý NSNN;
hướng dẫn kiểm tra các bộ, cơ quan khác ở trung ương và địa phương xây dựng
dự toán NSNN hàng năm; đề xuất các biện pháp nhằm thực hiện chính sách tăng
thu, tiết kiệm chi NSNN; chủ trì phối hợp với các bộ, ngành trong việc xây dựng
các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN; thanh tra, kiểm tra tài chính với tất
cả các tổ chức, các đơn vị hành chính, sự nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa
vụ nộp ngân sách và xử dụng ngân sách; quản lý quỹ NSNN và các quỹ khác của

Nhà nước; lập quyết toán NSNN trình Chính phủ.
Bộ kế hoạch và đầu tư có nhiệm vụ trình Chính phủ dự án kế hoạch phát triển
kinh tế, xã hội của cả nước và cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, trong đó
có cân đối tài chính tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản làm cơ sở cho việc xây
dựng kế hoạch tài chính, ngân sách; phối hợp với bộ tài chính lập dự toán và
phương án phân bổ NSNN trong lĩnh vực phụ trách; phối hợp với bộ tài chính và
các bộ ngành hữu quan kiểm tra đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình
xây dựng cơ bản.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chímh trong việc lập
dự toán NSNN đối với kế hoạch và phương án vay để bù đắp bội chi NSNN; tạm
ứng cho NSNN để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN theo quyết định của thủ
tướng Chính phủ.
Các bộ, ngành khác có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chính, UBND cấp tỉnh
để lập, phân bổ, quyết toán NSNN theo ngành, lĩnh vực phụ trách ; kiểm tra theo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách; báo cáo tình
hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách;
phối hợp với bộ tài chính xây dung định mức tiêu chuẩn chi NSNN thuộc ngành,
lĩnh vực phụ trách.
Hội đồng nhân dân có quyền quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa
phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương,
biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương; quyết định điều chỉnh
dự toán ngân sách địa phương trong thời gian cần thiết; giám sát việc thực hiện
ngân sách đã quyết định. Riêng đối với HĐND cấp tỉnh, ngoài những nhiệm vụ,
quyền hạn nêu trên còn được quyền quyết định thu, chi lệ phí, phụ thu và các
khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Uỷ ban nhân dân lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa phương, dự
toán điều chỉnh NSĐP trong trường hợp cần thiết trình HĐND cùng cấp quyết
định và báo cáo cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Kiểm tra nghị quyết của
HĐND cấp dưới về dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách. Tổ chức thực

hiện NSĐP và báo cáo về NSNN theo quy định. Riêng đối với cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, UBND còn có nhiệm vụ lập và trình HĐND quyết
định việc thu phí, lệ phí, phụ thu, huy động vốn trong nước cho đầu tư xây dựng
cơ bản thuộc địa phương quản lý.
Như vậy, luật đã quy định tương đối rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan, chính quyền Nhà nước trong lĩnh vực NSNN. đặc biệt đối với HĐND
và UBND các cấp đã có sự đổi mới theo hướng tăng tính tự chủ, sáng tạo của
địa phương trong việc phát huy tiềm năng hiện có, bồi dưỡng và tăng thu cho
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
ngân sách cấp mình, từ đó chủ động bố trí chi tiêu hợp lý, có hiệu quả theo kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, phù hợp với quy hoạch tổng thể
và chế độ thu, chi thống nhất của Nhà nước. Điều này cơ bản cũng phù hợp với
phương hướng đổi mới chức năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND được Quốc
hội và Chính phủ đề ra trong kỳ hội nghị HĐND và UBND toàn quốc.
Về các khoản thu NSNN:
Thu NSNN là số tiền mà nhà nước huy động vào NSNN và không bị ràng
buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp. Phần lớn các khoản thu này đều mang
tính chất cưỡng bức. Với đặc điểm đó, thu NSNN khác với các nguồn thu của
các chủ thể khác (doanh nghiệp, tư nhân…) vì nó gắn với quyền lực của nhà
nước.
Theo phân loại thống kê của liên hiệp quốc, thu NSNN gồm hai loại:
- Các khoản thu từ thuế, trong đó chia ra thuế trực thu và thuế gián thu.
- Các khoản thu ngoài thuế như phí, lệ phí và các khoản thu từ hoạt động kinh
tế của Nhà nước và các khoản chuyển giao vào NSNN khác.
Tại Việt nam, trước đây, việc phân chia nội dung thu của các cấp ngân sách
dựa vào cơ sở kinh tế của chính quyền tức là những tổ chức kinh tế do trung
ương quản lý thì nguồn thu của các tổ chức này tập trung vào ngân sách trung
ương, các tỏ chức kinh tế do địa phương quản lý thì sẽ ghi thu vào ngân sách địa
phương. Điều này đã dẫn đến tình trạng xây dựng chồng chéo các cơ sở kinh tế
của trung ương và địa phương, tranh giành nguồn nguyên vật liệu, thị trường tiêu

thụ sản phẩm. Mặt khác, nó không gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền địa
phương trong việc quan tâm tới những tổ chức kinh tế do trung ương quản lý ở
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
địa phương. Do vậy, để khắc phục những nhược điểm trên, chế độ phân cấp được
điều chỉnh theo hướng thay đổi tỷ lệ ghi thu vào ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương nhưng do vẫn dựa trên cơ sở cũ nên nguồn thu vẫn không được
đảm bảo.
Hiện nay, theo luật NSNN sửa đổi, việc phân chia nội dung thu NSNN không
dựa vào tính chất sở hữu, tổ chức của cơ sở kinh tế mà theo cơ chế:
* Mỗi cấp ngân sách đều có các khoản thu được hưởng 100%. Như vậy, có
thể giúp chính quyền địa phương chủ động bố trí cân đối ngân sách cấp mình
* Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ điều tiết giữa các cấp ngân sách.
Trước đây, tỷ lệ điều tiết này được xác định bởi công thức:
X= [(Q- T): K]*100
Trong đó: X :là tỷ lệ điều tiết các khoản thu.
T :là tổng số chi theo nhiệm vụ được giao.
Q :là tổng số thu cố định.
K :là thuế doanh thu và thuế nông nghiệp.
Công thức trên bị đánh giá là thiếu cơ sở khoa học, không chính xác về mặt toán
học và kinh tế dẫn đến bất công bằng giữa nhiều địa phương, số tỉnh có tỷ lệ điều
tiết tính ra vượt quá 100% là quá lớn nên ngân sách nhiều địa phương bội thu,
trong khi đó ngân sách TƯ bội chi.
Hiện nay, luật quy đinh:
* Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách trung ương và ngân
sách từng tỉnh do Chính phủ quyết định và nó được áp dụng chung đối với tất cả
các khoản thu được phân chia và được xác định riêng cho từng tỉnh.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×