Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nhận diện Xuân Diệu qua truyện ngắn và bút ký docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.55 KB, 8 trang )

Nhận diện Xuân Diệu qua
truyện ngắn và bút ký







Con đường sáng tạo của Xuân Diệu phát triển trên suốt nửa thế kỷ. Ông là một tác
giả lớn trong văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại với một phong cách riêng đặc sắc.
Trước và sau năm 1954, Xuân Diệu đều có những đóng góp lớn đối với nền văn học
nước nhà. Ông là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Sau năm 1945, ông
cũng thuộc số ít người ở hàng đầu của nền thơ ca Cách mạng. Xuân Diệu đã để lại một
khối lượng tác phẩm đồ sộ, có giá trị lâu dài về nhiều thể loại: thơ, văn xuôi, nghiên cứu
phê bình, dịch thuật Với nhà thơ tài năng này, ở thể loại nào ông cũng đạt được những
thành tựu, in đậm dấu ấn riêng. Trong sáng tác của Xuân Diệu các thể loại hoà quện vào
nhau, khó tách bạch; trong văn xuôi giàu chất thơ, trong thơ giàu chất sinh động của
hiện thực đời sống, trong nghiên cứu phê bình tinh tế tài hoa mà không kém phần sắc
sảo. Ở một người cầm bút như Xuân Diệu, tính cả về số lượng và chất lượng thì ở mỗi
thể loại đều cần thiết phải có những chuyên luận, nghiên cứu một cách công phu và đầy
đủ. Trong bài viết này, chúng tôi muốn đi vào tìm hiểu một mảng sáng tác còn ít được
bàn tới của ông, đó là văn xuôi, hay nói một cách cụ thể hơn, tìm hiểu truyện
ngắn và bút ký.
Là một tác giả đa tài, sự nghiệp sáng tác văn học của Xuân Diệu khá đồ sộ. Bên
cạnh những mảng thơ mà Xuân Diệu đã dành phần lớn bút lực của đời mình, ông còn có
một mảng sáng tác khá quan trọng nữa là văn xuôi. Nhưng nói như nhà phê bình
Nguyễn Đăng Mạnh: “Tôi không muốn tách biệt văn Xuân Diệu với thơ Xuân Diệu.
Văn hay thơ thì vẫn là hình ảnh phập phồng nóng hổi của một trái tim đắm say sự sống,
mùa xuân tuổi trẻ và tình yêu”. Phải chăng đó cũng là ưu thế, là điểm mạnh đối với
những tài năng đa dạng như Xuân Diệu?


I. Xuân Diệu và dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 đã phát triển với một nhịp độ mau lẹ, làm
nên diện mạo văn học phong phú đa dạng, đạt được những thành tựu rực rỡ cả bề rộng
lẫn chiều sâu. Trong đó thể loại truyện ngắn cũng đã khẳng định được vị trí xứng đáng
trong tiến trình chung của văn xuôi hiện đại nước nhà. Truyện ngắn thời kỳ này được
sáng tác bởi những trào lưu, khuynh hướng khác nhau. Dòng truyện ngắn hiện thực với
những cây bút đặc sắc như Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao với phong
cách độc đáo khó ai có thể bắt chước được. Bên cạnh đó, có một nhóm nhà văn lặng lẽ
hơn, nhưng sáng tác của họ có sự cộng hưởng và có sức lan tỏa sâu xa, đem đến những
rung cảm thẩm mỹ nhẹ nhàng mà tinh tế. Đó là Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dếnh,
Xuân Diệu, Ngọc Giao, Thanh Châu, Đỗ Tốn chính họ đã tạo nên dòng truyện ngắn
trữ tình đặc sắc, thấm sâu vào lòng người đọc, tạo nên những ấn tượng khó phai mờ.
