Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đề tài Hệ thống Ngân hàng Thương mại potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.25 KB, 20 trang )









Đề tài Hệ thống Ngân
hàng Thương mại


Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 1 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
Phần 1: Lý thuyết chung về hệ thống Ngân hàng Thương mại

1.1./- Khái niệm Ngân hàng thương mại.
- NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, mà hoạt động
chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng, với trách nhiệm hoàn trả, và sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng (cho vay), thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và dịch vụ
ngân hàng.
Như vậy, qua khái niệm đã khẳng định Ngân hàng thương mại là một doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ. Các nghiệp vụ trên của ngân hàng được thực hiện
một cách thường xuyên và bản thân ngân hàng, không phải chỉ là người môi giới trung
gian tín dụng, vì vậy trong quá trình hoạt động, ngân hàng phải chịu trách nhiệm về các
nghiệp vụ độc lập của mình. Ngoài ra, NHTM còn có một số đặc trưng khác, đó là:
- NHTM là đối tượng và đồng thời là các trung gian chuyển tải chính sách tiền tệ.
Thông qua các hoạt động có tính chất đặc thù của mình, các ngân hàng thương mại thực


hiện chức năng chuyển tải chính sách tiền tệ từ NHTW (ở Việt Nam là NHNN) đến toàn
bộ nền kinh tế. Như vậy cho thấy các NHTM thực sự trở thành một kênh đặc biệt, qua đó
mà ảnh hưởng của các chính sách tiền tệ lên toàn bộ nền kinh tế.
- Phân bổ tín dụng: Đây cũng là lý do làm cho NHTM trở nên đặc biệt vì các
NHTM là nguồn chính tài trợ, cung cấp tín dụng cho một số lĩnh vực nhất định, được xác
định là có nhu cầu đặc biệt về vốn. Ở hầu hết các nước trên thế giới, những nhà làm chính
sách luôn xác định các lĩnh vực cần được trợ giúp về vốn để phát triển. Ở nước ta hiện
nay vốn tín dụng ngân hàng được tập trung vào thực hiện các mục tiêu, chương trình lớn
của Đảng và Nhà nước như: chương trình phát triển nông nghiệp – nông thôn, chương
trình xoá đói giảm nghèo, chương trình CNH - HĐH đất nuớc…
- Dịch vụ thanh toán: Dịch vụ thanh toán cũng là đặc thù của NHTM, tín hiệu quả
của dịch vụ này đã đem lại lợi ích trực tiếp cho nền kinh tế. Chúng ta thấy rằng, trong
thực tế bất kỳ một trục trặc nào trong hệ thống thanh toán của ngân hàng cũng đủ gây sự
bế tắc và thiệt hại cho nền kinh tế.
Để có thể hiểu rõ tầm quan trọng của các NHTM trong nền kinh tế, cần thiết phải
đi sâu vào nghiên cứu các chức năng cơ bản của nó.

1.2/- Chức năng của Ngân hàng thương mại.
NHTM có các chức năng chủ yếu sau đây:
1.2.1. Chức năng mở rộng tín dụng:
Chức năng chủ yếu và quan trọng bậc nhất của NHTM là mở rộng tín dụng phải
dựa vào các điều kiện và nguyên tắc tín dụng, áp dụng với các khách hàng đáng tin cậy.
Chức năng này được hình thành rất sớm từ khi các NHTM ra đời đến nay. Vì NHTM là
tổ chức trung gian tín dụng, cho nên quan hệ tín dụng là quan hệ trực tiếp giữa chủ thể có
tiền chưa sử dụng và chủ thể có nhu cầu về vốn khó tìm được người có khả năng cung
cấp. Do vậy, sự ra đời và đi vào hoạt động của các NHTM đã khắc phục hạn chế nói trên,
đứng ra tập trung tiền tệ chưa sử dụng thông qua việc huy động vốn của tất cả các chủ thể
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM



- 2 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
trong nền kinh tế, bao gồm các doanh nghiệp, cá nhân, các tổ chức cơ quan nhà nước,
trên cơ sở đó cung cấp cho các chủ thể có nhu cầu cần bổ sung vốn tạm thời.
Từ phân tích trên có thể nói ngân hàng vừa là “người đi vay” vừa là “người cho
vay”, hay nói cách khác nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng là đi vay để cho vay.
Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và các
cá nhân hoặc phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong toàn xã
hội. Trái lại với tư cách là người cho vay, ngân hàng cung cấp tín dụng cho các nhà
doanh nghiệp, cá nhân.
Cũng cần phải khẳng định rằng trong nền sản xuất hàng hoá phát triển, chức năng
trung gian tín dụng của ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, phần lớn các quan hệ tín dụng được tập trung vào ngân hàng, còn đối
với các doanh nghiệp thì nguồn tín dụng do các NHTM cung cấp đã trở nên phổ biến và
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong kết cấu tổng nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp.
Bên cạnh tín dụng ngắn hạn, NHTM còn thực hiện tín dụng trung, dài hạn nhằm
mở rộng và nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, hoặc cho Chính phủ vay trong trường hợp
ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt, thông qua việc mua các chứng khoán tài chính công
cộng, ví dụ như mua trái phiếu kho bạc do Chính phủ phát hành.
Đặc biệt với năng lực của hệ thống NHTM trong việc tạo tiền không chỉ đáp ứng
cho nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân các NHTM, mà còn có ý nghĩa to lớn hơn:
với một hệ thống tín dụng năng động có vai trò cực kỳ quan trọng như là người mở đầu,
người tham gia và có khi như là người nâng đỡ và quyết định đối với mọi quá trình sản
xuất.
Thực tế trong đời sống, kinh tế cho thấy, trong mỗi doanh nghiệp, mỗi một thành
viên trong xã hội quá trính tích luỹ và sử dụng vốn luôn luôn diễn ra không trùng khớp và
không giống nhau, có lúc tạm thời thừa vốn, có lúc xuất hiện nhu cầu bổ sung vốn. Để
góp phần khắc phục tình trạng này, vai trò của NHTM chiếm một vị trí rất quan trọng,
nhằm sử dụng tốt nhất vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp và cá nhân, rộng hơn
ra là của cả nền kinh tế, đồng thời bổ sung kịp thời nhu cầu thiếu vốn.

1.2.2. Chức năng tạo tiền:
Tạo tiền của NHTM là hoạt động của cá hệ thống NHTM trong việc sử dụng tiền
gửi của khách hàng để cho vay, là làm cho tiền thông qua hệ thống NHTM phục vụ chu
chuyển một khối lượng hàng lớn gấp nhiều lần.
Số tiền lớn lên qua hệ thống NHTM được xác định theo công thức:

1
n  
Tỷ lệ Dự trữ bắt buộc

Vì vậy, thông qua việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối các NHTM là biết được
số lần tiền lớn lên qua hệ thống NHTM. Chức năng này được thực hiện thông qua các
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 3 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
hoạt động tín dụng và đầu tư, trong mối liên hệ chặt chẽ với NHTW của mỗi nước (Ở
Việt Nam là NHNN Việt Nam)
Để tạo điều kiện cho sự gia tăng các hoạt độ tín dụng và đầu tư của các NHTM,
vấn đề đặt ra là bản thân các NHTM, bằng các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống phải
tạo mọi khả năng để tăng trưởng nguồn vốn, phù hợp với yêu cầu tăng trưởng nền kinh
tế.
Việc thực hiện chức năng tạo tiền, xét trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thì bao
giờ và lúc nào cũng phải tuân thủ một nguyên tắc hết sức quan trọng là cung tiền tệ phải
vừa đủ nhu cầu phát triển kinh tế, với tốc độ tăng trưởng kinh tế dự kiến. Nếu như vô tình
hay hay cố ý dẫn đến lượng tiền cung ứng quá nhanh, NHNN không điều tiết được khối
lượng tiền tệ trong lưu thông, trong đó có việc sử dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với NHTM thì tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát hoặc thiểu phát và dĩ nhiên nền kinh
tế phải gánh chịu hậu quả này. Do vậy, càng cho thấy rằng các NHTM có vai trò hết sức

