Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đối thoại Âu-Á: Lev Tolstoi và Lão tử Phần 1 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.85 KB, 10 trang )

Đối thoại Âu-Á: Lev
Tolstoi và Lão tử
Phần 1







Các mối liên hệ với phương Đông của Tolstoi cho đến tận thời gian gần đây vẫn
được xem xét chủ yếu từ góc độ nhà văn vĩ đại này đã đem lại gì cho phương Đông, còn
mối liên hệ ngược lại thì các nhà nghiên cứu ít quan tâm.
Trong khi đó, Tolstoi luôn luôn suy nghĩ về vị trí của nước Nga đứng giữa châu Âu
và châu Á, cho đến tận cuối đời vẫn giữ mối quan tâm sâu sắc đối với phương Đông, cố
gắng hiểu tâm hồn của nó, những cơ sở của văn hóa phương Đông. Trong Thư gửi một
người Trung Quốc nổi tiếng (1906), ông suy nghĩ về sứ mạng lịch sử của các dân tộc Trung
Quốc, Ba Tư, Ấn Độ, theo ý ông, các dân tộc này có sứ mệnh chỉ ra cho nhân loại thấy lối
thoát ra khỏi “tình trạng quá độ” của mình. Trò chuyện với nhà văn Nhật Bản Tokutomi
Roka, Tolstoi cụ thể hóa cách hiểu của ông về thiên chức của nước Nga và các dân tộc
phương Đông, trong khi khẳng định rằng sứ mệnh này nằm ở chỗ bảo đảm các điều kiện
trong đó, “con người có được cuộc sống thực sự”, bởi vì sự tồn tại trong những điều kiện
mà “nền văn minh đạt được bằng sự giúp đỡ của máy móc, trên thực tế chẳng có giá trị gì
hết”
(1)
.
Trong khi hướng về di sản tinh thần của phương Đông cổ đại, Tolstoi thấy ở đó
nhiều điểm đồng điệu với cái mà ông đã trăn trở trong cuộc tìm kiếm đầy day dứt một chân
lý phổ biến. Nhưng chính “cái cung cách phương Đông” này trong tư duy và tinh thần nhà
văn hào lại bị lên án trong một thời gian dài.
Trong không khí những thay đổi căn bản đang diễn ra hiện nay trong xã hội chúng


ta, những kiểu tiếp cận cũ khi nghiên cứu di sản sáng tạo của Tolstoi đang được duyệt xét
lại; phương Đông trong thế giới sáng tạo của ông ngày càng thu hút sự chú ý nhiều hơn của
giới nghiên cứu. Điều này, đến lượt mình, lại gây ra những tranh luận nóng bỏng xung
quanh thuộc tính Âu-Á của văn hóa Nga.
Về bản chất, nước Nga là một đất nước Âu-Á, vị trí địa - chính trị và địa- kinh tế này
chế định cả đặc trưng văn hóa của nó. Không phải ngẫu nhiên mà những người theo thuyết
Âu-Á coi nền văn hóa Nga không đơn giản là một phần của văn hóa châu Âu mà là một nền
văn hóa Âu-Á độc đáo, đã hấp thụ vào trong mình những thành tựu của cả hai dòng chảy vĩ
đại của văn minh thế giới - phương Tây và phương Đông. S. Kliuchnhikov viết: “Chiều kích
Âu-Á của văn hóa Nga - đó không đơn giản là đề tài châu Á được phản ánh trong sáng tác đa
dân tộc của các nhà văn nước ta. Đó còn là tư tưởng châu Á trong quan hệ của nó đối với
châu Âu, tư tưởng này xuất hiện như một viễn cảnh mới đối với nước Nga”
(2)
.
Tư tưởng này tưởng chừng không thể hồ nghi, song có một quan điểm đối lập không
khoan nhượng, xem tư tưởng đó từa tựa như “thuốc súng” đối với nước Nga: phái Âu-Á
“muốn biến con người Nga thành một người Á lai Âu và nhất thiết thúc đẩy nó đi theo “con
đường đặc biệt”. Một trong những trí thức có đầu óc thiên về Tây phương hiện đại đã viết
như thế, những trí thức này đang dồn không ít sức lực để quay cả cái đầu thứ hai của con
đại bàng Nga sang phương Tây. Trong bài báo Những người Âu-Á mới, V. Stupishin khẳng
định: “Chủ nghĩa Âu-Á là “con đường đặc biệt” dẫn đến cái chết đối với nước Nga, do đó
cần phải huy động toàn bộ sức mạnh của các giá trị văn hóa dân tộc Nga như là một bộ
phận khăng khít của những giá trị toàn nhân loại chứ không phải những giá trị kiểu Á châu,
để chống lại con đường này”
(3)
.
Sự căm ghét làm mù mắt. Ngay từ trong sách giáo khoa phổ thông, chúng ta đã biết
có bốn phát kiến vĩ đại thuộc về Trung Quốc - la bàn, in sách, đồ gốm, thuốc súng.
Chaadaev đã viết trong Bức thư triết học thứ hai (1829) rằng những phát kiến này “đã đẩy
nhanh hơn cả quá trình trí tuệ nhân tính trong chúng ta”. Liệu có thể tách văn hóa phương

