Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đồng quê, dân quê, tình quê trong sáng tác của Phi Vân Phần 1. ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.73 KB, 8 trang )

Đồng quê, dân quê, tình quê
trong sáng tác của Phi Vân
Phần 1







1. Đề tài nông thôn trong sáng tác của các nhà văn không phải là điều gì
mới lạ. Tuy nhiên, để khắc họa được một bức tranh quê với đủ các diện mạo,
màu sắc của nó không phải là điều dễ dàng. Có thể nói, phần lớn chủ đề tác
phẩm của các nhà văn miền Nam đều gắn liền với đời sống nông thôn. Nhưng,
đọc những tác phẩm của họ mà chúng ta có thể nhận diện được một bối cảnh
nông thôn miền Nam toàn diện, thì có lẽ không ai khắc họa được rõ nét cho
bằng Phi Vân. Phi Vân (1917-1977), nhà văn xuất thân trong một gia đình trung
lưu ở Bạc Liêu, đã có ba tác phẩm viết về miền quê Nam Bộ, mà có lẽ nhiều
độc giả cũng đã biết đến. Đó là bức tranh quê toàn diện: Đồng quê, Dân
quê và Tình quê. Bản thân Phi Vân là một nhà báo lớn thời ấy. Ông có điều kiện
đi và tiếp xúc nhiều, bởi đó ông mới có được 3 tác phẩm quý giá này. Đồng
quê được Lâm Thế Nhơn (tên thật của Phi Vân) cho xuất bản năm 1942. Dân
quê và Tình quê đều được xuất bản năm 1949. Trong ba tác phẩm này, Đồng
quê được nhiều người biết đến hơn - Đồng quê được giải nhất cuộc thi văn
chương của Hội khuyến học Cần Thơ 1943.

2.1. Đồng quê - thiên tiểu thuyết phóng sự - có hai phần: phần thứ nhất
bao gồm nhiều phóng sự ngắn; phần thứ hai là một phóng sự dài. Ở phần thứ
nhất, có các phóng sự ngắn đáng chú ý như: Muốn ăn trứng nhạn, Châu
Xương, cử thanh long đao!, Trao thân con khỉ mốc!, Cành tre cũ gặp gió xưa,
Đổng Trác biết sập giàn, Ông tướng “thầy Ba”, Đạo, Quỷ vương, Tiếng hò trong


đêm vắng, Chợ hay quê?, Các trò ơi! Thầy phen này thọ tử, Sanh nghề tử
nghiệp. Ở phần thứ hai, một phóng sự dài Dưới đồng sâu có những tiểu
truyện: Câu cá, Cá mắc câu, Tôn sư, Đạo phù thần, Ôm mà xơ rốp, Mà ha xơ
rốp, Oan !, Nghiệt!, Muộn màng, Tử thù, Trăng thah, Hận nghìn đời, Đoạn
kết

Trong các phóng sự ngắn, hình ảnh một vùng quê sông nước bao la với
vô số những sản vật mà thiên nhiên ban tặng: trúc, rái, chồn, rùa, kì đà, ong
mật, cá tôm đã quy tụ về đây những con người thiện có, ác có, nhưng vẫn
toát lên một nét quê mùa, chất phác, và những sinh hoạt cũng mang tính đặc
thù của một vùng đất: di chuyển bằng ghe xuồng, sinh hoạt tinh thần là vọng cổ,
điệu hò, câu hát (Muốn ăn trứng nhạn)

Vùng đất hoang sơ buổi đầu con người mới đặt chân đến khai phá lại là
mảnh đất tốt cho bọn ông đồng, bà cốt, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người
dân, cộng thêm vẻ huyền bí của tự nhiên buổi đầu mà tha hồ ăn trên ngồi trước
(Châu Xương, cử thanh long đao! Ông tướng “thầy Ba”). Vùng quê sông nước,
tuy là ít lễ nghi, phong tục, nhưng không phải là không có những tập tục ràng
buộc quá khắt khe, khiến cho nhiều người phải bực mình. Ông Hương Ba nào
đó đại diện cho nhà trai, tuy rằng cũng khéo “nhẫn”, nhưng cuối cùng cũng
không chịu được những đòi hỏi quá quắt của nhà gái, đành phải cộc lốc trả lời:
“- Trao thân con khỉ mốc!” rồi cho “anh tài công tàu giựt chuông mở máy”
(Trao thân con khỉ mốc!). Cũng như bao vùng quê khác, đời sống của người
dân nghèo luôn chịu cảnh thua thiệt do bọn hương chức, hội tề làng, xã dùng
thế lực và tiền bạc để bóc lột sức lực, tình cảm của họ hoặc đàn áp họ. Miền
quê Nam Bộ buổi đầu mới đến khai phá, người dân lao động cũng không tránh
khỏi tình cảnh khốn quẫn ấy (Cành tre cũ cặp giò xưa).

