51
trung giải quyết các khoản nợ khó đòi, nhằm tạo sự lành mạnh trong hệ thống
ngân hàng, kích thích các hoạt động đầu tư tư nhân. Trong các chương trình cải
cách của các Thủ tướng Nhật Bản trước ông Koizumi đều chú trọng tăng đầu tư
công cộng, nhưng chính quyền ông Koizumi lại chú trọng kích thích đầu tư tư
nhân, hạn chế, giảm tài trợ đầu tư công cộng nhằm tiến tới cân bằng ngân sách.
Chẳng hạn theo dự toán ngân sách năm tài chính 2002, công trái được phát hành
không quá 30 nghìn tỷ Yên, giảm 10% ODA và giảm đầu tư công cộng 10%. Để
kích thích mạnh hơn đầu tư tư nhân chính phủ đã tập trung vào giải quyết nợ khó
đòi thông qua một số giải pháp mạnh có tính khả thi như bán lại nợ, cho doanh
nghiệp chịu nợ phá sản, ngân hàng tự huỷ bỏ một phần nợ. Cùng với đó thực hiện
giảm thuế để kích thích người dân tăng chi tiêu và đầu tư phát triển kinh tế.
Trên phương diện cung, nhà nước chú ý đẩy mạnh cải cách cơ cấu và thể chế
kinh tế nhằm tạo môi trường thông thoáng cho các doanh nghiệp hoạt động. Các
chính sách nhà nước tập trung chú trọng phát triển các ngành công nghệ cao đại
diện cho nền kinh tế mới – kinh tế tri thức. Xúc tiến chương trình phát triển tổng
thể vùng kinh tế nhằm gắn kết các khu vực trong nền kinh tế theo 4 trục chính:
Đông – Bắc, ven biển Nhật Bản, ven Thái Bình Dương và trục phía tây Nhật
Bản, qua đó phát huy lợi thế so sánh của từng vùng trong hoạt động kinh doanh
hợp tác quốc tế. Nhật Bản cũng đẩy mạnh tiến trình tự do hoá và hội nhập quốc
tế. Bên cạnh gia tăng các hoạt động hợp tác đa phương, đặc biệt chú trọng hợp
tác với ASEAN, Nhật Bản cũng từng bước mở cửa thị trường nội địa và tự do
hoá các hoạt động kinh doanh, thu hút nhiều hơn dòng vốn nước ngoài đổ vào thị
trường Nhật Bản.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
52
Điều đáng chú ý trong các cuộc cải cách gần đây là chú trọng phát triển kinh tế
theo hướng gia tăng nội nhu, lấy nội nhu làm động lực phát triển. Các chiều
hướng cải cách trên đương nhiên có tác động rất lớn đến quan hệ kinh tế của
Nhật Bản với các bạn hàng, trong đó có Việt Nam.Cụ thể nó đặt ra hàng loạtnhu
cầu của bản thân nền kinh tế Nhật Bản cần có sự hợp tác đáp ứng từ phía đối tác.
1.1.1. Trong quá trình cải cách việc tạo lập, mở rộng thị trường hàng hoá và dịch
vụ bên ngoài là rất cần thiết nhằm tăng cầu qua đó kích thích sản xuất phát triển
Rõ ràng cái khó của nền kinh tế Nhật Bản hiện nay là thúc đẩy tiêu dùng, tạo cầu
cho nền kinh tế. Việc chú trọng tạo cầu nội địa là hướng quan trọng, song bước
chuyển này đòi hỏi thời gian và hiện tại cũng còn đang gặp rất nhiều khó khăn.