Không chỉ đến với thơ, Xuân Diệu đã đến với văn xuôi từ rất sớm. Năm 1939, tập
hợp các truyện ngắn đã đăng trên báoNgày nay, Xuân Diệu cho xuất bản tập
truyện Phấn thông vàng. Đến năm 1945 cùng với tập thơ Gửi hương cho gió, Xuân Diệu
cho ra đời tập văn xuôi Trường ca. Đặc điểm nổi bật trong văn xuôi của Xuân Diệu thời
kỳ này là tính trữ tình lãng mạn. Những trang văn thật đẹp với những câu văn, những
hình ảnh được trau chuốt, gọt giũa kỹ càng. Câu văn giàu nhạc điệu, không sa vào biền
ngẫu song lại luôn luôn tạo được âm hưởng riêng. Chất thơ thấm đẫm trên những trang
văn xuôi của Xuân Diệu. Có thể coi tập Trường ca như một kiểu thơ văn xuôi. Trong
văn xuôi trước Cách mạng Xuân Diệu đã sớm hình thành một giọng điệu riêng, tinh tế,
tự nhiên, mượt mà, pha chút buồn duyên dáng. Văn xuôi trong Phấn thông
vàng và Trường ca dường như là sự nối dài, mở rộng những ý tưởng mà ông đã từng gửi
gm, tng núi n trong Th th v Gi hng cho giú. Cú th d dng tỡm thy trong
vn xuụi nhng hỡnh nh, nhng t tng ngh thut m Xuõn Diu ó nhiu ln núi ti
trong th. vn xuụi, vi nhng c trng riờng ca th loi, Xuõn Diu ó giói by
c y , rừ rng v m nột hn nhng quan nim v tỡnh yờu, con ngi v cuc
sng. Bao trựm lờn nhng trang vn ca Xuõn Diu l nim khỏt khao gn bú vi cuc
sng, l mt tỡnh yờu m say khụng gii hn. Nhng truyn ngn nh Phn thụng
vng, Chỳ lỏi kh, oỏ hng nhung, Ngi l ngc ó bc l khỏ y nhng ý

tng ú. Di con mt ca mt ngi th a tỡnh, thiờn nhiờn bn mựa dng nh
cng mang mt ý ngha khỏc: Thu khụng phi l mựa thu su. y chớnh l mựa thu yờu,
mựa yờu nhau bng linh hn, mựa nhng linh hn yờu mn nhau Tri mun lnh nờn
ngi ta cn nhau hn. V ngi no ch cú mt thõn, thỡ cn mt ngi khỏc. Xuõn,
ngi ta vỡ m m cn tỡnh. Thu, ngi ta vỡ lnh sp n m rt cn ụi. Cho nờn khụng
gian y nhng li nh nhung, nhng linh hn cụ n th ra nhng ting th di gi
nhau (Thu). Truyn ngn Thu ca ụng cú l gn vi on vn hoc tu bỳt hn. ú l
mt ging vn y lóng mn, man mỏc cht th vi nhng cm nhn bay bng, chi vi,
m mng. Khụng khớ v hng v ca tỡnh yờu bng lng khp trong t tri, trong cnh
sc thiờn nhiờn v c cõy hoa lỏ. Chỳng ta gp li õy mt con ngi cú trỏi tim yờu da
dit, yờu n ht v yờu n cht. Nh chớnh Xuõn Diu ó tng thỳ nhn: Tụi kh
kho lm, ngu ng quỏ - Ch bit yờu thụi, chng hiu gỡ Phn thụng vng l chuyn
v mt chng ho s cú tõm hn lóng mn và nhy cm. Trờn bc ng lang thang
ca mỡnh, chng ho s bt cht gp mt cnh rng thụng vi sc vng khụng rc r
nhng nguy nga p n mờ hn. Chng ho s l ngi ó tng yờu, m yờu khụng
phi ớt, ti ba ln, nhng ri kt cc ln no cng gp au kh. L ho s, nhng trong
hn chng li trỳ ng sn mt hn th na. Vỡ th, cỏi tõm hn nhy cm, yu ui y ó
su au bit bao khi gp tht bi trờn tỡnh trng. V bui chiu hụm y, may mn thay,
chng ó gp c mt rng thụng ang yờu. Chng ó m lũng mỡnh nhn ly
bi hc ng trong bi th ca phn thụng vng. Bi tỡnh yờu cú bao gi mt. Xuõn
Diu ó t rt p cnh ny: Khụng gian ó thnh mt iu vng mờnh mụng: nng
vng nhum vng nhng cõy, v phn thụng vng ln vng trong nng. Bỳt phỏp tr
tỡnh lóng mn ca ụng đã đợc tập trung cao độ ở truyn ngn ny.