Sinh hoạt tinh thần của họ cũng nghèo như đời sống vật chất của họ, dù
là được thiên nhiên “hào phóng” ban tặng cho miếng ăn. Vốn không lo toan

nhiều đến đời sống vật chất, mà có lo hơn thì cũng chẳng được gì; bù lại, họ
luôn khao khát có được niềm vui, cuộc sống tinh thần, từ những buổi cúng đình,
có ghe hát đến giúp vui: “Đình đang buổi lỳ yên. Người ta dọn sẵn sàng tất cả,
chỉ chờ ghe hát đến là lên giàn” (Đổng Trác biết sập giàn), hoặc những buổi
xem diễn tuồng ở rạp trở thành thói quen không thể thiếu:

“Rồi tối đến, người ta đem theo cắc bạc bỏ vào cái thùng của cô Tám, con
ông Hội trưởng và vô để xem một đệ nhất anh hùng của thời Tam Quốc!

Đêm sau, rồi đêm sau

Thói quen, thằng Tám Méo cũng quen. Cả xóm đều quen. Cả Cà Mau
quen luôn! Hát bóng nói ở các tỉnh lớn dễ đã được hoan nghinh hơn!” (Chợ hay
quê?).

Buổi đầu đến khai phá, con người chắc có nhiều tâm sự; vả lại, cuộc sống
đơn điệu gói gọn trong hai chữ “mần ăn”, nên rượu là người bạn thân thiết với
dân lao động. Rượu đã làm nên lễ, nhưng rượu cũng gây ra bao nhiêu tai họa.
Rượu thắt chặt quan hệ tình cảm, làm người ta hiểu đạo hơn. Nhưng quá chén,
quá lời dễ làm cho bạn biến thành thù (Đạo).

Một chút văn minh đô thị đến sớm có thể làm cho thiên hạ ngỡ ngàng,
thiếu thái độ phản ứng tích cực. Nhưng điều này, phải đợi thêm một thời gian
nữa (Quỷ vương). Tiếng hò có lẽ đáp ứng được nhu cầu chia xẻ tâm sự của
con người ở miệt đồng quê sông nước. Đôi khi người ta dùng nó như một thứ
dẫn dụ tình cảm. Đã là tình cảm, con người khó lòng mà cưỡng lại, và không
lường hết mọi hậu quả (Tiếng hò trong đêm vắng). Người dân quê ở đây thiếu
chữ, nên bị đám thầy pháp lộng hành bày vẽ. Nhưng họ vẫn ham học, hiếu học:
“Tuy nhiên trong các nghề kiếm ăn, nghề “dạy học” vẫn giữ một địa vị quan
trọng ở đồng, đâu đâu cũng không dám coi thường. Thế nên, là thầy giáo thì ở

đâu cũng dám tới” (Các trò ơi! Thầy phen này thọ tử).

Nhờ có chữ, người dân miền quê dần bớt được cái “quê mùa”, nhưng một
thời họ đời sống của họ đã bị “khống chế” bởi bọn pháp sư, trong đó có cả thầy
tà, thầy bói. Dân gian có câu: “Sanh nghề tử nghiệp” cũng là đúng. Còn luật
nhân quả thì nói “Gieo gió thì gặt bão”. Câu chuyện Sanh nghề tử nghiệp của
Phi Vân kết thúc phần thứ nhất của phóng sự Đồng quê như gián tiếp phê phán
một lớp người ác bên cạnh lớp người hiền, buổi đầu đã đến khai khẩn vùng đất,
mà theo ông họ cũng có một chút công nào đó cho sự góp phần khai phá, ngoài
cái tội ăn bám:

“- Vậy mà cũng đoán số! Sao mày không đoán cái số mày chết về tao,
thằng kia?

Hai hôm sau, “Mét Văn Quang” đoán số mình không sống nổi nữa, nên đã
trút linh hồn tại xứ Năm Căn: cái xứ mà “Mét” đã phụ vào một chút công làm trôi
mất tiếng quê mùa!”.