Đông ra khỏi văn hóa toàn nhân loại, cô lập phương Đông ra khỏi những cuộc đối thoại
giữa các nền văn minh và giữa các dân tộc hay không? Những câu hỏi này cũ kỹ đến nỗi vị
tất đáng phải bình luận chúng. Tôi chỉ lưu ý một điều là thái độ coi thường châu Á là một
điểm chung cho giới trí thức của các nước đang trên đường “hiện đại hóa”, tức là “Âu hóa”.
Phukuzawa Iukiti (Phúc Trạch Dụ Cát), một nhà cải cách nổi tiếng có đầu óc thiên về
phương Tây của nước Nhật Bản đang hiện đại hóa, sinh thời đã công bố một bài viết nhan
đề Thoát Á luận (Luận về việc từ bỏ châu Á, 1885). Sự tương đồng giữa lối tư duy của nhà
Tây học người Nhật này và của tác giả bài báo đã dẫn trên là đáng kinh ngạc. Phukuzawa
Iukiti viết “Nước ta không thể cho phép mình chờ đợi đến khi các nước láng giềng châu Á
sẽ văn minh hóa để sau đó cùng nhau phục hưng châu Á. Không, chúng ta cần kíp chạy
thoát khỏi họ và gắn bó số phận mình với các nước văn minh phương Tây và nếu như cần
trừng phạt họ (tức các dân tộc châu Á - K.R) thì chúng ta cần phải hành động như người
châu Âu hành động với họ trong những tình huống tương tự”
(4)
.
Những người Nhật Bản đương đại thấy xấu hổ vì sự tiết lộ ấy ở nhà tư tưởng của
nước Nhật Bản mới. Nhà phê bình nổi tiếng Kato Suiiti (Da Đằng Chu Nhất) gọi lời phát
biểu của Phukuzawa là “kinh khủng”
(5)
.
Các cuộc tiếp xúc giữa các nền văn minh đòi hỏi đối thoại bình đẳng. Tư tưởng về sự
ưu việt của văn minh châu Âu so với châu Á hay ngược lại không chỉ thiếu khách quan về
mặt lịch sử, nó còn phi đạo đức về thực chất. Đã có thời gian, khi mà chính châu Á, tự bao
vây mình bằng Vạn lý trường thành, kiêu ngạo về sự vượt trội của mình trước các dân tộc
khác. Việc phương Đông phát hiện ra không chỉ tài năng kỹ thuật của châu Âu mà còn cả
“tâm hồn sâu kín” của nó nữa đã là một cái mốc quan trọng trên con đường ý thức về sự
thống nhất của văn học toàn thế giới. Nền văn minh đòi hỏi các cuộc gặp gỡ và đối thoại
của các nền văn hóa khác nhau.
Cảm nhận của Tolstoi về sự bình đẳng của các dân tộc và các nền văn hóa - hoàn
toàn không phải là “nhân tạo”, “cố ý làm ra vậy” mà nó bắt nguồn từ sự nhạy cảm với toàn

