Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Cải cách kinh tế Nhật và mối quan hệ Việt - Nhật - p4 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.16 KB, 10 trang )

31


quả. Sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng thì hệ thống ngân hàng Nhật Bản
thực sự rơi vào khủng hoảng vì sự quản lý lỏng lẻo của ngân hàng trong việc cho
vay tràn lan, không giám sát, không thẩm định chặt chẽ tài sản và tình hình kinh
doanh của các công ty dẫn đén sự bùng nổ của các khoản nợ khó đòi. Tháng 3
năm 1997, BOJ cũng như Bộ Tài chính mới coi vấn đề nợ khó đòi của các ngân
hàng là vấn đề cấp thiết. Để vực dậy hệ thống ngân hàng, cuộc đại cải cách tài
chính “Big Bang” đã đưa ra những giải pháp dài hạn cơ cấu lại các NHTM. So
với các nước phát triển khác, các NHTM của Nhật Bản hiện tại khả năng sinh lời
thấp, chất lượng tín dụng chưa cao, trình độ công nghệ và mô hình tổ chức quản
lý còn chưa tốt. Vì vậy, để có khả năng cạnh tranh cao và hội nhập thì cần phải
có kế hoạch tổng thể cơ cấu lại NHTM, cụ thể là:
Lành mạnh hoá tài chính và nâng cao năng lực tài chính của các NHTM. Trước
hết, phải xử lý triệt để nợ tồn đọng, làm sạch bảng tổng kết tài sản, phấn đấu
giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 5% tổng dư nợ theo tiêu chuẩn quốc tế thông
qua việc thành lập Ban Cơ cấu tài chính các NHTM và công ty mua bán, giải
quyết nợ. Tăng vốn điều lệ cho các NHTM nhằm đảm bảo yêu cầu về tỷ lệ vốn tự
có theo tiêu chuẩn quốc tế.
Cơ cấu lại mô hình tổ chức của NHTM, tăng cường sự kiểm tra, kiểm soát để
tăng chất lượng tín dụng, dịch vụ ngân hàng, đảm bảo quyền tự chủ của ngân
hàng trong việc ra quyết định. Quản lý tín dụng theo hướng kinh doanh tín dụng
theo nguyên tắc thị trường, giảm dần sự bảo hộ của nhà nước, đảm bảo an toàn
theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng các thiết chế quản lý rủi ro, giảm thiểu rủi ro
và tăng năng lực tài chính. Đánh giá đúng thực trạngtài chính của các NHTM
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
32


đồng thời xây dựng chiến lược đào tạo và sử dụng nhân viên theo hướng đáp ứng


được yêu cầu kinh doanh, cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận. Như vậy mới có thể
làm cho các NHTM của Nhật Bản đạt trình độ của các đối tác phương Tây.
Ngoài ra, trong chương trình “Big Bang” còn đưa ra một loạt các cải cách như
mở rộng sự lựa chọn cho các nhà đầu tư và những người đi vay. Trong đó có các
biện pháp như xoá bỏ hoàn toàn lệnh cấm đối với những dẫn xuất chứng khoán,
giới thiệu tài khoản quản lý tài sản, cho phép các ngân hàng bán các tín thác đầu
tư và bảo hiểm, tăng khả năng thanh toán tiền mặt của tài sản bằng việc sử dụng
chứng khoán dựa vào tài sản, tự do hoá giao dịch vốn xuyên quốc gia và tiền gửi
từ nước ngoài về. Luật Sửa đổi về ngoại hối đã được Quốc hội thông qua và có
hiệu lực từ 1/4/1998.
Với mục đích cứu trợ cho những ngân hàng yếu kém, cung với kế hoạch rót 13
nghìn tỷ Yên, Chính phủ còn đề nghị khoản tiền trị giá 50 nghìn tỷ Yên trái phiếu
bảo đảm của Chính phủ vào tháng 2/1998, trong đó 17 nghìn tỷ Yên sẽ chuyển
cho công ty bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản để thanh toán cho những người gửi tiền
tại các ngân hàng không có khả năng thanh toán cho những người gửi tiền tại các
ngân hàng không có khả năng thanh toán. Cuối tháng 6/1998, Nhật Bản đưa ra
sáng kiến thành lập ngân hàng cầu nối để giải quyết các vụ phá sản tài chính.
Ngân hàng này sẽ kế thừa và quản lý hoạt động của các tổ chức tiền tệ phá sản,
đảm bảo quyền lợi cho người gửi, thanh toán nợ lần, thực hiện các dự án đầu tư
và cho vay đối với những khách hàng có khả năng thanh toán cao. Ngân hàng
này sẽ duy trì hoạt động của tổ chức tiền tệ đó trong 2 năm kể từ khi phá sản. Sau
2 năm nó có thể chuyển thành ngân hàng quốc doanh mới. Chính phủ dự kiến
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
33