Khao khát tình yêu cuộc sống, trải lòng ra đến tận cùng với tình yêu. Đó là âm
hưởng chính trong truyện ngắn và tuỳ bút của Xuân Diệu trước Cách mạng. Nhưng bên
cạnh âm hưởng chính đó còn một mảng đề tài nữa mà Xuân Diệu hướng tới. Đó là số
phận của những con người nhỏ bé, cam chịu và nghèo khổ. Chúng tôi nghĩ rằng ở mảng
đề tài này văn xuôi Xuân Diệu có nhiều đóng góp thiết thực hơn. Bởi vì tình yêu, những
trạng thái của tình yêu đã được Xuân Diệu nói đến nhiều trong thơ một cách tài hoa và
đạt hiệu quả hơn. Xu hướng văn chương lãng mạn nhưng không tách rời hiện thực đã tạo

cho văn xuôi của ông một bộ mặt đầy đủ và hoàn chỉnh hơn.
Kiếp người lầm than đang lay lắt trong cảnh đói nghèo tủi nhục được Xuân Diệu
thể hiện khá rõ trong truyện Thương vay.Đây là loại truyện không có cốt truyện, truyện
giống như một tuỳ bút tâm tình, hay gọi theo cách của tác giả là “truyện ý tưởng”. Hình
ảnh bà lão nhà quê nghèo khổ nhập nhoà trong bóng tối chỉ là một cái cớ để tác giả có
dịp bộc lộ những suy nghĩ về tình cảm của mình: “Một người bằng thịt bằng xương - thịt
khô và xương gầy - với một lịch sử chắc chắn khổ sở hết chín phần mười, với chút sống
còn sót giữa lòng, như hòn lửa nhỏ còn lấp dưới tro Bao giờ lòng thương lại chẳng có
duyên cớ ở trên cái đời cùng cực, đau đớn, khốn khổ, rách rưới, cô đơn này ”.
Trong Toả nhị kiều tác giả lại hướng ngòi bút của mình vào một cảnh ngộ khác. Đó là số
phận mờ nhạt của hai chị em sống ở đất Hà Thành. Họ sống đấy mà như không hề có
mặt trên đời. Bao bọc chung quanh họ là một không khí tù đọng, tẻ nhạt, “Không ánh
nắng, chẳng hương người”. Cả cuộc đời của hai cô gái chỉ là những buổi chiều dài vô
vọng nối tiếp nhau, lẫn trong mù sương. Một buổi chiều triền miên của sự vật và của
linh hồn. Tác giả như cảm nghe được tất cả sự mờ nhạt và vô nghĩa của cuộc đời hai cô
gái. Giáo sư Nguyễn Lương Ngọc trong hồi ký Nhớ bạnđã kể lại rằng Toả nhị kiều được
viết từ một tình cảnh có thật mà ông là người trong cuộc. Hồi đó Nguyễn Lương Ngọc ở
trọ trên gian gác trong căn nhà của gia đình một viên chức. Ông đã sống ở đó một thời
gian khá dài nhưng không hề chú ý đến hoàn cảnh của hai cô gái con chủ nhà. Nhưng
chỉ một đôi lần đến thăm Nguyễn Lương Ngọc, Xuân Diệu đã để ý đến cuộc sống của
hai cô gái. Cuộc đời buồn tẻ của hai chị em làm Xuân Diệu xúc động, và đã trở thành
nguồn cảm hứng để ông viết nên Toả nhị kiều. Nhà thơ tù nhân của chữ Tình (Chu Văn
Sơn), có trái tim cháy bỏng, luôn thèm khát sự sống tới cuồng nhiệt đó tỏ ra rất ghê sợ
lối sống nhàm tẻ, tù đọng trong “cái Ao Đời bằng phẳng” giết chết con người trong lúc
sống. Toả nhị kiều là hình ảnh giàu sức gợi về những cuộc đời nhạt nhẽo, vô vị. Ở đây,
người viết tách ra khỏi nhân vật, xem nhân vật là đối tượng quan sát, còn tâm tình, cảm
nghĩ của người viết là khúc xạ, là kết quả những âm vang toát ra từ hai cuộc đời lỡ nhịp,
