Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Thực trạng của hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay và Giải pháp để hoàn thiện và phát triển hệ thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.9 KB, 20 trang )









Thực trạng của hệ thống
ngân hàng thương mại
hiện nay và Giải pháp để
hoàn thiện và phát triển hệ
thống Ngân Hàng
Thương Mại Việt Nam


MỤC LỤC
trang
Lời mở đầu 1
I- Cơ sở lý luận 4
1. Định Nghĩa Ngân Hàng Thương Mại 4
2. Vai Trò Của Ngân Hàng Thương Mại 4
3. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại 7
II- Thực trạng của hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay 9
III- Giải pháp để hoàn thiện và phát triển hệ thống Ngân 15
Hàng Thương Mại Việt Nam











LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã
có những đóng góp rất lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn
định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
Từ một hệ thống ngân hàng một cấp, Ngân hàng Việt Nam đã nhanh
chóng chuyển thành ngân hàng hai cấp: Ngân Hàng Nhà Nước(NHNN)
và hệ thống các ngân hàng chuyên doanh, các tổ chức tín dụng khác.
NHNN có những đổi mới mạnh mẽ về xây dựng và điều hành chính
sách tiền tệ, quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng… Hệ
thống ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ chức tín dụng (TCTD) đã
phát triển đa dạng về mô hình tổ chức, loại hình sở hữu, đa dạng
nghiệp vụ. Hệ thống này chuyên làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, huy
động vốn, cho vay, cung ứng dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế…
Trong những năm gần đây, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang tiếp
tục đổi mới theo xu hướng hội nhập. NHNN nâng cao năng lực xây
dựng và điều hành chính sách tiền tệ, nâng cao hiệu quả sử dụng các
nghịệp vụ Ngân hàng trung ương (NHTƯ), và nâng cao năng lực quản
lý theo chức năng và nhiệm vụ được giao, bảo đảm hoạt động an toàn
hệ thống ngân hàng, ổn định tiền tệ. Hệ thống NHTM và TCTD nâng
cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa công nghệ, nâng cao năng lực
và trình độ cán bộ, đa dạng các dịch vụ ngân hàng hiện đại,…phát
triển vững mạnh và an toàn, đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ ngân
hàng cho nền kinh tế.
Đến nay, sau hơn 4 năm thực hiện đề án cơ cấu lại và tiếp tục đổi mới,
hệ thống NHVN đã có sự phát triển về nhiều mặt: quy mô vốn, điều lệ

được nâng cao, tỷ lệ nợ quá hạn giảm thấp, năng lực tài chính được
tăng cường; các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại ngày càng đa
dạng hơn, mạng lưới được mở rộng…Về tổ chức, ngành NHVN bao
gồm: Hệ thống NHNN và các đơn vị trực thuộc; 5 NHTM nhà nước,
ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, 37
ngân hàng thương mại cổ phần, quỹ tín dụng trung ương và trên 900
quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, 4 ngân hàng liên doanh và một chi
nhánh ngân hàng liên doanh của nước ngoài tại Việt Nam (Ngân hàng
Lào-Việt), 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, một số công ty cho
thuê tài chính liên doanh và vốn 100% nước ngoài… với hệ thống tổ
chức NH này đã đáp ứng tốt công tác huy động tiền gửi cũng như nhu
cầu vốn của mọi đối tượng và thành phần khách hàng.

















I- CƠ SỞ LÝ LUẬN:

1. Định Nghĩa Ngân Hàng Thương Mại:

Đầu tiên ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian. Ở mỗi
nước có một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví dụ: Ở
Mỹ: ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp
các dịch vụ tài chính và họat động trong ngành dịch vị tài chính. Ở Pháp:
ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên
nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác các
số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay
dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các
khoản kí thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì: ngân hàng
thương mại là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền
kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ công hối phiếu,
chiết khấu và những hình thức vay mượn khác…

Ở Việt Nam theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc Hội khóa X thông qua
ngày 12 tháng 12 năm 1997:
“NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan.”

2. Vai Trò Của Ngân Hàng Thương Mại:

a. Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế

Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa
được sử dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà
chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho
mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền để hoạt động
kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có
thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân hàng

thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho
vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay.

Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn
nhàn rỗi trong nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng
được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.

NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh
lệch có được nó sẽ duy trì họat động của mình.

Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ
phiếu, trái phiếu,… NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà
đầu tư; chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận
việc mua trái phiếu công ty…

b. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện
thanh toán

Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản
hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền
vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và
thực hiện thu chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan
thanh tóan có giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ
rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận
chuyển, bảo quản…).

Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông
và độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh
toán ) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc

độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước
phát triển phần lớn thanh toán được thực hiện qua sec và được thực hiện
bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc
thực hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện
các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các
nghiệp vụ cho vay.

Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức
chuyển tiền bằng đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa
đến việc không sử dụng sec ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ
thanh toán bằng cách nối mạng các máy vi tính của các ngân hàng
thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người
này sang người khác một cách nhanh chóng.

c. Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp

Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân
hàng không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó
ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng
của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat
động trong hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.

Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua tín dụng và
thanh tóan trong hệ thống ngân, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống
ngân hàng trung ương mỗi nước. Vậy tiền “bút tệ” được NHTM tạo ra
bằng cách nào? Bây giờ chúng ta giả sử rằng tất cả các NHTM đều không
giữ lại tiền dự trữ quá mức quy định, các sec không chuyển thành tiền mặt
và các yếu tố phức tạp khác bị bỏ qua thì quá trình tạo thành tiền như sau:

Tên các ngân hàng Tiền gửi mới


Thanh toán

cho vay mới

Dự trữ bắt
buộc
Ngân hàng A 1.000.000

900.000 100.000
Ngân hàng B 900.000 810.000

90.000
Ngân hàng C 810.000 81.000
729.000


Tiền toàn hệ thống ngân
hàng
10.000.000

9.000.000 1.000.000


Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc
là 10% thì số tiền nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó
được đưa đến người vay, người vay tiền không bao giờ vay tiền về mà cất
trong nhà vì như thế họ phải chịu lãi một cách vô ích, họ dùng tiền đó chi
trả các khỏan. Và số tiền đó đến tay người được chi trả, người chi trả đem
số tiền đó gửi vào ngân hàng B, ngân hàng B lúc này sẽ có một lượng tiền

gửi mới là 900.000. Dự trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho vay là
810.000. Số tiền này được cho người cần vay vay, người cho vay chi trả
các khỏan đến người được chi trả, người được chi trả đem số tiền được
trả gửi vào ngân hàng C. Lúc này ngân hàng C sẽ có số tiền gửi mới là
810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho đến khi lượng tiền gửi mới bằng 0.
Người ta tính được rằng lượng tiền gửi mới trong tòan hệ thống ngân
hàng là 10.000.000, lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000 và tiền cho
vay là 9.000.000. Và do cách thức này mà tiền đã được tạo ra trong hệ
thống ngân hàng 2 cấp.
3. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại:
a) Hoạt động huy động vốn:
- Nhận tiền gửi
- Phát hành trái phiếu và các giấy tờ có giá trị
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
- Vay vốn của ngân hàng Nhà nước
- Các huy động vốn khác
b) Hoạt động cấp tín dụng:
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
- Bảo lãnh
- Chiết khấu
- Cho thuê tài chính
- Bao thanh toán
- Tài trợ xuất nhập khẩu
- Cho vay thấu chi
- Cho vay theo hạn mức tín dụng và hạn mức tín dụng dự phòng
c) Hoạt dộng dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán
- Thực hiện thanh toán cho khách hàng trong nước
- Thực hiện thanh toán quốc tế
d) Các hoạt động khác:

- Góp vốn, mua cổ phần
- Tham gia thị trường tiền tệ
- Kinh doanh ngoại hối
- Ủy thác và nhận ủy thác
- Cung ứng dịch vụ bảo hiểm
- Tư vấn tài chính
- Bảo quản vật có giá
















II- THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI HIỆN NAY

Trong một hai năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh tiền tệ - ngân hàng
của Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Tính hấp dẫn của kinh doanh tiền tệ -
ngân hàng được đánh giá là cao hơn so với các ngành kinh tế khác. Lợi
nhuận trên vốn tự có của nhiều ngân hàng đạt 9-10%, cao hơn nhiều so

với mức 1-2% của ngành công nghiệp.