dành 30 nghìn tỷ Yên từ ngân sách cho ngân hàng này làm vốn hoạt động, trong
đó 17 nghìn tỷ Yên để bảo vệ người gửi và 13 nghìn tỷ Yên để cho vay và đầu tư.
Ngoài ra, Chính phủ còn lập ra một quỹ trị giá 22 nghìn tỷ Yên và một cơ quan
kiểm soát tài chính nhằm tăng cường thanh tra, kiểm tra nợ khó đòi trong hệ

thống ngân hàng Nhật Bản.
Cuối tháng 9/1998 Nhật Bản đã thông qua Luật Khôi phục hệ thống ngân hàng
Nhật Bản và thành lập một uỷ ban khôi phục tài chính. Các ngân hàng thua lỗ
quá nhiều thì cuộc phá sản theo Luật phá sản. Chính phủ sẽ mua lại cổ phiếu của
những ngân hàng bị phá sản hoặc chuyển thành những ngân hàng cầu nối cho
đến khi khu vực tư nhân mua lại, cho phép ngân hàng mua lại ngân hàng phá sản
hoặc Chính phủ sẽ tạm thời quốc hữu hoá. Ngày 12/10/1998, 8 luật liên quan đến
các ngân hàng bị phá sản đã được phê chuẩn, theo đó, Chính phủ có thể bơm tiền
vào một số ngân hàng với một số điều kiện nhất định nếu như tỷ lệ vốn trên tài
sản có cao hơn 4%, Chính phủ sẽ mua cổ phiếu ưu đ•i, nếu nằm trong khoảng 2
đến 4% thì Chính phủ có thể mua cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi nhưng các
giám đốc của ngân hàng phải từ chức, số chi nhánh sẽ phải giảm và các cơ sở của
nó ở nước ngoài sẽ phải đóng cửa, nếu thấp hơn 2% thì ngân hàng sẽ tạm thời bị
quốc hữu hoá, sau đó, phải ngừng hoạt động, sáp nhập với các ngân hàng khác
hoặc cắt giảm mạnh quy mô hoạt động của mình. Tất cả những ngân hàng muốn
bơm tiền từ nguồn công quỹ đều phải cải thiện mức thu nhập trên cổ phần đóng
góp thông qua các biện pháp tái cơ cấu, loại bỏ những tài sản không cần thiết và
tăng cường các tài khoản cho vay đối với khối doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để đảm
bảo tính hiệu quả của các chính sách và các ngân hàng không lặp lại tình trạng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
34


cho vay tràn lan như trước kia, Chính phủ buộc các ngân hàng phải giải trình cụ
thể các kế hoạch cải cách tài chính và cải thiện cách thức cho vay. Quá trình công
khai hoá thông tin và cơ cấu lại các khoản nợ chắc chắn sẽ khiến các ngân hàng
và các công ty tài chính bị thiệt hại nặng nề nhất. Bởi vì việc công nhận thiệt hại
ở các khoản nợ khó đòi và tính lỗ vào doanh thu sẽ không đủ riêu chuẩn cung cấp
những khoản tín dụng mới. Sự trục trặc của các ngân hàng sẽ làm tăng những
khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ vì hoạt

động tài chính của hầu hết các doanh nghiệp là dựa vào các ngân hàng. Do số
lượng các doanh nghiệp này chiếm tới 6,47 triệu trong tổng số 6,53 triệu doanh
nghiệp, chiếm 51,4% thị phần sản xuất công nghiệp, 61,4% bán sỉ và 76,8% bán
lẻ, sử dụng tới 80% lực lượng lao động nên Nhật Bản đã tiến hành sửa đổi luật
doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm giúp giảm thiểu tác động trái chiều của những cải
cách ngân hàng nêu trên (Nguyễn Minh Phong – Trịnh Thanh Huyền, Cải cách
hệ thống tài chính Nhật Bản những năm cuối thập kỷ 90 và bài học cho Việt
Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội).
Bên cạnh việc xin bơm vốn, các ngân hàng cũng có kế hoạch sáp nhập thành các
tập đoàn ngân hàng lớn hoặc thành lập liên minh để chuẩn bị cho việc tự do hoá
hoàn toàn hoạt động môi giới. Chẳng hạn, ngân hàng Sumitomo Trust và công ty
Sumitomo, Dai-Ichi Kangyo và Fuji đã sáp nhập các công ty cổntng lĩnh vực
ngân hàng và có kế hoạch mua công ty quản lý tài sản của Yasuda Trust. Công ty
Sumitomo cũng đã cùng với công ty chứng khoán Daiwa thành lập một công ty
chuyên kinh doanh công trái, cổ phiếu, môi giới sáp nhập và mua lại cổ phiếu.
Ngân hàng lớn nhất Nhật Bản là Tokyo-Mitsubishi cũng đàm phán để mua lại
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
35