tẻ nhạt. Xuân Diệu viết văn như làm thơ. Cốt truyện chỉ như cái cớ khơi gợi và mở ra
những hướng liên hệ, suy tưởng. Truyện ngắn của ông luôn có một dòng cảm nghĩ trôi
chảy như con suối nhỏ róc rách đem đến sự trong trẻo tươi mát trong tác phẩm. Điều

ông quan tâm là sự tự bộc lộ và giãi bầy tâm trạng. Những trạng thái tâm hồn thay thế
cho các sự kiện, biến cố li kỳ của truyện tự sự thông thường. Điều này đã làm biến đổi
chủ thể sáng tạo để biến người viết văn xuôi trở thành một thi sĩ trong khả năng cảm
nhận và tự thể hiện mình. Những so sánh tạt ngang với những liên tưởng bất ngờ, đa
chiều ở những đoạn trữ tình ngoại đề, luôn được mở rộng trong truyện ngắn Xuân Diệu,
đã tạo nên sức hấp dẫn: “Tôi thương hai cô như hai con vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh
khi chiều giăng lưới qua muôn gốc cây”, “nhiều lần theo một liên tưởng nhanh chóng,
tôi nghĩ đến những cụ già còn đôi chút sức lực ngày ngày quanh quất giữa bàn ghế trong
nhà”, “tôi lại nhớ những khi xế trưa, khi nắng ngó vào bếp nhà tôi. Nắng vàng phai lặng,
chán ngán làm sao!”. Lúc ấy mọi người đều cảm thấy mơ hồ nỗi nhạt nhẽo của ngày này
tiếp ngày nọ” (Toả nhị kiều). Một số truyện ngắn như Đứa ăn mày, Chó mèo hoang, Cái
hoả lò…Cũng thể hiện sự hoà cảm xót xa với những kiếp người lầm than đang vất vả
trong cảnh sống tối tăm, bị đời hắt hủi và khinh rẻ. Cái hoả lò gần như là một tự truyện
về tuổi nhỏ của Xuân Diệu. Cảnh nghèo túng, thua thiệt và những ngang trái trong kiếp
lẽ mọn của người mẹ đã ảnh hưởng khá nhiều đến cuộc đời Xuân Diệu. Nó khiến cho
ông sớm già dặn, sâu sắc và dễ đồng cảm với những phận người nhỏ bé khi bước vào
đời.
Là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, Xuân Diệu cũng đồng thời là
một cây bút viết truyện ngắn có những thành công đáng ghi nhận. Hai tập Phấn thông
vàng và Trường ca đã giúp cho văn đàn Việt Nam những truyện ngắn mang hương sắc
riêng, những truyện không có chuyện mà chan chứa chất thơ. Cùng với các nhà văn
thuộc dòng truyện ngắn lãng mạn, Xuân Diệu đã góp phần kiến tạo nên kiểu loại tự sự -
trữ tình trong văn xuôi hiện đại Việt Nam.
II. Bút ký Xuân Diệu - Sự hoà quyện giữa chất thơ và hiện thực cuộc đời
Sáng tác văn xuôi là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp sáng tạo của Xuân
Diệu. Sau Cách mạng, ông không viết truyện ngắn mà chỉ tập trung ngòi bút vào phê
bình tiểu luận và bút ký. Bằng vốn hiểu biết phong phú và sự tinh tế nhạy cảm của nhà
thơ, bằng lối viết luôn tràn đầy nhiệt tình, tràn đầy cảm xúc, các sáng tác của Xuân Diệu
có một tiếng nói riêng đáng chú ý. Khối lượng lớn những sáng tác văn xuôi của Xuân
Diệu đã phần nào nói lên tâm sức của ông dành cho bút ký và tiểu luận phê bình

(1)
.
Cách mạng đã đem lại cho cuộc đời sáng tạo của Xuân Diệu một nguồn sinh lực
mới. Tâm hồn ông được mở rộng về phía cuộc đời rộng lớn của nhân dân, của đất nước.