quan trọng góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
1.2.3. Chức năng thanh toán:
Cùng với chức năng tạo tiền, các NHTM còn thực hiện chức năng cũng có tầm
quan trọng khác là đưa ra các cơ chế thanh toán trong nền kinh tế. Hiện nay, ở các nước
phát triển và các nước đang phát triển, đa số công tác thanh toán được thông qua séc,
phần lớn thanh toán ở trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ, thông qua hệ
thống NHTM.
Trong quá trình từng bước hiện đại hoá công nghệ, các NHTM nhanh chóng đầu
tư trang bị đầy đủ hệ thống máy tính và các phương tiện kỹ thuật khác và do vậy đã làm
cho quá trình thực hiện thanh toán trở nên nhanh chóng, đạt độ chính xác cao, đồng thời
giảm bớt được chi phí.
Trước những bước phát triển mới của khoa học công nghệ trên thế giới hiện nay,
phần lớn các nước có những đổi mới quan trọng theo hướng hoạt động ngân hàng không
dùng séc, nghĩa là người ta đã sử dụng hình thức chuyển tiền điện tử, hiện nay hệ thống
ngân hàng Việt Nam cũng đang áp dụng hình thức thanh toán này đã đưa đến việc không
sử dụng dần séc ngân hàng, mà vốn đã được hình thành và tồn tại trong một thời gian dài.
Các NHTM đã đưa vào thực nghiệm có kết quả một hệ thống sử dụng thẻ, giống như thẻ
tín dụng. Từ đó có thể tiến hành nối mạng các máy vi tính của các NHTM trong nước để
thực hiện thanh toán một cách dễ dàng, nhanh chóng, tiện lợi.
1.2.4. Chức năng huy động tiết kiệm:
Huy động tiết kiệm đã trở thành một chức năng quan trọng và hết sức cần thiết của
NHTM, một mặt tạo điều kiện đầu tư vào sản xuất, kinh doanh hưởng lợi, gửi vào các
NHTM để có khoản thu nhập danh nghĩa thông qua lãi suất, với mức độ an toàn và khả
năng chi trả cao. Với số vốn huy động được, các NHTM sử dụng vào việc đáp ứng nhu
cầu vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nhằm mở rộng khả năng sản xuất cũng như
dùng vào mục đích cá nhân khác. Phần lớn tiền gởi tiết kiệm được thực hiện thông qua hệ
thống NHTM.
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM



- 4 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
1.2.5. Chức năng tài trợ ngoại thương:
Xuất phát từ những đặc điểm trong hoạt động ngoại thương, thể hiện qua sự khác
nhau về hệ thống tiền tệ ở mỗi nước, năng lực tài chính của người mua và người bán ở
các quốc gia cũng khác nhau. Chính từ sự khác nhau này, các NHTM cần thiết cung ứng
các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế đối với các hoạt động ngoại thương như: tín dụng chiết
khấu hối phiếu, bảo lãnh XNK, tín dụng thư, mua và bán séc du lịch…

Do quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế ngày càng mạnh mẽ, việc giao
lưu trao đổi mua bán giữa các nước trong khu vực và quốc tế tăng nhanh. Cho nên nghiệp
vụ tài trợ ngoại thương của các NHTM không ngừng phát triển.
1.2.6. Dịch vụ uỷ thác:
Với quá trình phát triển kinh tế và đã tăng tưởng kinh tế ngày càng cao sẽ dẫn đến
thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng lên tạo ra khả năng tích luỹ lành mạnh. Trong bối
cảnh như vậy, mỗi cá nhân có thể có một khối lượng tài sản giá trị lớn, làm xuất hiện nhu
cầu muốn phân chia tài sản trước khi qua đời, từ đó làm phát triển các dịch vụ uỷ thác của
các NHTM. Qua hình thức uỷ thác, người ủy thác sẽ viết di chúc đó. Các văn phòng ủy
thác có trách nhiệm sử dụng vốn để đầu tư quản lý số vốn này, kể cả việc phân phối thu
nhập, theo các điều khoản ghi trong hợp đồng uỷ thác.
Các văn phòng uỷ thác của các NHTM còn cung cấp và thực hiện nhiều dịch vụ
khác như quản lý tiền hưu trí, phân chia lợi tức, làm đại lý thanh toán và giữ sổ theo dõi
các trái phiếu đó cho các công ty, các dịch vụ liên quan đến việc phát hành và chuộc lại
các chứng khoán. Hiện nay, các NHTM Việt Nam gần như chưa thực hiện chức năng
này.
1.2.7. Bảo quản an toàn vật có giá:
Thông thường cơ sở vật chất của các NHTM được xây dựng kiên cố, trang bị hiện
đại để bảo quản tiền bạc và các tài sản có giá trị của bản thân ngân hàng. Chính từ những
ưu điểm đó mà các NHTM có điều kiện để mở rộng thực hiện các chức năng bảo quản
vật có giá của khách hàng có nhu cầu gửi bảo quản.

Ngày nay với sự phát triển của các phương tiện bảo quản hiện đại với tình hình
trật tự an toàn trong xã hội còn nhiều phức tạp ảnh hưởng đến mức độ an toàn bí mật, cho
nên dịch vụ bảo quản an toàn tài sản, vật có giá trị của các NHTM không ngừng phát
triển. Công việc bảo quản vật có giá đựơc phân thành 2 bộ phận khác nhau trong mỗi một
ngân hàng, đó là dịch vụ cho thuê két sắt bảo quản ký thác và trực tiếp bảo quản vật có
giá của khách hàng.
Vì tính chất quan trọng của chức năng này, đồng thời cũng để đảm bảo uy tín đặc
biệt với khách hàng, thường việc bảo quản vật có giá chỉ diễn ra ở các ngân hàng lớn, có
đủ điểu kiện cơ sở vật chất, kho tàng đảm bảo an toàn cao.
1.2.8. Đa dạng hoá cung ứng dịch vụ:
Theo đại từ điển kinh tế thị trường “Đa dạng hoá kinh doanh là một sách lược của
một doanh nghiệp cùng một lúc kinh doanh từ hai ngành nghề trở lên; doanh nghiệp áp
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 5 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
dụng kinh doanh đa dạng, tham gia vào hoạt động sản xuất và tiêu thụ nhiều loại hàng
hoá và dịch vụ. Trước tiên cần chọn phương hướng đa dạng hoá và chọn loại nào để đa
dạng hoá thì hữu hiệu hơn, kinh doanh đa dạng hoá, không chỉ hạn chế ở chỗ mở rộng
chủng loại sản phẩm; mà còn gồm cả mở rộng phạm vi sản xuất và thị trường. Mục đích
của nó là để phân tán nguy cơ, tránh cho thị trường của một loại hàng nào đó có biến
động, ảnh hưởng đến thu lợi và lợi dụng đầy đủ tiềm lực sản xuất, tiềm lực tiêu thụ của
thị trường, dùng sản phẩm phụ và tiết kiệm chi phí tiêu thụ”.
Như vậy đối với mỗi NHTM, đa dạng hoá nghiệp vụ là việc ngân hàng thực hiện
kinh doanh nhiều nghiệp vụ khác nhau, tạo ra sự phong phú, đa dạng trong toàn bộ các
dịch vụ tài chính, mà ngân hàng đó có thể cung cấp cho tất cả đối tượng khách hàng trong
nền kinh tế. Đồng thời, đa dạng hoá nghiệp vụ không chỉ hạn chế ở việc mở rộng các loại
nghiệp vụ, mà còn bao hàm cả mở rộng, phát triển nghiệp vụ về phạm vi, qui mô, hình
thức thực hiện; không tập trung hầu hết ngân quỹ vào một tài sản, hay một số ít tài sản rủi