thế giới của tâm hồn Nga, từ niềm tin của ông về sự gần gũi lịch sử và tâm lý giữa Nga và
phương Đông. Trả lời bức thư của nhà báo Trung Quốc Trương Chi Động vào đầu năm
1905, Tolstoi nhận xét rằng trong các nguồn cội của văn hóa Nga và Trung Quốc, có những
lý tưởng chung về lao động và đạo đức. Ông viết: “Hoàn toàn có thể đồng ý với ông rằng có
mối liên hệ tinh thần bên trong giữa hai dân tộc vĩ đại - Nga và Trung Hoa - và hai dân tộc
cần phải hợp tác với nhau”
(6)
. Trong các quan điểm về phương Đông của Tolstoi, hiển nhiên
đã phản ánh sự độc đáo Âu-Á của văn hóa Nga.
Sự gần gũi về mặt tinh thần giữa nước Nga và phương Đông được phản ánh rõ rệt
hơn cả trong quá trình tiếp nhận văn học Nga ở các nước Á châu. Thống kê văn học ở Nhật
Bản cho biết, năm 1908 là năm chấm dứt sự thống trị của văn học Anh, Pháp ở Nhật Bản.
Văn học Nga đã vượt hai nền văn học này cả về số lượng tác phẩm được dịch cũng như về
ảnh hưởng đến trí óc của độc giả Nhật Bản. Nhà nghiên cứu so sánh nổi tiếng Oota Saburo
(Thái Điền Tam Lang) viết: “Vào những năm này, khi mà cái nhìn của độc giả Nhật chuyển
hướng về phía hiện thực thực tế của xã hội và đời sống con người thì văn học Nga đã thay
thế văn học Anh. Lối tư tưởng Anh, quan điểm kiểu Anh về con người và xã hội đã không
còn đáng được dành cho sự chú ý lớn lao khi áp dụng cho hiện thực Nhật Bản nữa”
(7)
.
Nhờ có sự gần gũi về tinh thần, Tolstoi đã trở thành nhà văn được yêu thích nhất ở
phương Đông. Mahatma Gandi, người đã chọn con đường cho mình dưới ảnh hưởng mạnh
mẽ của các tư tưởng Tolstoi, gọi ông là người “của mình”. Kitamikado Dziro (Bắc Thái
Ngự Môn Nhị Lang), người đã dành cả cuộc đời mình cho việc dịch và truyền bá tư tưởng
Tolstoi ở Nhật Bản đã đặt tên cuốn sách của mình là Tôi cùng họ với Tolstoi (1981).
Ảnh hưởng của nhà văn Nga vĩ đại đến châu Á là hết sức toàn diện, nó không giới hạn
trong ảnh hưởng văn hóa nghệ thuật và tư tưởng xã hội. Sức mạnh của ảnh hưởng này hiện
diện ngay cả trong số phận của không chỉ một thế hệ trí thức phương Đông
(8)
. Trong bài báo