Nền kinh tế Nhật Bản thời gian qua trong tình trạng suy thoái gắn kiền với giảm
phát. Giá cả hàng hoá dịch vụgiảm là khó khăn cho phục hồi sản xuất. Mặc dù
nhà nước chú ý kích cầu qua tăng tiêu dùng công cộng, song mức chi tiêu công
cộng cũng có hạn, hơn nữa quy mô của chúng rất nhỏ bé so với tổng tiêu dùng
nói chung. Đầu tư công cộng năm 2000 trên thực tế chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ 7,2
% trong tổng cầu của nền kinh tế. Chi tiêu cá nhân tuy chiếm tỷ lệ lớn 55,9%
tổng cầu nhưng tâm lý tích luỹ hạn chế chi tiêu trong dân chúng đang tăng lên do
tình hình kinh tế – chính trị không ổn định trong những năm qua làm cho mức
gia tăng của khoản chi này cũng ít triển vọng. Rõ ràng trong tình hình này việc
mở rộng thị trường bên ngoài vẫn có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển kinh tế.
Có thể thấy ASEAN là thị trường truyền thống của Nhật Bản. Hàng năm
ASEAN nhập khẩu một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vừt Nhật Bản. Theo số
liệu thống kê năm 1990 tỷ trọng hàng xuất khẩu của Nhật Bản vào các nước
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
53
ASEAN chiếm 11,49% tổng mức xuất khẩu của Nhật Bản, tương đương 33,7%
mức xuất khẩu của Nhật Bản vào Châu á. Tính trung bình trong thời gian 1990 –
1997 xuất khẩu của Nhật Bản tới ASEAN 5 chiếm khoảng 30%. Trong các sản
phẩm xuất khẩu thì các hàng hoá thiết bị giao thông vận tải, máy móc chiếm tới
96% giá trị hàng xuất khẩu của Nhật Bản vào ASEAN. Cuộc khủng hoảng tài
chính – tiền tệ Châu á 1997 đã tác động đến nhu cầu hàng hoá dịch vụ của
ASEAN với nền kinh tế Nhật Bản, cộng với đó những khó khăn trong nền kinh tế
Mỹ, nhất là sau sự kiện 11/9/2001 làm giảm nhu cầu sản phẩm hàng hoá. Chính
điều này ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương của Nhật Bản, mức dư thừa
trong kim ngạch thương mại có xu hướng giảm sút. Hoạt động kinh tế đối ngoại
khó khăn càng làm cho việc phục hồi nền kinh tế Nhật Bản thêm nan giải.
Đáng chú ý trong những năm gần đây sự phát triển của nền kinh tế Trung
Quốc và Việt Nam đã tạo ra nhu cầu mới ngày càng tăng về sản phẩm hàng hoá
mà Nhật Bản có thể đáp ứng. Trên thực tế mức tăng xuất khẩu của Nhật Bản vào
Châu á, phần quan trọng là từ Trung Quốc. Thị trường Việt Nam tuy tỷ trọng
nhập khẩu từ Nhật Bản còn khiêm tốn, song đây là thị trường tiềm năng có sức
tăng trưởng cao, có thể nhập nhiều loại sản phẩm hàng hoá từ Nhật Bản. Năm
1998 tỷ trọng của Việt Nam trong kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản khoảng
0,5%, trong khi đó con số tương ứng của Trung Quốc là 13,2%; của Singapo là
2,9%; Malaixia: 2,7%; Thái Lan: 2,6%; Inđônêxia: 2,3% và Philipin:1,7% (TS.
Vũ Văn Hà (chủ biên). Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản trong những
năm1990 và triển vọng. Nxb.KHXH, Hà Nội). Nếu xét về chiều hướng tăng
trưởng thì thị trường Việt Nam sẽ ngày càng chiếm tỷ lệ cao hơn trong tổng xuất
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
54
khẩu của Nhật Bản, do nhu cầu gia tăng về sản lượng hàng hoá trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam cũng như việc quan tâm,
thúc đẩy giải quyết các vấn đề tồn đọng trong quan hệ thương mại giữa hai nước,
như vấn đề nợ thương mại, chất lượng sản phẩm, cơ chế chính sách… nhằm đi
tới ký hiệp địnhthwơng mại song phương.