công ty Nomura- một trong 3 công ty môi giới chính của Nhật Bản. Ba ngân
hàng hàng đầu của Nhật Bản là ngân hàng công nghiệp Nhật Bản, Dai- Ichi
Kangyo Bank Ltd, và Fuji Bank Ltd. vào đầu năm 2000 đã liên minh với nhau để
tạo ra nhóm ngân hàng lớn nhất thế giới với tổng tài sản là 140 nghìn tỷ Yên
(1.260 tỷ USD), trong đó giá trị tài sản của Fuji Bank là 385 tỷ USD và của ngân
hàng công nghiệp Nhật Bản là 370 tỷ USD, Dai- Ichi Kangyo Bank là 456 tỷ
USD. Trước đó ngày 14/10/1999, hai NHTM lớn nhất Nhật Bản là Sumitomo
Bank và Skura Bank đã chính thức công bố sẽ sáp nhập với nhau để thành lập
một ngân hàng khổng lồ, lớn thứ 2 thế giới với tổng tài sản là 99 nghìn tỷ Yên
(927 tỷ USD) vào tháng 4/2002. Đây là một hướng đi mới để tăng thêm khả năng

cạnh tranh của các ngân hàng Nhật Bản trong xu thế toàn cầu hoá và sự thay đổi
nhanh chóng của công nghệ thông tin.
Tuy nhiên các NHTM của Nhật Bản vẫn trong tình trạng làm ăn không có lãi.
Trong hơn một thập kỷ qua, các ngân hàng trong cả nước đã sử lý hơn 70 nghìn
tỷ nợ khó đòi nhưng vẫn còn nhiều khoản nợ xấu. Vì vậy, giờ đây để để kiếm lãi
ổn định và ít mạo hiểm hơn các ngân hàng chỉ muốn cho các công ty lớn vay.
Trong thời đại ngày nay điểm đến của các khoản nợ mới là các công ty vừa và
nhỏ bởi vì các công ty lớn có thể thu hút vốn trực tiếp từ thị trường tài chính toàn
cầu nên họ không cần dựa nhiều vào ngân hàng Nhật Bản.
Như vậy, mục cải cách các NHTM của Nhật Bản là Nhằm giảm bớt sự bảo hộ
của Nhà nước, nâng mức lợi nhuận của ngân hàng bằng những hoạt động kinh
doanh đa dạng hơn và tiến tới có một hệ thống NHTM có khả năng cạnh tranh
cao trong bối cảnh chungcủa toàn cầu hoá tài chính.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
36


2. Các chính sách cải cách Bộ Tài chính
Đối với Nhật Bản, Bộ Tài chính là nơi thể hiện rõ nhất những đặc điểm và sắc
thái của Nhà nước tham gia vào đời sống kinh tế của đất nước. Sức mạnh của Bộ
Tài chính lớn đến mức chính sách của Bộ Tài chính là chính sách của Chính phủ.
Thẩm quyền của Bộ Tài chính rất rộng lớn như: lập dự toán và quyết toán ngân
sách, thu thuế các loại, theo dõi hoạt động của các tổ chức tài chính, quản lý tài
sản nhà nước, kể cả đề xuất và thực hiện tư nhân hoá… Có thể nói không ở nước
nào Bộ Tài chính có sự tập trung quyền lực lớn như ở Nhật Bản. Từ trước đến
nay hệ thống tài chính của Nhật Bản vẫn dựa vào ngân hàng là chính, vì thế các
ngân hàng, kể cả BOJ được coi như một bộ phận của Bộ Tài chính, hoạt động
theo các quy tắc do Bộ Tài chính áp đặt.
Do đó, trong chương trình “Big Bang”, Nhật Bản đã dự định cải tổ lại Bộ Tài
chính theo hướng phân rõ chức năng quản lý nhà nước và giám sát, tách bớt chức

năng vủa các bộ phận theo hướng chuyên môn hoá, đào tạo lại và bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, tinh giản bộ máy, giảm bớt quyền lực và tăng cường giám sát lẫn
nhau, tách chức năng tài chính của Bộ Tài chính và chức năng quyết sách tiền tệ
của BOJ. Chính phủ thực hiện bãi bỏ các chương trình đầu tư Nhà nước và các
quỹ bí mật đi cùng với nó. Chuyển quá trình huy động vốn đầu tư của các quỹ
này theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Như vậy, vai trò của Bộ tài chính
là làm sao định ra những quy chế phù hợp để các ngân hàng hoạt động và phát
triển chư không phải can thiệp vào hoạt động kinh doanh hoặc tuỳ tiện áp đặt các
quyết sách của mình.
3. Các chính sách về l•i suất tín dụng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
37