nổi tiếng của mình Châu Á đáp lời Tolstoi, Romain Rolland có đầy đủ cơ sở để tuyên bố rằng
“ảnh hưởng của Tolstoi đến châu Á đối với lịch sử châu Á có thể là có ý nghĩa hơn so với ảnh
hưởng của ông đến châu Âu”
(9)
. Tolstoi đã đi vào ý thức và tâm hồn của phương Đông.
Ai cũng biết, trong mối quan hệ qua lại giữa phương Tây và phương Đông thời cận
đại, đã không hề có sự bình đẳng của hai bên, không có sự tác động tương hỗ hiển nhiên
như ngày nay. Châu Âu lúc đó là mục đích của châu Á đang hiện đại hóa, còn những người
say sưa với tiến bộ ở phương Tây có cảm tưởng là ở phương Đông “lạc hậu” chẳng có gì
đáng tiếp thu. Họ coi thường văn hóa phương Đông.
Quan hệ của Tolstoi và phương Đông khác về nguyên tắc. Đây là quan hệ hai phía,
với đặc điểm là tương tác qua lại. Không chỉ phương Đông đến với Tolstoi mà Tolstoi cũng
đến với phương Đông.
Phương Đông đối với Tolstoi không phải là đối tượng nhận thức để mở rộng tầm trí
tuệ, mà điều này thì lại rất tiêu biểu cho phương Tây thời cận đại. Ông học hỏi phương
Đông, chiếm lĩnh trí tuệ của nó để phát triển thế giới tinh thần của bản thân. Có thể nói, đối
với ông, những nguồn mạch tri thức phương Đông thậm chí còn gần gũi hơn là những
nguồn mạch phương Tây. Về mặt này, đáng chú ý là trong nhật ký có đoạn chép bức thư đề
ngày 5 tháng Năm 1909 “ Trạng thái buồn rầu - không bằng lòng - rõ ràng là thuộc nội
tâm Đọc Lão Tử đối với mình rất có ý nghĩa. Thậm chí có cảm giác khó chịu, trái ngược
trực tiếp với Lão Tử: tự hào, muốn là Lão Tử”
(10)
. Nhà văn vĩ đại, được cả phương Tây và
phương Đông ngưỡng mộ, coi nhà triết học Trung Quốc cổ đại là mẫu mực đạo đức của
mình.
Điều gì làm gần gũi hai người khổng lồ của hai nền văn hóa khác loại? Điều gì
cho phép chúng ta đặt cạnh nhau những tên tuổi vốn rất xa nhau về thời gian? Vì thiếu
những điều kiện để nắm bắt toàn bộ các vấn đề phức tạp liên quan đến việc nhà văn Nga
tiếp nhận di sản tinh thần phương Đông,- đây là nhiệm vụ trong tương lai - chúng tôi sẽ
dừng lại ở các câu hỏi vừa đặt ra.

Hàng thiên niên kỷ ngăn cách thời đại của Lão Tử và Tolstoi. Niên đại ra đời
của nhà triết học Trung Quốc được xác định vào thế kỷ VI trước CN. Nhưng các cuộc
gặp gỡ trong không gian văn hóa không bị lệ thuộc vào thời gian. Làm quen với Lão
Tử trong những năm 70 của thế kỷ XIX, nhà văn Nga đã kinh ngạc: “Thật lạ lùng là
ông vẫn chưa được biết đến - (một nhà tư tưởng) sâu sắc dường bao và cả tấm áo
choàng Trung Quốc (ngôn ngữ, chữ viết)”
(11)
. Theo lời kể của những người thân của
Tolstoi, sách “Lão Tử” luôn “bên cạnh” nhà văn, dường như đã bước vào đời sống
thường nhật của ông.
Năm 1891, Tolstoi soạn danh mục các sách gây ấn tượng mạnh đối với ông trong các
chặng đời khác nhau, đã định ra ba mức độ ấn tượng: khổng lồ, rất lớn và lớn. Trong số 11
cuốn sách và tác giả mà Tolstoi đọc từ 50 đến 63 tuổi có Kinh Phúc Âm (khổng lồ), Epictet
(khổng lồ), Khổng Tử và Mạnh Tử (rất lớn), và cả “Lão Tử” với dấu “khổng lồ”.
Chúng tôi đặt từ “Lão Tử” trong dấu ngoặc kép vì đó vừa là tên sách, vừa là tên tác
giả, người đã sống ở một thời đại xa xôi, hỗn loạn, chiến tranh chết chóc, đã để lại cho con
cháu cuốn sách giáo huấn năm ngàn chữ. Người thời cổ gọi nó bằng tên của người trước tác
vì cuốn sách - đó là con người. Về sau người ta còn gọi nó là Đạo đức kinh (Sách viết về
Đạo và Đức).
Tolstoi nói về Đạo đức kinh: “Đó là cuốn sách lạ lùng. Tôi thuần túy sẽ chỉ làm việc
dịch nó (từ tiếng Anh, Pháp, Đức), mặc dù như thế sẽ rất xa nguyên tác. Tôi bắt đầu muốn
học tiếng Trung Quốc ”
(12)
.
Thật thế, hai lần Tolstoi đã tham gia tích cực vào việc dịch Đạo đức kinh sang tiếng
Nga: năm 1893, cùng với E.I. Popov và hai năm sau cùng với một người Nhật là Konisi
Masutaro ở trang trại Jasnaia Poliana. Sau 25 thế kỷ, nước Nga đã phát hiện cho mình sáng
tác của Lão Tử. Sáng tác ấy đã khuấy động trí não và khải thị cho một trong những người
thông tuệ nhất của thế kỷ XIX - Lev Tolstoi.
Còn lưu giữ một truyền thuyết về cuộc gặp gỡ giữa Khổng Tử và Lão Tử. Đó là cuộc