ro có tương quan thu nhập thuận chiều với nhau. Nói cách khác, cần duy trì một ngân
hàng hoạt động theo mô hình đa năng: thực hiện kinh doanh nhiều nghiệp vụ, dịch vụ
ngân hàngcho tất cả các đối tượng trong nền kinh tế.
Giữa đa dạng hoá nghiệp vụ với nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM có quan
hệ biện chứng.
Đa dạng hoá nghiệp vụ giúp các NHTM nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
và vị thế cạnh tranh bởi vì đa dạng hoá nghiệp vụ giúp NHTM phân tán và giảm rủi ro,
làm tăng lợi nhuận của ngân hàng, thúc đẩy các nghiệp vụ cùng phát triển đồng thời làm
tăng khả năng cạnh tranh của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
Mặt khác hiệu quả hoạt động cao, sẽ tạo điều kiện tốt hơn để các NHTM thực hiện
đa dạng hoá nghiệp vụ. Hiệu quả hoạt động cao, lợi nhuận nhiều, ngân hàng sẽ có điều
kiện bổ sung nguồn vốn để thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ. Với hiệu quả hoạt động cao
ngân hàng hoàn toàn có điều kiện để lựa chọn danh mục đầu tư phù hợp, lựa chọn triển
khai những nghiệp vụ. Dịch vụ ngân hàng hiện đại để hướng đạo thị trường sử dụng;
trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, một ngân hàng hoạt động ổn dịnh, chắc
chắn, có hiệu quả cao sẽ tạo được lòng tin và thu hút khách hàng. Sản phẩm mới triển
khai của ngân hàng đó sẽ dễ dàng được các khách hàng chấp nhận; hoạt động có hiệu
quả, mức lương cao, ổn định sẽ giúp cho ngân hàng thu hút đuợc lao động có trình độ
chuyên môn cao, khuyến khích họ làm việc nhiệt tình, tận tụy và có trách nhiệm với
khách hàng. Đồng thời, ngân hàng có điều kiện phát triển chuyên môn hoá sâu, nâng cao
kỹ năng từng nhóm nhân viên hoặc từng bộ phận và đó là một torng những điều kiện để
thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ.
Việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa đa dạng hoá nghiệp vụ và nâng cao
hiệu quả hoạt động cho thấy: đa dạng hoá nghiệp vụ ngân hàng là giải pháp cơ bản,
không thể thiếu để nâng cao hiệu quả hoạt động các NHTM trong nền kinh tế thị trường
ngày càng phát triển, mà kinh nghiệm của nhiều NHTM thành đạt trên thế giới đã cho
thấy rõ điều đó. Đây là xu thế tất yếu, một đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế và là lợi ích
sống còn của bản thân mỗi ngân hàng.

Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM



- 6 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
1.3. Vai trò của NHTM :

Ngày nay, với cơ chế kinh tế thị trường NHTM là cầu nối quan trọng trong mọi
hoạt động kinh tế. Với sự chuyển mình của ngân hàng về một lĩnh vực nào đó có thể làm
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gạp khó khăn. Như đã biết, vốn lưu
động của doanh nghiệp không phải lúc nào cũng đáp ứng kịp thời cho nhu cầu SXKD,
đặc biệt với cơ chế thị trường sôi động, cạnh tranh, đầy rủi ro bất trắc.
Như vậy khả năng thanh toán sức cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ yếu đi. Do đó
phải nhờ đến Ngân hàng giải quyết nguồn vốn bổ sung cho quá trình hoạt động của doanh
nghiệp tức ngân hàng đã thực hiện vai trò thông mạch máu lưu thông hàng hóa và tạo cơ
hội cho các doanh nghiệp SXKD. Mặt khác để tạo nguồn vốn ngân hàng đã khai thác
nguồn vốn nhàn rỗi, giúp các doanh nghiệp tận dụng tài nguyên này. Từ đó giải quyết
nhiều vấn đề kinh tế xã hội.

1.4. Các hoạt động chủ yếu của NHTM :
1.4.1. NGUỒN VỐN
 Gồm nguồn vốn chủ sở hữu
 Nguồn vốn huy động: dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới hình thức tiền
gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi cĩ kỳ hạn, v cc loại tiền gửi khc.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn
của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Vay vốn của các TCTD khác hoạt động tại Việt Nam và của các TCTD nước
ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của NHNN.
- Cac kênh huy động khác theo quy định của NHNN.


1.4.2. SỬ DỤNG VỐN
 Cho vay
Trong thời gian qua các ngân hàng thương mại đã đóng góp nhất định trong việc
cung ứng vốn vay cho nền kinh tế, cụ thể hơn, trong việc tài trợ vốn phát triển khu vực
kinh tế tư nhân. Tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn bám sát với tốc độ tăng của huy động
vốn. Tình hình có cải thiện tương đối vào những năm trở lại đây, với tốc độ huy động
bình quân đã tăng nhanh hơn tốc độ cho vay các tổ chức kinh tế. NHTM cho các tổ
chức, cá nhân vay vốn dưới hình thức:
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
- Cho vay trung, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống.
 Đầu tư
Tỷ lệ phần liên kết, liên doanh, mua cổ phần của một số ngân hàng cổ phần trên
tổng tài sản vẫn còn thấp. Tình hình trên là do nhiều ngân hàng có vốn điều lệ thấp,
không đủ năng lực tài chính cho các đầu tư trung- dài hạn. Bên cạnh đó, chính sách của
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 7 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
chính phủ đối với đầu tư trong nước còn nhiều bất bình đẳng, không khuyến khích như
với khu vực đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, dịch vụ triết khấu thương phiếu, các giấy tờ
có giávẵn chư phát triển, do vẫn thiếu những hàng lang pháp lý cần thiết cho việc lưu
thông thông suất của các sản phẩm này.
 Bảo lãnh
Các ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh chủ yếu dưới hình thức
mở LC nhập khẩu, bảo lnh thực hiện hợp đồng, thanh toán, đấu thầu…. Các hình thức
bảo lãnh khác ít được áp dụng. Đây là lãnh vực nhạy cảm vì nó thể hiện uy tín của các
ngân hàng đối với giới tài chính ngân hàng quốc tế.

 Các dịch vụ khác
Một số ngân hàng đã thực hiện các dịch uỷ thác đầu tư cho các tổ chức nước
ngoài, quản lý tài sản, dịch vụ kinh doanh chứng khoán … nhưng kết quả đạt được chưa
cao.
Việc kinh doanh ngoại tệ vẫn chủ yếu ở hình thức giao ngay, do hạn chế của vốn
điều lệ, nên ít có ngân hàng nào thực hiện được các hình thức mua bán có kỳ hạn và hoán
đổi.
Các dịch vụ truyền thống khác như cho thuê két sắt, bảo quản giấy tờ có giá,…
cũng không phát triển do hầu hết các ngân hàng gặp thế bị động do việc trụ sở chính
không phải là tài sản riêng của mình.
Các dịch vụ như cho thuê tài chính, bao thanh toán, đầu tư mạo hiểm đang được
một số ngân hàng triển khai thực hiện.
Vẫn còn những khó khăn nhất định cho việc phát triển các dịch vụ của các ngân
hàng thương mại. Các khó khăn đó là: vấn đề vốn, cơ sở hạ tầng công nghệ, việc bảo mật
thông tin khách hàng. Bên cạnh đó chất lượng, cung cách phục vụ, chăm sóc khách hàng
và các khó khăn từ môi trường bên ngoài đã ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển các sản
phẩm dịch vụ của ngân hàng.

Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 8 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
Phần 2: Thực trạng về hoạt động hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian qua
(2006-2008)

2.1. Đánh giá về ưu-nhược điểm:
2.1.1. Ưu Điểm:
- Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp.
- Am hiểu về thị trường trong nước.