1. Rủi ro từ nội lực và môi trường kinh doanh

Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở
nội lực của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực
hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực.

Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây
nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình
của một ngân hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn
tự có của ngân hàng thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một
ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân hàng thương mại
quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên
73% thị trường tín dụng.

Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại
Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà
nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản
Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và
rủi ro tỷ giá.

Nếu trích lập đầy đủ những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì vốn tự có
của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam, nhất là ngân hàng thương mại
Nhà nước, ở tình trạng âm.

Điểm hạn chế thứ hai của các ngân hàng trong nước là hệ thống dịch vụ
ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định
hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền
thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm

94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của
ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập.

Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng đã khiến các
ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để
cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác
dụng ở mức giới hạn nhất định.

Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó
đáng chú ý là các tổ chức tín dụng nhà nước. Một số nguyên nhân dẫn
đến tình trạng nợ quá hạn gia tăng tại các ngân hàng thương mại quốc
doanh là do: việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị
trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều
biến động phức tạp; tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi
suất trong nước tăng lên, tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống
ngân hàng.

Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo
thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào
nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để
nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn.

Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài
chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn
trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ,
thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm
tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn.

Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là
quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây

ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống
2. Ngành ngân hàng trong năm 2008 đã trãi qua nhiều biến động khó
khăn.
a. Lạm phát:
Đầu năm phải đối mặt với lạm phát tăng cao (theo tính tóan sơ bộ lạm phát năm
nay của Việt Nam là 24%) do đó việc thắt chặt tiền tệ đã gây khó khăn không
nhỏ cho ngân hàng. Thứ nhất: họ phải tăng lãi suất vay vì thế cho nên phải tăng
lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay quá cao khiến càng ít doanh nghiệp vay vốn,
làm cản trở đến việc kinh doanh của ngân hàng. Thứ hai: Do lãi suất cao nên
khả năng hoàn trả của các con nợ bị giảm sút, việc thu hồi nợ khó khăn hơn, các
khoản nợ xấu gia tăng, làm tăng khả năng rủi ro của các ngân hàng. Thứ ba: Do
lý do thứ hai nên các ngân hàng trở nên dè dặt trong việc cho vay vốn, tiền
không được mang ra sử dụng lưu thông trở thành những khoản tiền vô ích, làm
tăng chí phí cho ngân hàng.
b. Cơn bão tài chính Mỹ:
Gần cuối năm, ngành tài chính ngân hàng phải đón nhận tin cơn bão tài chính ở
Mỹ. Nhưng có lẽ nó có ít tác động đến ngành ngân hàng Việt Nam mà nhiều khi
còn là tin tốt. Tin tốt là vì: Khi nhìn thấy sự khủng hoảng của ngành ngân hàng
tại Mỹ, các ngân hàng Việt Nam sẽ suy xét và nhìn nhận lại cách làm ăn của
mình. Họ sẽ thận trọng hơn với các khoản cho vay của mình; họ sẽ tìm cách
giảm rủi ro trong quá trình cho vay; họ sẽ đề phòng và miễn dịch với các dự án
đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là cao; họ sẽ tập trung
vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có sự phát triển trong
tương lai.
c. Cạnh tranh giữa các ngân hàng:
Đầu tiên là sự cạnh tranh các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước
ngoài. Càng ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Lợi thế
của họ là có nhiều vốn, có tiềm lực tài chính và quản lý. HSBC là ngân hàng
nước ngoài tích cực nhất hiện nay. HSBC được Ngân hàng Nhà nước chính
thức cho phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.