1.1.2. Trong quá trình cải cách nền kinh tế Nhật Bản sẽ đẩy đến gia tăng nhu cầu
đầu tư ra bên ngoài nhằm khai thác lợi thế công nghệ và nguồn vốn cũng như tận
dụng nguyên vật liệu và lao động tại thị trường bản địa
Nền kinh tế Nhật Bản đang trong quá trình chuyển dịch từ nền công nghiệp chín
muồi sang nền kinh tế mới – kinh tế tri thức. Điều rõ ràng là Nhật Bản đã có
bước phát triển vượt trước các nền kinh tế trong khu vực. Trong bước chuyển
này, một mặt Nhật Bản phải đầu tư nghiên cứu các công nghệ mới xây dựng các
ngành công nghiệp mới; mặt khác sẽ phải đồng thời chuyển giao các công nghệ
của nền công nghiệp hoá, cái mà Nhật Bản đang có thế mạnh và các quốc gia khu
vực trong đó có Việt Nam đang rất cần. Trên thực tế quá trình chuyển giao công
nghệ của Nhật Bản đã được thực hiện ngay trong những thập niên trước đây và
dặc biệt được đẩy mạnh sau năm 1985 khi mà đồng Yên tăng giá mạnh.
Việc chuyển giao các cơ sở công nghệ của nền công nghiệp hoá không chỉ
là yêu cầu dặt ra trong bước đường cải cách cơ cấu mà thông qua các hoạt động
chuyển giao này Nhật Bản có thể thâm nhập thị trường, phát huy ưu thế về công
nghệ để tăng lợi nhuận, qua đó có điều kiện cải cách cơ cấu, phát triển các hoạt
động kinh doanh mới.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
55
Tình trạng suy thoái kinh tế kéo dài, tỷ xuất lợi nhuận thấp, nhất là tình
trạng giải pháp vẫn chưa khác phục được đã không tạo ra được môi trường kích
thích các hoạt động đầu tư nội địa. Việc tăng các hoạt động kinh tế đối ngoại, kể
cả đầu tư và thương mại sẽ được xem như một kích thích từ bên ngoài đối với
các hoạt động bên trong, tạo điều kiện cho các giải pháp khắc phục suy thoái.
Trong quan hệ với Việt Nam, Nhật Bản nhìn nhận Việt Nam là thị trường
đầu tư tiềm năng còn ít được khai thác so với các quốc gia lân cận. Nhật Bản có
nguồn tài chính lớn cần có nơi đầu tư. Việt Nam có thể tiếp nhận các nguồn vốn
và kỹ thuật của Nhật Bản để xây dựng các ngành kinh tế của mình. Trong những
năm qua đầu tư của Nhật Bản vào thị trường Việt Nam tuy chiếm tỷ lệ cao trong
các đối tác đầu tư vào Việt Nam nhưng so với tiềm năng và nhu cầu của 2 bên
vẫn còn là khiêm tốn.
Do quá trình đông Yên tăng giá làm giảm lợi thế đầu tư bên trong đã đẩy
Nhật Bản tăng đầu tư ra bên ngoài. Điều này vừa cho phép Nhật Bản phát huy ưu
thế công nghệ, đồng thời qua đó tận dụng được các nguồn lao động rẻ ở các quốc
gia bản địa, khai thác tài nguyên nhằm kiếm lời và tạo nguồn sản phẩm cung cấp
phục vụ thị trường Nhật Bản. Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên phong
phú và thị trường lao động có lợi thế trong cạnh tranh, nên các công ty Nhật Bản
cũng rất quan tâm.