- Đội ngũ khách hàng của NHTM VN khá đông đảo.
- Chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn và dịch vụ.
- Đội ngũ nhân viên tận tụy, ham học hỏi và có khả năng tiếp cận nhanh các kiến
thức, kỹ thuật hiện đại.
- Có được sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt từ phía NH Trung ương.
- Môi trường pháp lý thuận lợi.
- Hầu hết đều đang thực hiện hiện đại hóa ngân hàng.

Thuận lợi về môi trường kinh doanh trong năm 2008 của các NHTM:
- Mặc dù gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng nền kinh tế
đất nước vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước trong khu vực, tăng trưởng GDP
ước khoảng 6,23 %, nền chính trị - xã hội được giữ vững rất ổn định.
- Các hoạt động xuất khẩu đạt chỉ số khá cao, thương mại quốc tế phát triển ổn định,
kim ngạch xuất khẩu ước đạt 63 tỷ USD, tăng 30 % so với năm 2007, cao nhất trong 10
năm qua, nhập siêu giảm 3 tỷ USD.
- Hoạt động ngân hàng năm 2008 có nhiều biến động, song với những giải pháp hợp
lý, linh hoạt của chính phủ phát huy hiệu quả, tạo điều kiện cho các NHTM đặc biệt là
các NHTM lớn hạn chế đột biến xấu để tiếp tục phát triển ổn định, an toàn.


2.1.2. Nhöïôc ñieåm:
Mặc dù trong nhiều năm qua, ngành ngân hàng Việt Nam đã có nhiều đổi mới,
song đến nay hệ thống ngân hàng vẫn được đánh giá là đang ở giai đoạn đầu, năng lực tài
chính của nhiều NHTM Việt Nam còn yếu, nợ quá hạn cao và nhiều rủi ro.
Nhóm 5 NHTM quốc doanh hiện chiếm thị phần lớn trong hệ thống ngân hàng với
khoảng gần 70% tổng nguồn vốn huy động và thị phần tín dụng, nhưng tổng số vốn tự có
chỉ khoảng 2,5 tỷ USD (tương đương với một ngân hàng nhỏ trong khu vực). Với tỷ lệ
vốn tự có thấp, rõ ràng khả năng cạnh tranh của các NHTM quốc doanh - vốn được coi là
xương sống của hệ thống NHTM Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn khi hội nhập theo lộ
trình đã cam kết.

Hoạt động dịch vụ của các NHTM trong nước còn nghèo nàn, đơn điệu, tính tiện
ích chưa cao, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho khách hàng thuộc các thành
phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng. Tín dụng vẫn là hoạt động
kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho các ngân hàng; các loại hình dịch vụ gia tăng và
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 9 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
nghiệp vụ mới như thanh toán dịch vụ ngân hàng, môi giới kinh doanh, tư vấn dự án
còn ít được chú ý phát triển (nếu có cũng chỉ ở trong giai đoạn khởi phát ban đầu).
Các hoạt động ngân hàng bán lẻ và cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Nhóm các NHTM cổ phần hiện có 36 ngân hàng,
chiếm khoảng 20% tổng nguồn vốn huy động và thị phần tín dụng. Do nhận thức được sự
hạn chế về vốn và thị phần của mình so với các NHTM quốc doanh nên các NHTM cổ
phần chủ yếu tập trung vào các hoạt động bán lẻ. Các NHTM cổ phần đã bắt đầu kết hợp
được các dịch vụ ngân hàng truyền thống và các dịch vụ gia tăng. Gắn liền sự phát triển
đó là việc mở rộng nhanh chóng mạng lưới hoạt động ở các tỉnh/thành phố lớn. Do đó,
quy mô bộ máy không quá lớn và cơ chế tiền lương linh hoạt, các NHTM cổ phần hiện
không gặp những vấn đề lớn về duy trì và nâng cao năng lực cán bộ. Đội ngũ cán bộ đa
phần là trẻ, mới được đào tạo, có động lực phát triển tốt, kết hợp với một số cán bộ lâu
năm, có kinh nghiệm hoạt động trong ngành. Tuy nhiên, nhóm ngân hàng này cũng mới
chiếm một thị phần khiêm tốn trên thị trường.
Nhóm các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh với 35 ngân hàng, chiếm
khoảng 10% tổng nguồn vốn huy động và thị phần tín dụng. Tuy nhiên, nhóm các ngân
hàng này có tiềm lực kinh tế mạnh và được sự hậu thuẫn từ ngân hàng mẹ về hệ thống
thanh toán, các sản phẩm dịch vụ hiện đại sẽ là đối thủ cạnh tranh chính của các NHTM
trong nước trong quá trình hội nhập. Nhóm các ngân hàng này hiện chủ yếu mới chỉ phục
vụ các khách hàng là các cá nhân và công ty nước ngoài hiện đang đầu tư tại Việt Nam và
bắt đầu tiếp cận với các doanh nghiệp Việt Nam.

Trong hoạt động, các ngân hàng nước ngoài tập trung vào chất lượng và hiệu quả
của dịch vụ cung cấp, đồng thời tiếp tục mở rộng mạng lưới, áp dụng các công nghệ tiên
tiến trong quản lý hoạt động và kiểm soát rủi ro. Một lợi thế cạnh tranh của nhóm ngân
hàng này là sự hỗ trợ về vốn, nguồn nhân lực và công nghệ của các ngân hàng mẹ. Đồng
thời, hiện đang có xu hướng các ngân hàng nước ngoài mua cổ phần của các NHTM Việt
Nam để mở rộng tầm hoạt động tại thị trường.
Hiện tại, hình thức ngân hàng 100% vốn nước ngoài có 2 ngân hàng đã được chấp
thuận thành lập về mặt nguyên tắc và đang chờ giấy phép hoạt động là HSBC và
Standard Chartered Bank. Đây thực sự sẽ là những nhân tố mới trên thị trường ngân hàng
tài chính Việt Nam, hứa hẹn một cuộc cạnh tranh gay gắt với các NHTM trong nước. Tuy
nhiên, ưu thế của các ngân hàng Việt Nam so với các ngân hàng nước ngoài là có được
mạng lưới chi nhánh rộng khắp các tỉnh/thành phố trong cả nước, có được mối quan hệ
truyền thống với khách hàng qua nhiều năm và sự hiểu biết một cách cụ thể khả năng,
yêu cầu của khách hàng và những vấn đề văn hoá, phong tục mà các ngân hàng nước
ngoài chưa thể có được trong quan hệ với khách hàng bản địa. Ngoài ra, hiện nay các
NHTM Việt Nam đang tích cực triển khai đề án tái cơ cấu lại và cổ phần hoá 5 NHTM
nhà nước. Nếu thực hiện thành công chương trình tái cơ cấu và cổ phần hoá này thì năng
lực cạnh tranh của các NHTM trong nước sẽ được tăng lên đáng kể.
Nhöõng khó khăn mà NHTM phải đối mặt trong năm 2008:
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 10 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
- Thứ nhất, việc tăng lãi suất cơ bản, từ 8% lên 14% đã buộc các ngân hàng
thương mại lao vào một cuộc hạy đua tang lãi suất tiền gửi, lãi suất tiền gửi mà các ngân
hàng huy động đang tiến đến lãi suất trần 19%, nhưng vẫn khó huy động. Các DN vay
vốn ngân hàng với lãi suất gồm 21% + phí có thể lên trên 25%. Nhưng nhiều ngân
hàng vẫn không dám cho vay vì lãi suất đầu ra không đủ bù đắp chi ph1i đầu
vào. Với lãi suất này thì có đến 90% các DN hiện nay khơng thể vay vốn ngân hàng để