gặp của hai đối cực. Một người khẳng định con người sống hữu trách, biện luận tính hợp lý
của việc chia con người thành quân tử và tiểu nhân, người kia khẳng định con người tự
nhiên vì cho rằng bản chất tự nhiên thiên phú là điều căn bản ở con người. Nguyên lý tự
nhiên của đạo gia vốn xuất phát từ việc tiếp nhận tự nhiên như là bản nguyên căn bản, có
tính phổ quát nhưng không dành cho con người một vai trò nổi bật. Trong học thuyết
về đạo con người hiện diện như một trong những hiện tượng của tự nhiên, có mối liên hệ
mật thiết với tự nhiên.
Tolstoi làm quen với sách Lão Tử trong thời kỳ ông trăn trở tìm kiếm ý nghĩa
của cuộc sống, khi mà trong thế giới quan của ông đã diễn ra một bước ngoặt quan
trọng. Đạo đã rất gần gũi với tâm trạng của ông. Ông rất thích thú với phong cách tư
duy của nhà triết học Trung Quốc, tính chất hàm súc, tính cách tản mạn và tính mâu
thuẫn thoạt nhìn trong các luận bàn của Lão Tử.
Tolstoi coi nguyên lý vô vi là yếu tố căn bản của học thuyết Lão Tử. Ông viết:
“Tư tưởng này nếu được dịch đúng, thường có cảm giác cố ý diễn đạt một cách lạ lùng,
nhưng ở mọi chỗ, nó là nền tảng của toàn bộ học thuyết”
(13)
.
“Vô vi” thường được tiếp nhận như là sự từ chối mọi hành động. Nhà triết học người
Nga V.I. Soloviev cắt nghĩa nó là “absolutnoie bezrazlichie” (sự bất phân tuyệt đối). Quả
thật, những người theo đạo Bà la môn Ấn Độ đã truyền bá vô vi tuyệt đối, trong khi kêu gọi
chấm dứt mọi hành động. Một số nhà văn hóa học gắn vô vi với cái được họ nhìn nhận như
là sự thụ động, bất động, thậm chí là tính chất bàng quan, lãnh đạm của phương Đông.
Nhưng ta hãy quay về với chính Lão Tử.
“Theo việc học, không ngày nào không được. Theo Đạo, không ngày nào không
mất. Nhưng càng mất nhiều thì lại càng tiến gần đến vô vi: không làm gì mà không gì là
không được hoàn thành. Người ta bao giờ cũng lấy thiên hạ bằng vô vi - kẻ nào hành
động, hữu vi, không lấy được thiên hạ” (“Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn. Tổn chi hựu
tổn, dĩ chí vô vi. Vô vi nhi vô bất vi. Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự, cập kỳ hữu sự, bất
túc dĩ thủ thiên hạ”
(14)(*)