1.1.3. Do chuyển đổi cơ cấu sản xuất và sự thay đổi của cơ cấu nhu cầu của một
xã hội phát triển dẫn đến gia tăng nhập khẩu sản phẩm tiêu dùng và nhu cầu lao
động
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
56
Trên thực tế trong thời gian gần đây có sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu nhập
khẩu hàng hoá của Nhật Bản. Mức nhập khẩu lương thực có sự gia tăng đi liền
với đó là các sản phẩm chế tạo. Nếu thập kỷ 60 – 70 việc nhập các sản phẩm chế
tạo chiếm trung bình 20 – 30% tổng mức nhập khẩu thì thập kỷ 90 tăng lên xấp
xỉ 60%. Trong xu hướng cải cách cơ cấu ngành kinh tế, Nhật Bản tiếp tục chuyển
giao các cơ sở sản xuất công nghiệp máy móc, kể cả trong lĩnh vực giao thông
xây dựng và đóng tàu, sản xuất thép mà tập trung vào phát triển các ngành kinh
tế dịch vụ, sinh học, điện tử. Do vậy chắc chắn nhu cầu nhập khẩu các hàng hoá
liên quan thuộc nhóm ngành kinh tế khu vực I và II nhằm đáp ứng nhu cầu của
nền kinh tế sẽ gia tăng. Điều này thúc đẩy hướng hợp tác trên cơ sở phát huy lợi
thế so sánh của nền kinh tế Việt Nam trong việc xuất khẩu các nông sản thực
phẩm. Trong những năm qua xuất khẩu các nông sản thực phẩm của Việt Nam
vào thị trường Nhật Bản ngày một tăng.
Điều đáng chú ý là bên cạnh những sản phẩm hàng hoá phục vụ nhu cầu sản xuất
và tiêu dùng, do sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu dân số làm cho nhu
cầu nhập khẩu lao động nước ngoài trong đó có nhập từ Việt Nam gia tăng, năm
1993 ở Nhật Bản có tới 23 vạn lao động nước ngoài, năm 1999 là 28 vạn. Đối với
Việt Nam trong thời gian từ 1992 – 2000 đã xuất khẩu sang Nhật Bản 7500 lao
động. Thực tế cho thấy với sự phát triển của các ngành và lĩnh vực sản xuất gắn
với công nghệ cao đã thu hút giới trẻ Nhật Bản, còncác lĩnh vực dịch cụ lao động
giản đơn ít đượcchú ý nên đẩy đến tình trạng thiếu lao động trong khu vực này.
Bản thân quá trình già hoá dân số không những đặt ra nhu cầu lao động mà còn
làm thay đổi cơ cấu nhu cầu trong dân cư đòi hỏi được thoả mãn. Măt khác chính
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
57
quá trình cải cách mở cửa, gia tăng giao lưu đã phá vỡ tính khép kín của thị
trường lao động Nhật Bản dẫn đến gia tăng lao động nước ngoài. Trong xu thế
này khong chỉ là gia tăng nhu cầu lao động giản đơn mà cả lao động phức tạp, lao
động trong các ngành công nghệ cao. Bản thân Nhật Bản cũng có chính sách thu
hút chất xám bên ngoài phục vụ nhu cầu nghiên cứu và phát triển công nghệ mới.
Chính vì vậy trong tương lai nhu cầu nhập khẩu lao động của v tiếp tục gia tăng
và đây cũng là cơ hội gia tăng lao động Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Việc
này một mặt giải quyết tình trạngdư thừa lao động ở Việt Nam, mặt khác qua
thực tếngười lao độnh có thể tiếp thukỹ thuật kinh nghiệm quản lý của Nhật Bản.
1.1.4. Nhu cầu gia tăng hợp tác kinh tế với Việt Nam xuất phát từ lợi ích chiến
lược phát triển chung của Nhật Bản
Nhật Bản hiện nay không chỉ đang phải phục hồi nền kinh tế mà còn phải thực
hiện một cuộc cải cách toàn diện, them chí có người còn cho rằng cần có một
cuộc cách mạng kiểu Minh Trị ở giai đoạn hiện tại nhằm tạo lập một nước Nhật
Bản mới không chỉ mạnh về kinh tế mà còn có vai trò chính trị quan trọng trong
khu vực cũng như trên trường quốc tế. Đó cũng chính là mục tiêu phấn đấu của
các giới chức Nhật Bản hiện nay.