kinh doanh được vì tỉ lệ sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROI) chỉ trên dưới 12%/năm. Kết
hợp với giá xăng dầu, vật liệu đầu vào tăng trong khi giá đầu ra bị khống chế để chống
lạm phát, thì các DN chỉ còn một lối thốt duy nhất là kinh doanh để ít lỗ hơn, càng kinh
doanh các DN sẽ càng rơi vào tình trạng thua lỗ. Trong năm 2008 có tới hơn 10 lần
lải suất cơ bản được điều chỉnh (09 tháng đầu năm LSCB liên tục tăng nhằm thắt chặt
chính sách tiền tệ, các tháng cuối năm LSCB lại liên tục giảm nhằm ngăn chặn suy thối).
- Thứ hai, việc thắt chặt tiền tệ, tín dụng bằng cách bắt buộc các ngân hàng thương
mại tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, u cầu các ngân hàng thương mại mua trái phiéu với lãi
suất thấp…làm cho số vốn khả dụng để cho vay của các ngân hàng giảm đi, dẫn đến họ
phải đầu tư số vốn còn lại sau khi trừ phần dự trữ cất kho vào những lĩnh vực có rủi ro
cao như cho vay chứng khốn; cho vay kinh doanh bất động sản…với lãi suất cao nhằm
bù đắp cho số vốn huy động lãi suất cao đang phải để dự trữ trong kho hoặc mua trái
phiếu chính phủ với lãi suất thấp. Kết quả là, nguy cơ các ngân hàng thương mại bị mất
vốn, thua lỗ đang ngày càng hiện hữu; tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng ngày
càng lún sâu với khó khăn chồng chất.
Chính sách tín dụng can thiệp bằng biện pháp hành chính như trên, khơng những
đã làm khó cho ngân hàng thương mại mà còn đẩy các DN vào khó khăn về chi phí lãi
suất tăng cao và khó khăn trong việc vay vốn. Tác động của các biện pháp này có ảnh
hưởng lan rộng và sâu sắc đến thị trường chứng khốn và thị trường bất động sản. Kết
quả làm cho hai thị trường này lao dốc khơng phanh như đã đề cập ở trên.
Những vấn đề trên tác động trực tiếp, hạn chế tính chủ động trong hoạt động kinh
doanh, tình hình tài chính của các ngân hàng. Đồng thời, do thị trường giá cả biến động
rất lớn, lạm phát ở mức cao 2 con số, chỉ số giá tuy đã được kiềm chế bằng nhiều biện
pháp nhưng vẩn ở mức 19,9%, tăng gấp 03 lần tăng trưởng GDP, làm cho các doanh
nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ (gốc
và lãi), chất lượng tín dụng.
2.1.3. Những điểm yếu của hệ thống ngân hàng khi gia nhập WTO:
Việc gia nhập WTO đã mở ra những cơ hội phát triển mới cho thị trường tài chính
Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó, đầu tư trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng cũng đặt
ra nhiều thách thức và rủi ro đối với các ngân hàng thương mại của Việt Nam.

Trong một hai năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh tiền tệ - ngân hàng của Việt
Nam phát triển mạnh mẽ. Tính hấp dẫn của kinh doanh tiền tệ - ngân hàng được đánh giá
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 11 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
là cao hơn so với các ngành kinh tế khác. Lợi nhuận trên vốn tự có của nhiều ngân hàng
đạt 9-10%, cao hơn nhiều so với mức 1-2% của ngành công nghiệp.
Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội lực
của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công
nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực.
Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn
nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương
mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà
nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân
hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và
trên 73% thị trường tín dụng.
Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt
Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ
quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó
với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Điểm hạn chế thứ hai của các ngân hàng trong nước là hệ thống dịch vụ ngân hàng
trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng
và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới
dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu
của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập.
Hieän nay do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng đã khiến các
ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút
khách hàng. Tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định.

Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng chú
ý là các tổ chức tín dụng nhà nước. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ quá hạn
gia tăng tại các ngân hàng thương mại quốc doanh là do: việc cho vay chủ yếu dựa vào
tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển
và còn nhiều biến động phức tạp; tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi
suất trong nước tăng lên, tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm
gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân
hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn
ngày càng lớn.
Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính
còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 12 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn
chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn.
Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao,
nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn
bộ hệ thống.
2.2. Nguyên nhân khách quan và chủ quan:
1. Quản lý rủi ro tín dụng kém:
Hiện nay, nguồn thu của các NHTM, đặc biệt là các NHTM nhà nước, chủ yếu từ
các nghiệp vụ tín dụng truyền thống. Các NHTM nhà nước chủ yếu cho vay các tổng
công ty nhà nước mà thực lực tài chính rất yếu kém. Thực trạng cho vay với mức dư nợ
tới 35 - 40% vào một nhóm khách hàng đang báo động “đỏ” về chất lượng tín dụng. Cho
đến nay, NHTM nhà nước vẫn là người cho vay doanh nghiệp nhà nước lớn nhất do: mối
quan hệ truyền thống, nhu cầu vay lớn và khả năng cho vay lớn (ngân hàng thương mại

cổ phần khó đáp ứng).
Một số ngân hàng không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho
vay; chính sách và quy trình cho vay còn lỏng lẻo; chưa thực sự phân định rạch ròi giữa
khâu thẩm định và khâu cho vay; định giá lãi suất trong chính sách cho vay các doanh
nghiệp Nhà nước (DNNN) còn mang dáng dấp bao cấp; công tác kiểm tra, kiểm soát nội
bộ, chính sách quản trị rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng vẫn còn hạn chế.
Tại Việt Nam, hệ thống chuẩn mực kế toán hiện hành do Bộ Tài chính ban hành
được Hiệp hội kế toán và kiểm toán Việt Nam đánh giá là đã tuân thủ khoảng 95% chuẩn
mực kế toán quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống kế toán áp dụng đối với các TCTD Việt Nam
mới chỉ tuân thủ khoảng 50% chuẩn mực kế toán quốc tế do Bộ Tài chính vẫn chưa ban
hành các chuẩn mực kế toán về trình bày, ghi nhận và đo lường công cụ tài chính. Vì vậy,
kết quả kiểm toán theo chuẩn mực Việt Nam (VAS) và chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS)
và từ tháng 4/2001, được gọi là IFRS có sự khác biệt về một số chỉ tiêu như số liệu dự
phòng rủi ro tín dụng, nguồn vốn chủ sở hữu Trong vòng 3 năm trở lại đây, 5 NHTM
nhà nước thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính theo cả 2 chuẩn mực kế toán Việt Nam
và kế toán quốc tế do các ngân hàng này nằm trong Dự án tái cơ cấu do WB tài trợ.
Trong khi đó, hầu hết các NHTM cổ phần chỉ thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hằng
năm theo chuẩn mực Việt Nam (trừ một số ngân hàng được WB lựa chọn vào dự án tái
cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam như Eximbank, Hàng Hải hoặc một số ngân hàng chủ
động thực hiện như Techcombank). Việc các ngân hàng phải thực hiện kiểm toán theo 2
chuẩn mực VAS và IFRS không những gây tốn kém, mà còn ảnh hưởng đến quá trình
đánh giá rủi ro và khả năng hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
2. Khó khăn về thanh khoản:
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 13 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
Thứ nhất, do tăng trưởng tín dụng quá nóng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các
NHTM năm 2007 là 53,89% - “quá nóng so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ huy