.
Luận điểm của Lão Tử được xây dựng trên nghịch lý, trên cách nói bỏ lửng. Tri thức
thu được qua học tập có thể trở thành không chỉ cái hữu ích mà còn thành cả ngọn nguồn
lầm lạc. Vậy nên trong cái có được đã bao hàm cái mất. Tốt nhất hãy từ chối tri thức giả
tạo, chỉ tin vào dòng chảy tự nhiên của cuộc sống. Bậc thánh nhân “thuận theo tự nhiên mà
không dám tự tiện hành động”
(15)
. Không có bất cứ toan tính nào để làm lại hay cải tạo lại
một cái gì đó vì sở thích riêng và gượng gạo - theo Lão Tử, đó là “hành vô vi” (làm vô
vi)
(16)
, và điều đó không liên quan gì đến sự thụ động cả.
Giống như mọi phát kiến vĩ đại, học thuyết của Lão Tử giản dị đến thiên tài. Nhưng
chiều sâu của cách tiếp cận cuộc sống của nó không những vẫn còn chưa được nhân loại
lĩnh hội hết mà còn bị nghi ngờ cho đến tận ngày nay. “Đó là một chân lý vĩ đại, rất thường
bị chúng ta lãng quên - Tolstoi nói - Nếu như chúng ta thừa nhận tính hiển nhiên của học
thuyết này, thì chúng ta sẽ hiểu rằng không thể nào bắt đầu làm điều thiện trong khi không
dừng làm điều ác là cái đối lập với điều thiện”
(17)
.
Đáng tiếc là không nhiều người ngày nay biết và nhớ bài viết Vô vi (Nedelanie) của
Tolstoi vì nó không được ấn hành trong các số xuất bản hàng loạt. Trong khi đó, Tolstoi coi
nó có ý nghĩa lớn. Còn lưu giữ được cả thảy tám bản thảo qua sửa chữa. Nguyên cớ để viết
bài luận chiến sắc sảo này là bài phát biểu của nhà văn Emile Zola để bảo vệ lao động và
khoa học, tại một bữa liên hoan sinh viên.
Bài viết Vô vi bắt đầu bằng việc trình bày tư tưởng của nhà triết học Trung Quốc.
Tolstoi viết: “Theo học thuyết của Lão Tử, tất cả mọi bất hạnh của con người bắt nguồn
không chỉ từ việc họ không làm điều cần làm, mà còn cả từ việc họ làm những điều không
cần làm. Bởi thế, con người hẳn là sẽ thoát khỏi mọi tai họa cá nhân, đặc biệt là tai họa xã
hội, mà nhà triết học Trung Quốc đã nói về căn bản, nếu như họ tuân thủ vô vi Và tôi nghĩ

rằng ông ấy hoàn toàn đúng”
(18)
.
Trong các suy luận của mình về ý nghĩa của lao động, về nền văn minh, Tolstoi dựa
vào học thuyết về đạo. Như vậy cùng với Tolstoi, Lão Tử đã bị cuốn vào cuộc tranh luận
trong đó phản ánh trạng thái tinh thần của trí thức châu Âu cuối thế kỷ XIX.
Bài phát biểu của Zola không thoả mãn Tolstoi vì tính chất phiến diện của nó:
trong khi nói về lợi ích của khoa học, cái “làm cho cuộc sống lành mạnh, sung sướng và
cứu con người khỏi vô số những khổ não”, nhà văn này đã không thấy mặt trái của tấm
huy chương. Lao động? Nhưng để làm ra cái gì? Tolstoi hỏi. “Những kẻ làm ra thuốc
phiện, những kẻ sáng chế các cỗ máy tàn sát, tất cả các quân nhân và mọi người khác
đều làm việc, nhưng hoàn toàn rõ là nhân loại sẽ được lợi nếu như những người lao động
này ngừng công việc của mình. Con người cần dừng lại trong giây lát trong hoạt động
của mình để nghĩ suy và đối chiếu đòi hỏi của lý trí với cái mà nó đang làm”
(19)
.
Zola kêu gọi thanh niên đừng nhìn lên trên, đừng tin một thế lực tối cao nào, đừng vồ
vập với lý tưởng. Tất nhiên nếu là nói về những ngôn từ thần học trống rỗng thì ông đúng,
nhưng nếu như không có lý tưởng, không có Chúa trong mình, - Tolstoi nghĩ vậy - thì con
người mất khả năng hối cải và khi đó, toàn bộ thế giới có thể bị sụp đổ. Chúng ta hãy nghe
Tolstoi: “Như thế, nếu như người ta đề nghị tôi đưa ra một lời khuyên duy nhất mà tôi coi là
hữu ích nhất cho con người ở thế kỷ chúng ta, thì tôi có thể nói với họ chỉ một điều: vì
Chúa, hãy ngừng lại dù trong giây lát, hãy ngừng làm việc mà nhìn ra xung quanh, hãy suy
ngẫm đi, bạn đương là gì và bạn cần thành người như thế nào, hãy ngẫm nghĩ về lý
tưởng”
(20)
.
Lão Tử đặt hòa lên vị trí đầu tiên của thang bậc giá trị. Ông thích những thung lũng
và những dòng sông hơn ngọn núi cao, chúng luôn luôn cố gắng ở dưới thấp hơn mọi thứ
xung quanh: “Đức cao nhất giống như nước. Nước mang lợi cho tất cả mọi vật mà không

tranh đấu với chúng”