Phần thứ hai - phóng sự dài Dưới đồng sâu nói về tình cảnh mẹ góa con
côi của anh chàng nông dân nghèo có tên là Sáu. Bà mẹ hiền và bản chất của
Sáu cũng chân chất, lại có thêm biệt tài đờn ca cổ và sự cần cù chịu khó của
Sáu, nên cuộc sống của họ ban đầu khi đến với vùng đất mới xem ra cũng dễ
chịu, dù ở đâu thì họ cũng bị bóc lột. Điều này Sáu cũng ý thức rõ: “Tôi đến đâu
cũng được người ta niềm nở, ân cần Tiếng ca giọng đờn làm trung gian gây
ra biết bao nhiêu tình thân ái đậm đà”. Nhưng sự thiếu học ở vùng đất mới, đã
đẩy Sáu và những gia đình khác vào một đam mê tai họa đó là “đạo búa”, để rồi
phải chứng kiến cái chết thảm thương của cô Yến, con của lão thầy pháp Mạnh.
Đó cũng là thực trạng đau lòng ở vùng đất mới, vì kẻ thù của người nông dân
không chỉ có địa chủ mà còn là giới thầy pháp, ông đồng bà cốt. Sáu lại còn
thêm cái tính đêm ngày cứ “lo đờn địch ca xang”, nên hơi chểnh mảng việc

đồng áng, để rồi cái nghèo nó vẫn đeo đẳng quanh quẩn, như lời nhận xét của
chủ điền: “Thím coi, đêm ngày nó cứ lo đờn địch ca xang. Thím la rầy nó chớ!
Tôi nghe đâu nó lại nhà ông thầy pháp Mạnh thường lắm. Đố khỏi nó bị người
ta dụ dỗ, sa đà rồi quên hết việc ruộng nương”. Cái gì đến rồi cũng sẽ đến. Bản
chất của chủ điền là làm giàu trên công sức của nông dân; còn “tình nghĩa” nếu
có là phương tiện để đạt được mục đích. Sự giúp đỡ của chủ điền đối với mẹ
con anh Sáu chẳng qua là lòng ham muốn chiếm đoạt thể xác mẹ của Sáu. Nên
kết cục là gia đình anh Sáu tan nát: mẹ chết, còn anh phải ngồi tù, vì sự ham
muốn bất chính của kẻ có quyền lực. Trước khi chết, mẹ anh cũng kịp nhận ra
điều này: “- Người đánh má là bà chủ! Thảm thiết chưa con, nhục nhã chưa
con! Thằng Hai Hóa lúc nãy đi rồi, ông chủ lại đây, ổng ngồi lân la chuyện
vãn, ổng mở lời chọc ghẹo má ổng ôm đại má thì bà chủ ở đâu nhảy xổ
vào Bả níu đầu má, bả chửi, bả rủa cùng với con ở trói má vô gốc cột, đánh
má, đập má tơi bời Mà con ơi , má đâu có tội tình gì Con con !”. Ở tù ra,
đi biệt xứ, Sáu cũng đã có được ít chữ nghĩa, hiểu biết về cuộc đời và có cái
nhìn đời một cách sâu sắc hơn, đúng như anh nhận định: “Năm năm trong tù,
tôi học rành chữ quốc ngữ và mon men được chút đỉnh chữ Tây. Mười năm biệt
xứ khiến tôi có dịp dày dạn với cuộc đời và nới rộng tầm con mắt”. Từ sự nhận
thức này, ông không oán trách họ, mà có cái nhìn độ lượng về họ: “Họ không
phải là người gây nên tội ác, họ chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh xã hội và của
một thời kì ”.

2.2. Dân quê là một truyện dài khái quát được tình cảnh của người dân
nghèo dưới ách thống trị của bọn hội đồng, hương quản, ở ấp Bình Thạnh, làng
Long Sơn, quận (huyện) Thanh Bình, thuộc vùng quê Nam Bộ. Hiện thân của
sự xung đột này: một bên là ông hội đồng Thế, có sự trợ lực của bọn hương
quản, còn bên kia là dân nghèo, mà điển hình là gia đình ông giáo Thiện.

Ông hội đồng Thế không từ bỏ một thủ đoạn nào để thực hiện cho được
những âm mưu đen tối và tội lỗi của mình. Từ chuyện cướp đất của nông daan

ấp Bình Thạnh để làm của riêng, biến họ thành tá điền của mình, lúc ông còn
làm hương cả trong làng, với thủ đoạn: “Để cho một đám dân khai phá đất ấy
gần xong xuôi, ông mới vào đơn xin khẩn. Ông bảo đảm người kia làm mướn
cho ông, chính ông xuất tiền nuôi họ. Ông vận động thế nào mà đến khi ông
đứng địa bộ hẳn hoi, đám dân mới hay là tự thuở giờ, họ làm mọi không công
cho ông hương cả ”, đến thủ đoạn hại gia đình ông giáo Thiện phải có người
tù tội, làm cho em rể giáo Thiện vợ chồng phải li tán vì phải ở tù để trừ tiền đóng
phạt: “Thợ Tám không nỡ để anh vợ mình mang họa tiêu tan sự nghiệp, đánh
liều làm đơn nhận tội về mình”.