động”.
Trong 2008, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt một
cách quyết liệt nhằm thu về một khối lượng tiền mặt đồng Việt Nam khá lớn từ lưu thông
thì một số NHTM không thể xoay chuyển kịp thời, bị mất thanh khoản do cơ cấu đầu tư.
Thứ hai, công tác dự báo và phân tích thị trường của các NHTM Việt Nam còn
nhiều hạn chế. Các NHTM Việt Nam “còn có tư tưởng ỷ lại quá nhiều vào cơ chế nhà
nước, trong khi các ngân hàng nước ngoài, ngoài việc chấp hành nghiêm túc các tỷ lệ an
toàn còn thường xuyên nghiên cứu, dự báo sát các diễn biến của thị trường nên đã dự
phòng vốn thanh khoản và điều chỉnh kịp thời, không bị động trước những tác động thị
trường”.
Thứ ba, tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán còn
yếu, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng
gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn đến làm
suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
Thứ tư, vấn đề quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt, “do sự yếu kém từ
quản trị tài sản Nợ, Có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu
hiệu…NHNN cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như sự thay đổi
lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của NHNN”.
Thêm vào đó, một nguyên nhân căn bản xuất phát từ phía khách hàng – nhóm
nguyên nhân mà “các ngân hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu
quả thanh khoản của các ngân hàng. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, lại chưa
minh bạch, một số khách hàng (kể cả pháp nhân) đã rút tiền ra khỏi ngân hàng này và
chuyển sang ngân hàng khác, dân cư rút tiền để mua vàng, mua đô la Mỹ để tích trữ…đã
làm tăng tính bất ổn của thị trường, nội và ngoại tệ, gây khó khăn cho chính khách hàng
đã và đang sử dụng dịch vụ gửi và vay tiền tại ngân hàng”.
Các giao dịch bằng ngoại tệ tại các NHTM Việt Nam chủ yếu tập trung vào một
loại ngoại tệ là USD, những tác động trực tiếp từ các loại rủi ro khác trong hoạt động
ngân hàng cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới rủi ro thanh khoản, hiện tượng một số tập
đoàn, Tổng công ty Nhà nước chuyển tiền hoặc rút tiền với khối lượng lớn, yếu kém
trong công tác kế hoạch hóa và quản trị điều hành…




Phần 3: Những kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện phát triển hệ thống NHTM Việt
Nam
3.1 Giải pháp huy động vốn:
Thứ nhất là nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại bằng việc
đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, điều chỉnh li suất tiền gửi trung v di hạn hợp lý.
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 14 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
Ngồi ra, cc ngn hng cần cơ cấu đầu tư vốn trong điều kiện mới theo hướng, giảm dần tỷ
trọng cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, phát triển cho vay tiêu
dùng đối với các cá nhân trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại với chức năng “đi vay để cho vay” do vậy bản thân mỗi
ngân hàng muốn mở rộng được hoạt động phải huy động nguồn vốn lớn. Thực hiện
đường lối của Đảng ta: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế
độc lập, đưa nước ta thành một nước công nghiệp; phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ nội lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có
hiệu qủa và bền vững. Phải huy động mọi nguồn vốn trong nước và thu hút vốn đầu tư
nước ngoài ngày càng nhiều hơn, đặc biệt là phải đẩy mạnh huy động vốn từ dân cư.
- Cần mở rộng, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn nhằm tăng nhanh nguồn
nội, ngoại tệ ổn định và vững chắc, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn. Ngoài các hình
thức huy động truyền thống, chú ý mở thêm các hình thức huy động mới để khách hàng
lựa chọn như tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm trả lãi
hàng tháng, trả lãi trước, trả lãi sau, tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm ngoại tệ…; áp dụng lãi
suất linh hoạt, uyển chuyển phù hợp với từng thời kỳ, từng khu vực kèm theo các hình
thức tặng qùa, khuyến mại để thu hút khách hàng.

- Nhận dạng đầy đủ từng loại khách hàng tiền gửi để có chiến lược và loại hình
thích hợp trong huy động vốn:
Huy động vốn từ dân cư là nguồn vốn có tính ổn định cao, kỳ hạn dài. Muốn ngân
hàng phát triển phải xây dựng cơ cấu nguồn vốn huy động từ dân cư tối thiểu chiếm trên
50% tổng nguồn vốn huy động. Hiện nay tiềm năng vốn nhàn rỗi trong dân cư còn lớn,
một bộ phận giàu có họ tích trữ dưới dạng vàng và cả ngoại tệ chứ không thích gửi vào
ngân hàng, mặt khác rất nhiều khoản tiền tích lũy và thu nhập của dân cư và CB - CNV,
người lao động chưa cần dùng đến ngay nhưng do nhận thức và nhiều nguyên nhân khác
nhau họ giữ tiền mặt. Đây thật sự là một tiềm năng lớn, các ngân hàng phải tăng cường
tiếp thị quảng cáo và đổi mới trong giao dịch để thu hút khách hàng.
Đối với các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh là nhóm đối tượng có nhu cầu
giao dịch thường xuyên về tiền gửi, tiền vay, thanh toán và các sản phẩm dịch vụ tiện ích
kèm theo. Đây là loại khách hàng rất nhạy cảm trong việc lựa chọn Ngân hàng phục vụ.
Muốn thu hút được nhóm đối tượng này ngân hàng phải tạo được uy tín thực sự. Các chi
nhánh cần đa dạng hóa các tiện ích cho doanh nghiệp. Có chiến lược với khách hàng giao
dịch thường xuyên, các doanh nghiệp có thu lớn, ổn định, có màng lưới rộng, có nguồn
thu ngoại tệ.
Tranh thủ các nguồn vốn lớn của các tổ chức tài chính như kho bạc, quỹ đầu tư,
qũy hỗ trợ, các tổ chức bảo hiểm thông qua phối hợp đầu tư, ủy thác giải ngân.
Chú trọng với các đối tượng khác như thông các Ban quản lý dự án làm dịch vụ
chi trả tiền đền bù, giải tỏa để thu hút tiền tạm thời nhàn rỗi của các dự án và dân cư; tiếp
cận với các Trường đại học, cao đẳng để làm dịch vụ thu học phí của sinh viên; làm dịch
vụ thu tiền lưu động đối với các đơn vị có mạng lưới thu tiền mặt nhiều như công ty xổ
số, bưu điện, các siêu thị, trạm xăng dầu, trạm thu phí giao thông…
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 15 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
- Một vấn đề có tính quyết định để mở rộng huy động vốn là mạng lưới và công

nghệ. Mở thêm mạng lưới (chi nhánh, phòng giao dịch) tại những nơi có môi trường huy
động vốn, áp dụng nhanh công nghệ hiện đại vào các hoạt động giao dịch ngân hàng như
công nghệ thanh toán, kết nối mạng với các đơn vị, tổ chức lớn, công nghệ ngân hàng bán
lẻ (giao dịch một cửa), in sổ tiết kiệm và dùng thẻ cá nhân, gửi một nơi rút tiền nhiều nơi.
- Hệ thống ngân hàng tín dụng phải thực sự đổi mới phong cách giao dịch ân cần
chu đáo, rút ngắn thời gian giao dịch tạo thuận lợi cho khách hàng. Không ngừng đổi mới
thanh toán không dùng tiền mặt, triển khai rộng rãi hình thức tài khoản cá nhân và áp
dụng những sản phẩm dịch vụ mới trong thanh toán để nhanh chóng thay đổi tập quán
quen dùng tiền mặt trong thanh toán giao dịch của nhân dân.
Về phương diện vĩ mô của Nhà nước phải có nhiều biện pháp hữu hiệu đảm bảo
cho nền kinh tế tăng trưởng cao nhưng bền vững, giữ được giá trị của đồng tiền Việt Nam
luôn ổn định và sớm có giá trị chuyển đổi. Phải tăng cường thường xuyên giáo dục cho
dân chúng quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng.