Trong chính sách tín dụng, công cụ lãi suất cũng được sử dụng với mục
tiêu kích thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư, mở rộng sản xuất nhằm phục
hồi mức tăng trương kinh tế và chống lại tình trạng giảm phát. Mặc dù trước năm
1998, lãi suất các loại đã ở mức rất thấp nhưng đến tháng 2/1999 BOJ đã thực
hiện chính sách lãi suất bằng 0. Chính sách lãi suất bằng 0 ngoài mục tiêu kích
thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư, còn nhằm giảm đi số tiền lãi cần phải
trả khi nợ của Chính phủ và nợ của các công ty đã phình ra tới mức có thể nguy
hại nền kinh tế Nhật Bản. Việc áp dụng chính sách lãi suất trên đã góp phần làm
cho kinh tế Nhật Bản có sự chuyển biến tích cực khi mức tăng trưởng đạt 0,5%
năm 1999 so với mức tăng – 1,9% năm 1998. Đến tháng 8/2000 NHTW Nhật
Bản lại ra thông báo xoá bỏ chính sách lãi suất bằng 0 (xem bảng: Mức lãi suất
của Nhật Bản 1994 – 2002). Nhưng tình trạng trì trệ trong nền kinh tế sau đó đã
cho thấy sự xoá bỏ chính sách này là chưa đúng lúc. NHTW lại thông qua chính
sách lãi suất bằng 0 vào tháng 2/2001 và giới thiệu phương thức cho vay theo
kiểu Lombard (là cách cho vay thế chấp chứng khoán, tín dụng), cộng thêm sự
nới lỏng hơn về số lượng cho vay.

Bên cạnh việc thực hiện chính sách lãi suất bằng 0, còn có những biện
pháp khác để giúp các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, giảm phí
dịch vụ trong việc mua bán các giấy tờ có giá… Hiện nay, số tiền gửi của cá
nhân và của các công ty vào ngân hàng là hơn 600.000 tỷ Yên. Trong số đó chỉ
có 4 nghìn tỷ Yên được gửi vào BOJ như là khoản dự trữ bắt buộc, như vậy tỷ lệ
dự trữ bắt buộc này là quá thấp so với tiêy chuẩn quốc tế.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
38


Cho đến nay BOJ vẫn quyết định giữ nguyên mục tiêu dự trữ trong tài khoản
vãng lai của họ ở mức 10 – 15 nghìn tỷ Yên và mức mua trái phiếu của Chính
phủ Nhật Bản hàng tháng ở mức 1 nghìn tỷ Yên, coi đây như là một phần của
chính sách lãi suất bằng 0 và tiếp tục chính sách nới lỏng tiền tệ cho tới khi nền
kinh tế đạt mức lạm phát dương. Việc chuyển mục tiêu từ lãi suất sang số lượng
trong chính sách nới lỏng tiền tệ của BOJ bắt đầu thực hiện vào tháng 3/2001,
theo giáo sư Nariai Osamu của trường đai học Reitaku là một bước chuyển quan
trọng để kéo nền kinh tế ra khỏi tình trạng giảm phát.
Mức lãi suất của Nhật Bản 1994 – 2002 (%/ năm)
Các loại lãi suất
Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn 0,10
Lãi suất có kỳ hạn từ 3 đến 6 tháng 0,475
Lãi suất tiết kiệm bưu điện không kỳ hạn 0,25
Lãi suất bưu điện kỳ hạn 3 năm trở nên 0,80
Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm 2,75
Lãi suất chiết khấu 0,50
Lãi suất cho vay ngắn hạn 1,62
Lãi suất cho vay dài hạn 2,50
Lãi suất cho hộ gia đình vay mua nhà 3,10
(Nguồn: Financial and economic statistic monthly, June 2002, No.39, p.4)

Cho đến nay, sau hơn 4 năm thực hiện chương trình “Big Bang”, BOJ vẫn không
thay đổi chính sách nới lỏng tiền tệ của mình với việc duy trì lãi suất thấp và tăng
cơ số tiền.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
39