Trước kia Xuân Diệu chỉ biết sống và viết dựa trên những cảm xúc tự nhiên, tự phát của
mình. Giờ đây nhà nghệ sĩ đã đến với Cách mạng, hoà nhập và gắn bó hết lòng với thực
tế đời sống đầy khó khăn gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng, đầy ắp những sự kiện và
mang một ý nghĩa mới. Cái tôi cá nhân riêng lẻ hoà với cái tôi công dân một cách hoàn
toàn tự nguyện. Xuân Diệu hăm hở sống, hăm hở đi, hăm hở viết. Hàng loạt những tuỳ
bút, ký sự đã tạo thành một dòng chảy liên tục, phản ánh bộ mặt phong phú, sôi động
của Cách mạng Việt Nam trong suốt mấy chục năm lịch sử. Ngay trong năm đầu tiên
của chính thể mới, tập bút ký Việt Nam nghìn dặm của Xuân Diệu ra đời là một minh
chứng sinh động cho ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước được ẩn chứa trong phần sâu
xa của tâm hồn người nghệ sĩ. Ông vừa là người nghệ sĩ vừa là một thư ký trung thành
của thời đại. Bút ký của Xuân Diệu đã ghi lại hàng loạt những sự kiện lớn của đất nước,
những ngày hội trọng đại của dân tộc ta. Tất cả đều mới mẻ và tràn đầy niềm tự hào:
“Quốc kỳ mới, quốc ca mới, gươm súng mới, bộ đội mới, Dân quốc mới, Chính phủ
mới: Hàng triệu trái tim đã đến dự ngày độc lập cũng đem đến một dòng máu như lửa
mới nhen, như trăng mới mọc”; và “trong nắng thu sáng chói đến gay gắt, dưới trời xanh
có một ngọn cờ đỏ sao vàng chót vót nổi bật, một cảm giác mùa xuân dân tộc lan đi trên
ngọn sóng người”. Từ những ngày Tổng tuyển cử đầu tiên ở Hà Nội đến đại thắng mùa
xuân 1975, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Không chỉ nói đến những sự kiện
lớn của đất nước, Xuân Diệu còn thể hiện và bộc lộ con người mình rất rõ rệt qua những
thiên tuỳ bút đầy chất thơ của một thi sĩ giàu kinh nghiệm. Xuân Diệu trải lòng mình và
gửi gắm biết bao tình ý trong những trang viết của mình. Bí quyết lớn nhất dẫn đến
thành công của Xuân Diệu là ở trái tim có sức yêu mãnh liệt và một tâm hồn luôn rộng
mở, gắn bó với cuộc đời, với đất nước, với nhân dân. Hai bài bút ký Cùng xương thịt với
nhân dân in trong tập Đi trên đường lớn và Về lại quê Nam in trong tập Mài sắt nên
kim hội tụ nhiều điểm mạnh và tương đối tiêu biểu cho bút pháp của ông. Cùng xương
thịt với nhân dân cũng chính là cái tứ trong một bài thơ nổi tiếng, quen thuộc với nhiều

người của Xuân Diệu, bài Đêm hành quân. Xuân Diệu đã nói đến những bước đi, những
bước chuyển biến trong nhận thức của mình qua hai tháng đi thực tế ở khu Bốn. Không
chỉ là chuyến đi thực tế “cưỡi ngựa xem hoa” mà đó là những ngày hoà mình thực sự với
cuộc sống của nhân dân ở một vùng đất bị chiến tranh tàn phá ác liệt. Tác giả đã đi đến
vài chục đêm từ Thanh Hoá đến Nghệ An, từ Vinh đến Nam Đàn, Thanh Chương, Đô
Lương, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn: “Đã mấy khi tôi thức trọn với núi sông như những lúc hành
quân đêm này Tôi biết những khoảng tờ mờ gần xa trong đêm kia làm gì, ấp ủ chuẩn
bị những gì. Tôi thấy hết trong đêm, bởi trái tim tôi sáng Tôi cùng một xương thịt với
nhân dân, với đất nước”. Thực ra cái khát khao muốn gắn bó, hoà hợp với cuộc đời đã là
nỗi ám ảnh của Xuân Diệu từ khi mới bước vào đời. Nhưng dưới chế độ cũ, cá nhân
không hoà hợp được với xã hội, tác giả thu mình trong “chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”.