3.2 Giải pháp về hoạt động cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng:
- Từng NHTM phải có chiến lược khách hàng, chọn lựa đối tượng đầu tư phù hợp
với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước trên địa bàn và chiến lược phát
triển của ngành.
Cho vay doanh nghiệp Nhà nước phải gắn với việc xếp loại doanh nghiệp theo qui
chế giám sát và đánh giá hiệu qủa hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước. Chú trọng đối
với các tổng công ty 90,91 và các đơn vị thành viên, các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn
có hiệu qủa, các doanh nghiệp đã được sắp xếp lại theo chủ trương của Nhà nước.
Mở rộng hơn nữa việc cho vay đối với các doanh nghiệp hoạt động theo luật
doanh nghiệp (công ty cổ phần, Công ty TNHH, công ty hợp danh), các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài; các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Tại TPHCM các doanh nghiệp vừa
và nhỏ hoạt động sản xuất và kinh doanh trên mọi lĩnh vực tạo ra nhiều loại sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế thành phố.
Tiếp tục đầu tư đối với các hộ sản xuất kinh doanh ổn định, mở rộng cho vay các
đối tượng khách hàng trên cơ sở hiệu qủa kinh tế và an toàn vốn cao. Cần chú ý đến đối
tượng khách hàng là người Hoa (chiếm khoảng 8,5% dân số của thành phố Hồ Chí Minh)

kinh doanh nhiều ngành nghề đa dạng có uy tín và hiệu qủa.
Mở rộng tín dụng hiệu qủa với các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công
nghiệp: các khu công nghiệp, khu chế xuất ngày càng phát triển và thu hút vốn đầu tư,
giải quyết việc làm cho người lao động và góp phần quan trọng đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hoá. Để từng bước chiếm lĩnh được thị trường tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất, đồng thời thu hút được nguồn vốn ngoại tệ; các NHTM cần có
phương án thành lập các chi nhánh tại khu chế xuất, khu công nghiệp và có giải pháp tiếp
cận như: phối hợp với Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn để cung
ứng các sản phẩm dịch vụ cho doanh nghiệp; phát triển các nghiệp vụ thanh toán quốc tế,
thanh toán thẻ, mua bán ngoại tệ, nhất là triển khai tốt hệ thống thông tin nối mạng với
khách hàng.
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 16 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
Để nâng cao hiệu qủa và sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo chỉ thị số 08 ngày
1/4/2003 của Chính phủ, các chi nhánh cần chú trọng cho vay các doanh nghiệp để đầu tư
xây dựng mua sắm cải tiến dây chuyền máy móc thiết bị phục vụ cho việc nâng cao chất
lượng hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh ngay trong từng loại
sản phẩm, nhất là các sản phẩm có lợi thế về sản xuất, có thị trường tiêu thụ và những sản
phẩm thuộc nhóm hàng nằm trong lộ trình hội nhập với các nước trong khu vực. Ưu tiên
vốn trung, dài hạn đối với doanh nghiệp có dự án sản xuất các sản phẩm hàng hoá có chất
lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế;
- Đẩy mạnh việc đa dạng hoá các loại hình và đối tượng cho vay để phân tán và
hạn chế rủi ro tín dụng như cho vay tiêu dùng đối với CB-CNV, cho vay CB-CNV mua
cổ phần tại doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa; cho vay đối với người đi lao động ở
nước ngoài; cho vay hộ gia đình để sửa chữa và làm nhà ở, mua các phương tiện đi lại,
sinh hoạt để nâng cao đời sống.
- Thực hiện tốt các dịch vụ làm ủy thác đầu tư, dịch vụ giải ngân cho Ngân hàng

chính sách xã hội.
- Cùng với việc cho vay là nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn vốn vay
được đặt lên hàng đầu nhằm bảo đảm hiệu qủa kinh doanh và sự ổn định cho hoạt động
của NHTM Việt Nam.
Nội dung của việc nâng cao chất lượng tín dụng là tăng cường công tác thẩm định
và kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay đối với toàn bộ các khoản vốn vay. Chú trọng
phân tích thường xuyên chất lượng tín dụng nhằm phát hiện sớm các món vay có khả
năng rủi ro để có biện pháp xử lý khắc phục kịp thời. Việc tăng trưởng tín dụng mới phải
đảm bảo được hiệu qủa, an toàn và kiểm soát được vốn đã cho vay. Đồng thời nâng cao
chất lượng hiệu qủa của công tác thanh tra, kiểm soát nội bộ, khi thực hiện các đợt kiểm
tra phải làm rõ đúng, sai và kết luận rõ ràng các vấn đề sai phạm, qui định thời gian sửa
chữa khắc phục. Tăng cường phối hợp với chính quyền và các cơ quan pháp luật để xử lý
thu hồi nợ đối với các món vay qúa hạn, khó đòi.

3.3 Giải pháp về hoạt động ngoại tệ:
Trong các hoạt động kinh doanh của NHTM, hoạt động kinh doanh ngoại tệ ngày
càng có vai trò quan trọng, đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân hàng cũng như phục vụ
đắc lực cho các hoạt động của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Cùng với sự cạnh tranh
trong hoạt động của hệ thống ngân hàng ngày càng tăng lên trong điều kiện hội nhập kinh
tế, sự nới lỏng dần các hạn chế về hoạt động đối với các tổ chức tài chính – tín dụng nước
ngoài tại Việt Nam theo các hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký
kết. Do vậy các NHTM cần phải đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở cả thị trường
trong nước và quốc tế để nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động, góp phần đắc
lực vào hội nhập quốc tế của nền kinh tế nói chung và của ngân hàng nói riêng.
Tăng cường khả năng cạnh tranh trong hoạt động vì hiện nay ngoài sự cạnh tranh
giữa các NHTM trong nước còn có các tổ chức phi ngân hàng, đặc biệt là các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh đang có nhiều lợi thế trong hoạt động
kinh doanh ngoại tệ. Các NHTM cần phải có chiến lược cạnh tranh lâu dài và phải nhanh
chóng tăng cường tiềm lực về qui mô, sức mạnh tài chính, đội ngũ cán bộ, trình độ
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM



- 17 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
chuyên môn, phương tiện làm việc cũng như chất lượng phục vụ… Mỗi NHTM cần phải
hoạch định cho mình chiến lược marketing cụ thể hướng tới thị trường và khách hàng
như chiến lược định vị thị trường, chiến lược quan hệ khách hàng, chiến lược chất lượng
phục vụ ngân hàng và phải được xem như một chiến lược sống còn trong bối cảnh cạnh
tranh ngày càng quyết liệt giữa các ngân hàng hiện nay.
Trong huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ cần phân loại khách hàng để có
chính sách cho từng loại. Đối với khách hàng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu ngân hàng cần có chính sách ưu tiên theo hướng: tạo điều kiện thuận lợi dễ
dàng để các doanh nghiệp sử dụng vốn trên tài khoản một cách linh hoạt và kịp thời khi
có nhu cầu, áp dụng mức ký qũy thấp khi mở thư tín dụng, có chính sách ưu đãi về phí
trong giao dịch quốc tế cho các doanh nghiệp, tư vấn cho khách hàng chọn hình thức vay
mượn, thanh toán để hạn chế rủi ro trong thương mại quốc tế. Trong cho vay ngoài việc
khai thác và mở rộng đối với khách hàng truyền thống, hoạt động ổn định kinh doanh
hiệu qủa, cần mở rộng cho vay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh theo hướng: bám
sát chính sách của Chính phủ về phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như:
chương trình cải cách doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các
văn bản pháp qui của NHNN để cụ thể hoá và vận dụng khi cho vay.
Đối với khách hàng là tầng lớp dân cư cần có chính sách lãi suất tiền gửi hợp lý và
hấp dẫn, điều kiện giao dịch thuận lợi nhanh chóng để thu hút khách hàng.
Đối với dịch vụ thu đổi ngoại tệ, kiều hối ngân hàng cần có các giải pháp hợp lý
như tăng cường tiếp thị bằng khả năng, uy tín, công nghệ ngân hàng, tổ chức chi trả kiều
hối nhanh chóng thuận tiện, tính phí chuyển tiền hợp lý và áp dụng tỷ giá hối đoái theo
nguyên tắc đảm bảo tính cạnh tranh, linh hoạt trong hệ thống, mở rộng các đại lý thu đổi
ngoại tệ tại mỗi chi nhánh.
Đa dạng hóa các giao dịch mua bán ngoại tệ như thực hiện nhiều nghiệp vụ kinh
doanh ngoại tệ khác nhau cho mọi khách hàng trong nền kinh tế.