4. Các chính sách về thuế, thu chi ngân sách và bảo hiểm
a. Về thuế
Thực tế chỉ ra rằng thuế là một vấn đề nhạy cảm và tác động nhanh tới hoạt động
kinh tế. Nhằm làm sống động nền kinh tế sau 2 năm suy thoái nặng nề 1997 –
1998, và để kích thích tiêu dùng và đầu tư, Chính phủ Nhật Bản đã tập trung vào
việc cải cách thuế, coi đó là một phần trong cải cách cơ cấu của Nhật Bản. Trong
năm tài chính 1999, Chính phủ đã thực hiện chương trình cắt giảm thuế thường
xuyên và thuế chiến lược.
Trong cắt giảm thuế thường xuyên thì thuế thu nhập sẽ được cắt giảm 20% với
mức cắt giảm tối đa không quá 250.000 Yên. Mức thuế thu nhập cao nhất sẽ
giảm từ 65% xuống 50%. Thuế nhà ở sẽ được giảm 15% với mức cắt giảm tối đa
là 40.000 Yên. Thuế công ty sẽ được cắt giảm từ 46,36% xuống còn 40,87% với
tổng trị giá là 2,3 nghìn tỷ Yên (Nguyễn Minh Phong – Trịnh Thanh Huyền, Cải
cách hệ thống tài chính Nhật Bản những năm cuối thập kỷ 90 và bài học cho Việt
Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội). Thuế chiến lược bao gồm việc nới lỏng thuế đối
với các tài sản cầm cố trị giá 2,5 nghìn tỷ Yên. Có thể nói đây là chương trình cắt
giảm thuế lớn nhất trong lịch sử của Nhật Bản.
Không giống như các nước công nghiệp khác, ở Nhật Bản thuế trực tiếp như thuế
công ty, thuế thu nhập đóng vai trò quan trọng hơn thuế gián tiếp như thuế giá trị
gia tăng.
Thời gian gần đây, do kinh tế Nhật Bản suy thoái trầm trọng nên nhiều công ty
đã không nộp thuế, và điều đó đã trực tiếp làm tổn thương đến ngân khố quốc
gia. Vì vậy, Hội đồng chính sách kinh tế và tài chính Nhật Bản do thủ tướng

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
40


Kozumi làm chủ tịch đã đưa một loạt đề suất mới về cải cách thuế. Trong đó coi
thuế thu nhập như là mục tiêu hàng đầu cần thay đổi. Theo đề xuất mới này, mức
thuế khởi điểm sẽ được hạ thấp nhằm mục đích mở rộng diện chịu thuế (tăng số
lượng người đóng thuế), giảm thuế suất tối đa từ mức 75% xuống còn 70%.
Trước đây, nhiều gia đình Nhật Bản không phải đóng thuế vì mức khởi điểm phải
đóng thuế thu nhập còn cao. Ngoài ra, sẽ đánh thuế tài sản nặng hơn, đặc biệt là
những vụ mua bán bất động sản lớn nhằm làm dịu đi sự bất ổn trong thị trường
bất động sản. Thuế đánh vào tài sản thừa kế và quà tặng sẽ giảm nhăm kích thích
tiêu dùng, hiện đang ở mức 5%. Mặc dù đây là cải cách hợp lý nhất nhưng nó có
thể ảnh hưởng xấu đến tiêu dùng như đã xảy ra vào năm 1997, khi tỷ lệ thuế tiêu
dùng tăng từ 3 lên 5%. Các nhà phân tích cho rằng năm nay là năm thuận lợi nhất
để Chính phủ đẩy mạnh cải cách thuế – một hành động mất lòng dân, vì là năm
không có tổng tuyển cử (Tin Kinh tế 25-04-2002).
Chính sách giảm thuế thu nhập có tác động tích cực nếu đó là sự cắt giảm lâu dài
vì đối với người tiêu dùng, một mức thuế thu nhập thấp hơn sẽ kích thích chi
tiêu, đặc biệt đối với người có thu nhập thấp. Nhưng sự cắt giảm lâu dài lại tiềm
ẩn nguy cơ chin ép đầu tư bởi vì lợi tức trái phiếu dài hạn sẽ gia tăng – hậu quả
của gia tăng nợ chính phủ. Ngược lại, một mức thuế công ty thấp hơn chỉ kích
thích đầu tư khi đó là sự cắt giảm tạm thời bởi vì đầu tư phụ thuộc nhiều vào lợi
nhuận, đầu tư quá mức và lòng tin.
Thu thuế ở Nhật Bản tính đến tháng 3/2003 giảm 5,5% xuống còn 47,9 nghìn tỷ
Yên, thấp hơn so với dự toán 1,7 nghìn tỷ Yên. Thuế thu từ các công ty giảm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×