(“Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất
tranh”
(21)
)(*). Đây là lời trích từ sáchLão Tử. Trong đó cũng nói “nhu thắng cương, nhược
thắng cường”
(22)
.
Hình tượng thung lũng và nước thường xuyên lặp lại trong Đạo đức kinh. Trong
sách Đường sống, Tolstoi nhiều lần chú ý đến các hình tượng tượng trưng này. Ở đó,
chúng ta đọc thấy “Để trở thành kẻ mạnh, cần giống như nước. Không có gì cản trở nổi, nó
cứ chảy; có con đập, nó dừng lại; đập bị vỡ, nó lại chảy; trong thùng tứ giác, nó mang hình
tứ giác; trong thùng hình tròn, nó mang hình tròn. Vì nó nhân nhượng nên nó mềm dẻo hơn
tất cả, mạnh hơn tất cả”
(23)
.
Thái độ khinh thường của Đạo gia đối với những biểu hiện bề ngoài của vinh quang
và sức mạnh, với sự trang trọng giả tạo là rất gần gũi với Tolstoi. Bản chất của sự vật là
nguyên lý nữ tính. Lão Tử xem xét cuộc sống không phải từ quan điểm phụ nữ mà trái lại,
ông đề cao cái đẹp nữ tính mềm mại, đối lập với sức mạnh nam giới thô thiển. Ông đối lập
những dấu hiệu bề ngoài của vẻ trang trọng giả tạo với giá trị chân chính của cái yếu, cái
nhỏ bé.
Sự phát triển của loại quan niệm đạo đức như thế tất nhiên dẫn đến sự phủ nhận
chiến tranh và mọi thứ bạo lực.
“Sau khi bắt đầu đọc chương 31 của sách Lão Tử, Tolstoi thốt lên: “Thật tuyệt vời,
ông ấy đã nói hết cả! Vĩ đại thay Lão Tử! Từ ba ngàn năm trước ông đã phủ nhận chiến
tranh vô điều kiện. Thật đáng khâm phục”, đây là hồi tưởng của dịch giả người Nhật Bản
Konisi Masutaro. Trong chương này có nói “Quân đội tốt là phương tiện gây ra bất hạnh,
tất cả đều ghét nó. Bởi thế, người theo Đạo không sử dụng nó ”. (“Phù giai binh giả bất

tường chi khí, vật hoặc ố chi, cố hữu đạo giả bất xử ”
(24)
)(*).
Đọc sang dòng sau, Tolstoi bỗng chau mày. Ở đó lại nói: “Quân đội là công cụ của
bất hạnh, người (lãnh đạo) quân tử không cố ý sử dụng, anh ta chỉ dùng nó khi bắt
buộc”

(“binh giả, bất tường chi khí, phi quân tử chi khí, bất đắc dĩ nhi dụng chi”
(25)
)(**).
Tolstoi phẫn nộ: “Thế gọi là thỏa hiệp”. Vừa nói môi còn chưa khô “quân đội là công cụ
của bất hạnh” mà đã chuyển sang ý khác “khi bắt buộc dùng nó ”. Lão Tử không thể nào
nói điều tương tự như thế. Hay là người sau thêm vào? Cần làm sáng tỏ”
(26)
.
Dẫu sao thì Tolstoi không trở lại câu này nữa, ông không đưa nó vào bất cứ một
“cuốn sách cho nhân dân” nào của mình, cũng không đưa vào sách Các tư tưởng của các
bậc hiền triết dùng cho hàng ngày, cũng không đưa vào sách Đường sống. Nhân tiện phải
nói các nhà nghiên cứu Trung Quốc hiện đại cũng nghi ngờ tính xác thực của câu nói này,
cho nó là sự sai lầm của các bản chú đời sau. “Cần kỷ niệm chiến thắng bằng tang lễ”, đó là
Lão Tử chân chính (“Chiến thắng dĩ tang lễ xử chi”
(27)
)(*).

×