3.4 Đa dạng hoá và phát triển các sản phẩm dịch vụ tiện ích ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm, là hệ thần
kinh của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, đổi mới và nâng cao hoạt động của ngân hàng là
phương tiện để xây dựng, phát triền nền kinh tế quốc dân hiện đại.
Hệ thống ngân hàng ở nước ta đang được đổi mới theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, hiệu qủa hoạt động chưa
cao. Hiện trên 80% doanh thu của các NHTM Việt Nam đều từ hoạt động tín dụng, các
nghiệp vụ khác rất ít ỏi và đơn điệu nên chưa thật sự là NHTM của nền kinh tế thị trường.
Thực tế đó đòi hỏi các NHTM phải tiếp tục đổi mới hoạt động, phải tìm ra giải pháp hữu
hiệu để phục vụ nền kinh tế tốt hơn và nâng cao hiệu qủa hoạt động của chính mình. Một
trong những vấn đề các NHTM cần quan tâm hiện nay là đa dạng hoá và phát triển các
sản phẩm dịch vụ, tiện ích ngân hàng. Có như vậy mới giúp các NHTM phân tán và giảm
thiểu rủi ro, tăng lợi nhuận và thúc đẩy các nghiệp vụ cùng phát triển để tăng khả năng
cạnh tranh của mỗi NHTM trong thị trường, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi đa dạng của khách
hàng trong việc lựa chọn sử dụng các dịch vụ với chất lượng cao, nhiều tiện ích phù hợp
với xu thế hội nhập.
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 18 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
Xuất phát từ những phân tích trên và những tồn tại của NHTM hiện nay tôi xin đề
xuất một số giải pháp sau:
- Cần hoạch định và lựa chọn chiến lược đa dạng hóa và phát triển các dịch vụ phù
hợp với điều kiện cụ thể của mỗi ngân hàng, từng chi nhánh.
- Việc mở rộng đa dạng hoá nghiệp vụ ngân hàng không thể coi là vấn đề ngắn
hạn, nhất thời, vì nó trước hết là mục tiêu phát triển xã hội lâu dài, hơn nữa nghiệp vụ
ngân hàng nhất là những dịch vụ hiện đại đòi hỏi đầu tư ban đầu rất lớn. Mỗi NHTM phải
dựa vào lợi thế và khả năng của mình để hoạch định chiến lược phát triển một cách phù

hợp. Tiến hành đa dạng hóa và đầu tư từng bước theo phương châm: khai thác triệt để ưu
thế cạnh tranh của mỗi ngân hàng, của từng chi nhánh trong từng vùng, từng địa phương.
Vừa hoàn thiện phát triển, nâng cao chất lượng các nghiệp vụ hiện có, đồng thời triển
khai thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ mới mà xã hội, nền kinh tế đang cần và ngân hàng
mình có điều kiện thực hiện ngay. Tiếp đó mở ra những nghiệp vụ, dịch vụ mang tính thị
trường, sau khi đã đầu tư đổi mới, cải tiến kỹ thuật công nghệ.
Đổi mới về tổ chức và bộ máy hoạt động theo mô hình của một NHTM hiện đại,
phù hợp với tính chất kinh doanh tinh gọn để thích ứng với môi trường trong cơ chế thị
trường, từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế. Đối tượng khách của các NHTM
không chỉ là doanh nghiệp mà phải mở rộng đến mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Từng
đối tượng khách hàng có những yêu cầu mang tính đặc thù riêng nên ngân hàng cũng
phải cấu trúc theo hướng hình thành một hệ thống phân phối bán lẻ, vừa bảo đảm khả
năng cung ứng dịch vụ một cách tiện lợi cho từng đối tượng, vừa đảm bảo việc quản lý
một cách thông suốt.
Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới hoàn thiện kỹ thuật công nghệ ngân hàng
phục vụ mục tiêu tự động hóa nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng. Kỹ thuật công nghệ ngân
hàng sẽ hỗ trợ nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ tạo sức cạnh tranh trong hoạt
động, đồng thời tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện đa dạng hóa các nghiệp vụ tiện ích
cho khách hàng.

3.5 Các giải pháp về tổ chức thực hiện:
Để thực hiện các giải pháp trong việc mở rộng, đa dạng hóa các mặt hoạt động
kinh doanh như trên, cần phải có một số giải pháp trong tổ chức thực hiện như sau:
- Thứ nhất, xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất và mở rộng mạng lưới hoạt động.
- Thứ hai, đào tạo nguồn nhân lực, sắp xếp tổ chức bộ máy để đáp ứng nhu cầu
cạnh tranh và hội nhập:
Cần phải có chiến lược tiếp tục đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ cho cả trước
mắt và lâu dài đảm bảo tinh thông về nghiệp vụ, nâng cao trình độ nhận thức và kỹ năng
nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại (quản trị điều hành, quản trị rủi ro, thẩm định dự án
đầu tư, thanh toán quốc tế, ngân hàng bán lẻ…); thường xuyên mở các lớp chuyên đề

nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ.
- Thứ ba, phát triển công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng:
Các NHTM Việt Nam cần đầu tư tập trung cho TPHCM là đầu mối khu vực Miền
nam cũng như cả nước về trang thiết bị hiện đại ngang tầm với các ngân hàng bạn và khu
vực.
Bài viết 1: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM


- 19 -
SVTH: Trần Thị Hồng Hạnh –Lớp NH4 ngày1- K17
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tin học trong các nghiệp vụ ngân hàng, tập trung
vào xây dựng phần mềm ứng dụng gắn với dịch vụ tiện ích của ngân hàng, đầu tư mạnh
hơn hiện đại hóa thông tin; đào tạo cán bộ đủ khả năng tiếp nhận kỹ thuật mới và đồng bộ
với trang thiết bị. Xây dụng chiến lược hiện đại hoá ứng dụng tin học vào ngân hàng, trên
cơ sở phát huy tự lực cao độ, vận dụng sáng tạo chương trình hiện đại của quốc tế – phát
triển phần mềm gắn với trang thiết bị đồng bộ – gắn với đào tạo, hạn chế lãng phí – đáp
ứng yêu cầu trước mắt và phù hợp với giai đoạn kế tiếp lâu dài.
- Thứ tư, tăng cường công tác thông tin tiếp thị, phát triển thị trường.
- Chủ động tìm kiếm khách hàng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,
các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, hiệp hội trên địa bàn, các hội nghị, hội thảo. Ngoài ra,
cũng cần coi trọng phương pháp tiếp thị gián tiếp thông qua chính khách hàng của mình
bằng việc nâng cao chất lượng dịch vụ để giới thiệu đến các bạn hàng khác.
- Đẩy mạnh tiếp thị bằng hình thức áp phích, tuyên truyền, cần có những biển
quảng cáo lớn tại các trục đường cửa ngõ ra vào thành phố, các bến xe, nhà ga xe lửa, sân
bay.
- Đào tạo kỹ năng, phong cách giao tiếp riêng và có trang phục theo đặc trưng của
từng ngân hàng hoặc thông qua các hoạt động tài trợ cho các lĩnh vực văn hoá, xã hội, thể
thao nhằm mục đích quảng bá và nâng cao vị thế của từng ngân hàng.
- Xây dựng một trang Web giới thiệu về hoạt động, mạng lưới, các dịch vụ sản
phẩm cung ứng cho khách hàng của từng ngân hàng.

- Thứ năm, xây dựng mối quan hệ giữa các ngân hàng thương mại trên cùng địa
bàn.

3.6. Quản lý thanh khoản:

Cần thiết lập chiến lược quản trị thanh khoản thông qua việc hoạch định và dự
đoán những thay đổi về lưu lượng tiền gửi và cho vay, cũng như những thay đổi về lợi
nhuận. Công tác quản trị này phải đánh giá được ảnh hưởng của các yếu tố rủi ro và lợi
nhuận.
Cần tổ chức tốt khâu phân tích và dự báo thị trường, đánh giá các rủi ro có thể xảy
ra trong từng quy trình nghiệp vụ để triển khai kịp thời các biện pháp phòng ngừa và xử
lý rủi ro.


×