Việc thành lập ngân hàng con sẽ cho phép HSBC mở rộng mạng lưới phân phối
rộng hơn, tới các khách hàng hiện tại cũng như khách hàng mới. HSBC trở
thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam sở hữu 20% cổ phần tại một
ngân hàng trong nước sau khi nâng cổ phần sở hữu tại Techcombank từ 14,4%
lên 20%. Điều này cho phép HSBC mở rộng sức ảnh hưởng và gia tăng tầm
hoạt động của mình. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng đối với các ngân
hàng nội.
Cạnh tranh với ngân hàng trong nước: Điều này là hiển nhiên nhưng có xu thế
mới đó là việc hợp tác của các ngân hàng nội. Việc rõ ràng nhất là “liên minh
ATM”. Cầm thẻ ATM của ngân hàng Techcombank nhưng khi đến trạm rút tiền
của ngân hàng Vietcombank bạn vẫn có thể rút tiền được. Điều này làm gia tăng
tầm hoạt động, khả năng cạnh tranh, sức thu hút khách hàng hơn là những ngân
hàng không nằm trong liên minh.
Nhưng sự cạnh tranh dù là giữa nội – ngoại hay nội – nội vẫn là cần thiết. Vì như
thế các ngân hàng sẽ không ngừng cải thiện, không ngừng gia tăng chất lượng
dịch vụ, luôn luôn sáng tạo để làm thỏa mãn những đòi hỏi của đất nước, của
người dân và các doanh nghiệp.
d. Cạnh tranh với thị trường chứng khoán:
Càng ngày chứng khoán càng trở nên lộ diện là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với
các ngân hàng về mặt huy động vốn trong dân. Trước kia chưa có chứng khoán
thì người dân sẽ gửi tiền nhàn rỗi của mình vào các ngân hàng nhằm kiếm các
khoản lợi tức. Nhưng nay, chứng khoán đã làm giảm lượng huy động vốn nhàn
rỗi của các ngân hàng. Những người dân có tiền nhàn rỗi họ sẵn sàng lao vào
đầu tư chứng khoán với hi vọng kiếm lời cao hơn là gửi tiền vào ngân hàng (tuy
có rủi ro cao hơn). Bên cạnh đó, các doanh ngiệp ngoài kênh huy động vốn là
vay mượn các ngân hàng họ còn có cách là phát hành cổ phiếu ra thị trường.
Đấy cũng là một cách tốt để huy động vốn.
Nói đến khó khăn thì cũng cần nhắc đến những thành tựu hay dấu hiệu khả
quan mà ngành ngân hàng đã làm được trong năm nay.
e. Thách thức trực tiếp đối với ngân hàng

* Năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam còn yếu
Trong những năm qua, ngành Ngân hàng đã có nhiều đổi mới, song đến nay, hệ
thống ngân hàng Việt Nam vẫn ở giai đoạn phát triển ban đầu, năng lực tài chính
của nhiều NHTM còn yếu, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro. Nhóm NHTM nhà nước
tuy chiếm gần 76% tổng nguồn vốn huy động và 80% thị phần tín dụng, nhưng
tổng số vốn tự có chưa tới 1 tỷ USD, đạt tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản chưa tới
5% (thông lệ tối thiểu là 8%). Khối NHTM cổ phần với 36 ngân hàng chiếm 11%
tổng nguồn vốn huy động và 10% thị phần tín dụng. Trong khi đó, nhóm chi
nhánh các ngân hàng nước ngoài và liên doanh bắt đầu cho vay thận trọng hơn
nên chỉ chiếm 10% thị phần tín dụng, nhưng nhìn chung họ có ưu thế hơn các
NHTM Việt Nam về công nghệ, loại hình dịch vụ, chiến lược khách hàng, hiệu
quả hoạt động và chất lượng tài sản.
Thêm vào đó, hiện nay dịch vụ ngân hàng của các NHTM Việt Nam còn đơn
điệu, nghèo nàn, tính tiện lợi chưa cao, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng
cho các khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng
dịch vụ ngân hàng. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập
cho các ngân hàng, các nghiệp vụ mới như thanh toán dịch vụ qua ngân hàng,
môi giới kinh doanh, tư vấn dự án chưa phát triển. Cho vay theo chỉ định của
Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tín dụng của các NHTM nhà nước
ở Việt Nam. Việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế NQD đã có chuyển biến
tích cực nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc. Hầu hết các chủ trang trại và công ty
tư nhân khó tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng và vẫn phải huy động vốn bằng
các hình thức khác.
Hơn nữa, phần lớn các NHTM thiếu chiến lược kinh doanh hiệu quả, bền vững.
Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ còn yếu, thiếu tính độc lập; hệ thống thông
tin báo cáo tài chính, kế toán và thông tin quản lý còn chưa đạt tới các chuẩn
mực và thông lệ quốc tế.
Đội ngũ lao động của các NHTM Việt Nam khá đông nhưng trình độ chuyên môn
nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của điều kiện hội nhập. Cơ cấu tổ chức
trong nội bộ nhiều NHTM còn lạc hậu, không phù hợp với các chuẩn mực quản

lý hiện đại đã được áp dụng phổ biến ở các nước trong nhiều năm qua.
Ngoài ra, các chỉ số và chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của phần lớn các
NHTM Việt Nam đều thua kém các ngân hàng trong khu vực. Nếu tính đến
những khoản khoanh nợ và nợ khó đòi thì nhiều NHTM Việt Nam đang ở tình
trạng thua lỗ.












III- GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Thứ nhất, việc loại bỏ dần các hạn chế đối với các ngân hàng nước ngoài có
nghĩa là các ngân hàng nước ngoài sẽ từng bước tham gia vào lĩnh vực hoạt
động ngân hàng tại nước ta. Điều này có nghĩa là sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh
trong ngành Ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt Nam phải tăng thêm vốn,
đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương thức quản trị và hiện đại hoá hệ thống thanh
toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.
Thứ hai, khả năng tài chính, trình độ quản lý và công nghệ của các ngân
hàng Việt Nam còn thấp, dịch vụ ngân hàng chưa phong phú, tiện lợi nên trong
giai đoạn đầu, thách thức về cạnh tranh đối với các ngân hàng Việt Nam là khá
lớn, đặc biệt là đối với các ngân hàng có những phạm vi hoạt động kinh doanh
phù hợp với lĩnh vực hoạt động, có ưu thế của các ngân hàng nước ngoài như:

thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, đầu tư dự án và các khách hàng trọng
tâm của các ngân hàng nước ngoài như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, các doanh nghiệp xuất khẩu…
Thứ ba, tình trạng các ngân hàng Việt Nam đầu tư tập trung quá nhiều vào
các doanh nghiệp Nhà nước mà phần lớn các doanh nghiệp này đều có thứ bậc
xếp hạng tài chính thấp thuộc các ngành có khả năng cạnh tranh yếu. Đây là
nguy cơ rủi ro rất lớn đối với các NHTM nói chung và các NHTM nhà nước nói
riêng
Thứ tư, hội nhập quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống
ngân hàng, trong khi đó cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân
hàng còn rất đơn giản, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa có hiệu quả và
hiệu lực để bảo đảm việc tuân thủ nghiêm pháp luật về ngân hàng và sự an toàn
của hệ thống ngân hàng, nhất là trong việc ngăn chặn và cảnh báo sớm các rủi
ro trong hoạt động ngân hàng.
Ngoài ra, các ngân hàng Việt Nam còn gặp phải một số khó khăn về mặt
pháp lý, hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường còn chưa đầy đủ,
chưa đồng bộ và nhất quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế
về ngân hàng. Vì vậy có hạn chế nhất định đối với sự cạnh tranh trong lĩnh vực
ngân hàng và phát triển thị trường tiền tệ. Luật hoạt động của các tổ chức tín
dụng hiện hành còn có một số điểm chưa phù hợp với nội dung của GATS và
Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ.
Những giải pháp cơ bản đối với NHTM Việt Nam trong hội nhập quốc tế
Để giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, Việt Nam cần xây dựng một
hệ thống ngân hàng có uy tín, đủ năng cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả cao,
an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng
đầu tư.
a. Giải pháp từ phía Chính phủ và Ngân hàng nhà nước
* Các nhóm giải pháp từ Chính phủ
Thứ nhất, cải cách DNNN, tạo sân chơi bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp.
Việc bảo hộ cho khu vực DNNN là nguyên nhân chính khiến mức nợ khó đòi, nợ