Tội ác của ông hội đồng Thế không dừng lại ở đó. Ông còn tìm kế để thỏa
mãn lòng ham muốn dục vọng của ông và chánh hương quản, bằng cách lập
mưu kế để ông cưỡng hiếp được em giáo Thiện là vợ của thợ Tám; còn thầy
hương quản thì ngủ được với vợ của tằng khạo Lành. Sự việc đổ bể ra, khi
chánh hương quản bị khạo Lành chém, thì hội đồng Thế đã dùng tiền ém nhẹm,
và ép khạo Lành man khai cho giáo Thiện mướn chém, để hương quản làm tờ
phúc bẩm về trên đưa ông giáo Thiện và khạo Lành vào tù, còn bọn chúng thì
nhân đó xin ban thưởng. Thật là quỷ kế của bọn thống trị làng ấp: “Tờ phúc bẩm
gởi đi rồi, thầy nằm nhắm mắt lại hả hê: “Như vậy thế nào thằng cha giáo Thiện
và khạo Lành cũng bị ở tù chung thân. Thằng cha giáo Thiện bị tù, ông hội đồng
sẽ mang ơn mình nhiều hơn nữa, ông sẽ mở rộng túi đưa cho mình như lời ổng
hứa. Khạo Lành vô khám, mình mới được tự do lên xuống với vợ nó ”. Rồi vụ
này, mình làm đơn xin thưởng mề đay, chắc chắn không còn hụt nữa ”.

Tức nước thì vỡ bờ. Tình cảnh nông dân đã đến tận cùng của sự ngột
ngạt. Chàng thanh niên Tâm, con ông giáo Thiện, đã nghĩ tới thù nhà mà định
liều mạng đổi mạng: “Dưới cái chế độ bất công ấy, cháu chỉ còn có cách liều
mình. Dầu cháu không giết được chúng đi nữa, chúng nó cũng tởn tới già và
không còn dám húng hiếp ai ”. Nhưng, điều ấy không xảy ra vì sự giác ngộ của
dượng Tám với Tâm: “Phải làm sao tận diệt cho được chế độ đó, tức nhiên, họ

sẽ không còn. Chế độ đó bị tiêu diệt là mình đã trả thù - không phải chỉ cho
riêng mình - mà cho tất cả dân quê của xứ sở ”; Hơn nữa, vì tình yêu trong
sáng và tiến bộ của Quyến, con gái ông hội đồng, Tâm đã có một cách hành xử
“hợp lí” hơn, khi anh cùng dân chúng bắt trói hương quản và hội đồng Thế, và
đốt hết giấy nợ cho dân chùng: “- Hồi nãy tôi có nói sẽ tặng cho anh em một
món quà quý giá để kỉ niệm ngày tôi đi ở tù Thì đây, món quà ấy là những
giấy nợ này mà tôi buộc ông hội đồng phải đưa hết cho tôi. Nó là dấu vết của
bao nhiêu sự bóc lột. Đời sống của anh em bị trói buộc mãi vào đời sống của
ông hội đồng cũng vì nó. Giờ không lí nào để nó còn tồn tại được nữa ”.

Kết thúc tác phẩm là quang cảnh khu ấp Bình Thạnh chìm trong biển lửa.
Nó dự báo một giai đoạn quyết liệt giữa chủ điền và nông dân. Và đó cũng là
đêm trước của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở vùng quê Nam Bộ nói
chung: “Từ đó, ấp Bình Thạnh âm ỉ mãi cho đến ngày cách mạng nổ bùng ”.

2.3. Tình quê lại là một truyện dài năm chương, khắc họa một tình cảm
thủy chung của một đôi trai gái không “môn đăng hộ đối”. Đó là mối tình của cô
Nhạn, con gái ông Hương kiểm với Giác, anh chàng nông dân nghèo, tình
nguyện đi ở rể theo sự “cam kết hai năm” với cha cô Nhạn. Tuy nhiên, với bản
chất coi trọng tiền của hơn người, ông Hương kiểm chỉ nghĩ tới chuyện lợi dụng
công sức của Giác hơn là quan tâm đến hạnh phúc cho đôi trẻ. Nên khi thấy có
quyền lợi nào hơn thì ông sẵn sàng phá bỏ sự cam kết, bất chấp lẽ phải và đạo
lí, mà ngay cả vợ con ông cũng không thể nào chịu nổi: “Ông ác quá, tôi làm
sao chịu nổi tiếng đời?”.


×