Nhật Bản vốn là cường quốc kinh tế thế giới trong 2 thập niên qua, song cũng do
tình trạng suy thoái, vị trí, vai trò kinh tế của Nhật Bản đang bị thách thức. Theo
nhiều dự đoán đến 2010 nền kinh tế Trung Quốc sẽ chiếm vị trí thứ 4, năm 2020
chiếm vị trí thứ 3 và năm 2040 sẽ dành vị trí thứ 2 sau Mỹ. Đại hội 16 Đảng cộng
sản Trung Quốc đã hoạch định rõ mục tiêu xây dựng toàn diện một xã hội khá
giả, trong đó rất chú trọng đến kinh tế đối ngoại. Một trong những hướng ưu tiên
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
58
là đẩy mạnh hợp tác với ASEAN, Trung Quốc đã đạt được thoả thuận khung về
một khu vực thương mại tự do ASEAN + Trung Quốc. Điều này đã đẩy Nhật
Bản muốn phát triển và khẳng định vai trò kinh tế và chính trị của mình thì phải
tạo ra được quan hệ hợp tác hoà bình chặt chẽ với ASEAN. Về truyền thống Nhật
Bản và ASEAN đã có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong bối cảnh mới khi
mà các quốc gia lớn đều có chiến lược tranh thủ ASEAN, coi ASEAN như là cơ
sở ban đầu để thúc đẩy mở rộng hợp tác trong khu vực, đòi hỏi Nhật Bản cũng
phải có những điều chỉnh. Và trên thực tế trong những năm gần đây các nhà lãnh
đạo của Nhật Bản đều nhấn mạnh tầm quan trọng trong hợp tác Nhật Bản –
ASEAN. Việt Nam là một quốc gia có quy mô lớn thứ 2 trong ASEAN và có
tiềm năng phát triển. Vai trò và đóng góp của Việt Nam trong ASEAN ngày một
tăng dần tương thích với tầm cỡ của mình. Hợp tác với Việt Nam, Nhật Bản
không những có điều kiện khai thác các tiềm năng của Việt Nam mà qua đó nâng
cao uy tín, vai trò của mình trong khu vực.
Nhật Bản e ngại một Trung Quốc trong tương lai thách thức vị trí, vai trò của
mình trong khu vực. Chính vì vậy trong chiến lược phát triển của Nhật Bản đi
liền hợp tác – cạnh tranh và kiềm chế lẫn nhau. Gần đây các công ty Nhật Bản
cũng đã có động thái điều chỉnh dòng FDI vào Trung Quốc. Cuộc đụng độ
thương mại Nhật – Trung 2001 càng làm gia tăng một tâm lý lo ngại sự nổi lên,
lấn át của Trung Quốc.
Nhu cầu gia tăng hợp tác với Việt Nam của Nhật Bản còn xuất phát từ việc muốn
đẩy nhanh tạo lập nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và qua đó tách Việt Nam
khỏi ảnh hưởng của Nga và trung Quốc. Điều này không chỉ là mong muốn của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
59
Nhật Bản mà còn nằm trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trên thực tế cả Nhật
Bản và Mỹ đều lo ngại Trung Quốc. Trong thế trận bao quanhTrung Quốc từ
Đông sang Tây, nếu Trung Quốc muốn mở xuống phía Nam thì không thể không
tính đếnViệt Nam. Đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam, một mặt tạo cơ hội để gia
tăng quan hệ với các quốc gia Đông Dương, mặt khác nhằm kìm chế vai trò, sự
ảnh hưởng lan toả của Trung Quốc xuống khu vực này. Tất nhiên trong thế giằng
co chiến lược của các nước lớn, Việt Nam cần tìm ra phương cách, con đường
phù hợp để gia gia tăng hợp tác, tận dụng các cơ hội phát triển.