quá hạn tại các NHTM nhà nước cao. Vì vậy, nếu không kiên quyết đẩy mạnh
tiến trình cải cách DNNN thì việc cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
nói chung và các NHTM nói riêng là khó thực hiện.
Thứ hai, nâng cấp và bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nhanh chóng
ban hành Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, đưa luật này trở thành công
cụ để Chính phủ kiểm soát cạnh tranh.
Thứ ba, thống nhất quan điểm, xác định rõ và cụ thể về lộ trình mở cửa tài
chính. Tự do hoá tài chính phải được thực hiện sau cùng, sau khi đã thực hiện
cải cách cơ cấu (trong đó có cải cách tài chính bên trong) và tự do hoá thương
mại. Việc có được lộ trình hội nhập tài chính thích hợp sẽ đảm bảo hệ thống tài
chính hội nhập hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh mà không bị vướng vào các
dạng khủng hoảng tài chính - ngân hàng khác nhau.
Thứ tư, khẩn trương hoàn thiện hoạt động của thị trường tiền tệ và hoàn thiện
hoạt động của thị trường chứng khoán, xác định cụ thể lộ trình mở cửa thị
trường tài chính - ngân hàng.
* Về phía Ngân hàng nhà nước(NHNN) Việt Nam
Thứ nhất, năng cao năng lực quản lý điều hành. Từng bước đổi mới cơ cấu tổ
chức, quy định lại chức năng nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước nhằm năng cao
hiệu quả điều hành vĩ mô, nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền
tệ quốc gia và trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài
chính.
Thứ hai, phối hợp cùng Bộ Tài chính tham gia xây dựng và phát triển đa dạng
thị trường vốn, tạo điều kiện san sẻ bớt gánh nặng cung cấp vốn hiện nay mà
các NHTM đang phải gánh vác.
Thứ ba, NHNN cần nhanh chóng xin phép Chính phủ để đẩy nhanh thực hiện cổ
phần hóa các NHTM nhà nước, tạo điều kiện cho các ngân hàng này hoạt động
an toàn và hiệu quả hơn.
b. Giải pháp trong nội bộ các ngân hàng
* Nâng cao năng lực tài chính
Năng lực tài chính của các NHTM nước ta nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số

đều còn là thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, để nâng cao năng lực tài
chính, các ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng
vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài
chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và chống rủi ro.
Đối với các NHTM nhà nước, cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành
cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ
nhằm đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng.
Đối với các NHTM cổ phần, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất,
phát hành bổ sung cổ phiếu; đối với những NHTM hoạt động quá yếu kém,
không thể tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài
chính thì có thể thu hồi giấy phép hoạt động.
* Hiện đại hoá công nghệ, chú trọng hoạt động Marketing, đa dạng hoá và nâng
cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ kỹ
thuật tiên tiến.
Công nghệ ngân hàng nước ta dù được chú trọng trong thời gian qua nhưng vẫn
bị đánh giá là yếu kém. Hiện nay, nhiều ngân hàng đã triển khai các phần mềm
hiện đại với chức năng hoạt động trực tuyến (Online), tạo thêm nhiều sản phẩm
gia tăng cho khách hàng trong quá trình giao dịch với ngân hàng. Nhìn chung,
các phần mềm mà một số NHTM đang ứng dụng đều là những phần mềm thế hệ
mới được nhiều ngân hàng trên thế giới đang sử dụng. Tuy nhiên, công tác triển
khai chậm và khi triển khai xong, một số bộ phận lại chưa tạo được một cơ chế
nhằm khai thác hiệu quả công nghệ đó.
Song song với việc hiện đại hoá công nghệ, các NHTM cần có chính sách khai
thác công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm
sản phẩm dựa trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản
phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán
chéo (Cross - selling) cho khách hàng. Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá
sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và hạn chế bớt rủi ro trong quá
trình hoạt động.
Ngoài ra, các NHTM cần cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục vay vốn nhằm tạo

thuận lợi cho khách hàng.
* Xây dựng chiến lược khách hàng và phát triển mạng lưới
Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn
bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả
khách hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín
trong giao dịch ngân hàng. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến
lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt
động của khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ
ràng.
Ngoài ra, các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên
việc tạo ra sự khác biệt là hết sức quan trọng. Về chiến lược thu hút tiền gửi, cần
xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng
thói quen sử dụng tài khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần
được cắt giảm để tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh tín dụng cần tạo được quy trình cung cấp linh hoạt
sản phẩm của ngân hàng, đặc biệt đối với khách hàng tiềm năng có thể đưa ra
điều kiện cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên.
* Nâng cao năng lực quản trị điều hành
Cần cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới. Đồng thời,
xây dựng chuẩn hoá và văn bản hoá toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt
động chủ yếu của NHTM, thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp.
* Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng.
Cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân
hàng hiện đại. Hơn nữa, cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội
nhập quốc tế, nhất là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán,
ký kết hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm
công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới.

×