Ngày nay Cách mạng đã đưa ông vào giữa lòng đời sống nhân dân. Xuân Diệu đã nói
đến sự thay đổi ấy một cách thật là gan ruột và thấm thía. Về lại quê Nam, bài bút ký -
thơ này được ra đời sau chuyến về thăm quê của tác giả sau một cuộc xa cách dài ba
mươi năm. Bằng một giọng điệu khi sôi nổi thiết tha, lúc trữ tình sâu lắng, những liên
tưởng và suy nghĩ được diễn đạt sinh động và nhiều tầng biến hoá. Chế Lan Viên - một
người sắc sảo và kỹ tính của làng văn đã gọi Xuân Diệu là “ông chúa bút ký”. Xuân
Diệu là một trong những văn nghệ sĩ tên tuổi có mặt ngay từ những ngày đầu xây dựng
nền văn nghệ Cách mạng và kháng chiến. Kỷ niệm về cái thuở ban đầu đáng ghi nhớ ấy
đã được Xuân Diệu tái hiện lại rất đầy đủ và chi tiết trong các bài ký: Đại hội văn nghệ
kháng chiến 1948. Những kỷ niệm chung quanh tạp chí Văn nghệ. Đó là những tư liệu
văn học vô cùng quý giá, mà chắc chắn sau này khi viết lịch sử văn học, khi dựng lại
bức tranh của đời sống văn học không thể bỏ qua.
Trong số những văn nghệ sĩ thành danh từ trước Cách mạng, Xuân Diệu là người
nói đến sự thay đổi, sự chuyển biến trong tâm hồn và tư tưởng một cách đầy đủ, kỹ
lưỡng nhất. Trong tiểu luận Những bước đường tư tưởng của tôi, ý thức công dân, ý
thức Cách mạng đã được biểu biện tích cực trong niềm vui lớn của sự giải phóng, sự đổi
đời. Ông đã là người sớm nhất, gắn tư cách công dân và người nghệ sĩ một cách trọn
vẹn. Ngay trong tiến trình của Cách mạng, nhà thơ mới tiêu biểu nhất cho cái tôi, cho
tình yêu cá nhân lại chính là người sớm nhập cuộc vào Cách mạng, vào đại chúng, vào

số đông để trang trải lòng mình ở tư cách người công dân một nước độc lập và hướng tới
một cái ta chung của cộng đồng là Tổ quốc và Nhân dân. Xuân Diệu lại bước vào một
cuộc “nhận đường” mới. Nhận đường trở về với nhân dân, nói tiếng lòng của nhân dân.
Câu hỏi lớn trở thành một nỗi day dứt nơi ông đó là: “Làm thế nào một thi sĩ trước Cách
mạng chưa có chủ nghĩa Mác - Lênin trong sáng tác của mình không chết (nói về mặt thi
sĩ) không chuyển ngành, không bỏ thơ dù để sang một nghệ thuật khác mà lại trở thành
một thi sĩ trong cách mạng, của cách mạng?”. Xuân Diệu là người nói được một cách
thấm thía về thành quả và công ơn của Cách mạng đối với toàn thể dân tộc, trong đó có
lớp trí thức, văn nghệ sĩ như ông. Xuân Diệu cũng nói đầy sức thuyết phục về sự đổi đời
của cả một lớp người. Có thể nói cả một thế hệ văn thơ, từ Thế Lữ, Tú Mỡ, Lưu Trọng
Lư, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, rồi Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao đều
đã nói chân thành về hiện tượng “lột xác” này. Nhưng có lẽ Xuân Diệu là người nói
được đầy đủ hơn cả qua Những bước đường tư tưởng của tôi.
Qua bút ký của Xuân Diệu sau Cách mạng có thể thấy rõ một điều là hiện thực
mới đã đem lại sự tươi trẻ trong tâm hồn, đồng thời cũng đem lại sự già dặn cho trí tụê
và tư tưởng của nhà thơ. Cảm xúc tràn đầy và cái tôi chính luận sâu sắc đã làm nên giá
trị cho các trang bút ký của ông. Những đóng góp của Xuân Diệu cho nền văn học nước
nhà vô cùng to lớn về nhiều mặt. Ông thực sự là cây bút tiêu biểu của nền văn học
Việt Nam hiện đại. Ở nơi “yên tĩnh đời đời”, Xuân Diệu có quyền tự hào về những điều
ông đã làm được cho nhân dân, cho quê hương đất nước mà ông suốt đời gắn bó

×