1.2. Nhu cầu mở rộng hợp tác kinh tế của Việt Nam với Nhật Bản trong bối cảnh
mới
1.2.1. Cơ sở của việc gia tăng nhu cầu hợp tác kinh tế của Việt Nam
Ngày nay có thể thấy mở của hội nhập vào nền kinh tế là một xu thế tất yếu trong
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, Việt Nam cũng không nằm ngoài lôgích đó.
Hơn nữa, việc đẩy mạnh mở rộng hợp tác với Nhật Bản còn xuất phát từ những
yếu tố cụ thể của bản thân Việt Nam.
Về khía cạnh kinh tế: Sau một thập kỷ đổi mới nền kinh tế Việt Nam cho đến
trước cuộc khủng hoảng tqì chính - tiền tệ khu vực đã có sự khởi sắc. Không
những vượt qua khủng hoảng triền miên kéo dài hàng chục năm, mà từ năm 1991
đến 1996 nền kinh tế liên tục đạt mức tăng trưởng cao với bình quân 8%, riêng
năm 1995 đạt 9,54% và 1996 đạt 9,34% (Niên giám thống kê hàng năm, Nxb
Thống kê, 1999). Tuy nhiên sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ mức tăng
trưởng GDP có sự suy giảm, năm 1998 chỉ đạt 5,8%, và năm 1999 là 4,8%. Nếu
năm 1999 lạm phát tăng tới 9,2% thì các năm tiếp sau nền kinh tế rơi vào tình
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
60
trạng thiểu phát. Mức tăng của xuất khẩu thời kỳ sau khủng hoảng tài chính khu
vực cũng chậm lại. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1998 có xu hướng
giảm mạnh. Thực trạn kinh tế trên cho thấy cần phải có giải pháp mạnh mẽ để
thúc đẩy thu hút đầu tư và xuất khẩu, cải thiện mức tăng trưởng kinh tế, tránh
nguy cơ tụt hậu.
Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản kể từ sau khi chiến tranh lạnh kết
thúc đã có bước phát triển mới mà nhiều người gọi đó là thời đại mới của quan
hệ Việt Nam - Nhật Bản. Riêng trong lĩnh vực kinh tế quan hệ hợp tác không chỉ
dừng lại ở các hoạt động đầu tư trực tiếp đã được thực hiện và phát triển nhanh.
Tuy nhiên điều cũng cần thấy là quy mô của quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật
Bản còn rất khiêm tốn so với khả năng và nhu cầu của 2 nền kinh tế. Mặc dù
Nhật Bản là bạn hàng thương mại số một, nhà tài trợ số một và cũng là một trong
3 nhà đầu tư trực tiếp lớn nhất vào Việt Nam, song so với tổng lượng kim ngạch
xuất- nhập khẩu cũng như tổng FDI của Nhật Bản ra nước ngoài thì phần của
Việt Nam trong đó quá ít ỏi, và thấp hơn so với phần của các quốc gia thuộc
ASEAN. Điều này cho thấy cần phải và có thể gia tăng hơn nữa quan hệ kinh tế
giữa hai quốc gia.
Mở rộng hợp tác kinh tế theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá là một chủ
trương của nhà nước Việt Nam. Mở rộng hợp tác với Nhật Bản trong bối cảnh
toàn cầu hoá là một phương cách đảm bảo an ninh kinh tế nước nhà. Bởi lẽ nếu
chỉ hạn chế trong một số bạn hàng sẽ rất bất lợi khi đối tác gặp khó khăn, việc
mở rộng các nối quan hệ sẽ tạo cho Việt Nam có nhiều cửa mở ra thế giới bên
ngoài, đó là những kênh hàng hoá - dịch vụ chảy vào chảy ra, bảo đảm cho sự
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -