Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Vài nét về nhà Lý (1010 - 1225)_ phần 2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.09 KB, 8 trang )

Việc buôn bán với nước ngoài rất phát triển. Cảng Vân Đồn (Quảng Ninh) là
nơi tàu thuyền nước ngoài tấp nập đến trao đổi.
IV. Phát triển văn hóa - xã hội
Nho giáo: Nhà Lý bắt đầu chăm lo việc mở mang học tập và thi cử để tuyển lựa
nhân tài ra làm quan. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho dựng Văn miếu (thờ Khổng
Tử, Chu Tử và 72 vị tiền hiền) và mở Quốc Tử Giám. Nền đại học Việt Nam bắt
đầu từ đấy. Năm 1075 triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài. Đây là
khoa thi tam trường gồm có đủ Phật, Lão, Nho. Vị Trạng nguyên đầu tiên của
nước ta là Lê Văn Thịnh đậu ở khoa thi này.
Tầng lớp nho sĩ thấm nhuần ý thức Nho giáo bắt đầu xuất hiện. Trước đây tầng
lớp có học trong xã hội hầu hết là các nhà sư. Từ đời Lý, Nho giáo bắt đầu có địa
vị trong xã hội. Tuy thế, chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo cũng
chỉ mới bắt đầu. Số nho sĩ được tạo ra hãy còn quá ít, Phật giáo vẫn chiếm ưu thế
và các nhà sư vẫn giữ vai trò quan trọng trong xã hội.
Phật giáo: Phật giáo được truyền bá rộng rãi trong quần chúng và có dấu ấn lên
mọi sinh hoạt văn hóa. Nhà vua và tầng lớp quý tộc rất tôn sùng đạo Phật. Tất cả
tám đời vua nhà Lý, vua nào cũng sùng tín đạo phật. Lý Thái Tổ bản thân là con
nuôi của sư Lý Khánh Vân và từng được nuôi dạy trong chùa từ nhỏ. Đó là vị vua
Phật tử đầu tiên của Việt Nam. Còn vua Lý Thái Tông là Tổ thứ bảy của phái thiền
Vô Ngôn Thông, Lý Thánh Tông là Tổ thứ hai của phái thiền Thảo Đường.
Phái thiền Thảo Đường là phái thiền thứ ba được thành lập tại Việt Nam vào
năm 1068. Việc hiện diện của vị thiền sư này tại đất Đại Cổ Việt là một sự tình cờ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thảo Đường vốn người Trung Hoa đang hành đạo tại Champa, thì vào năm 1069
bị quân Đại Việt bắt trong chuyến vua Lý Thánh Tông đi chinh phạt. Ông bị đưa
về Thăng Long. Tại đây, ông giúp việc cho một vị tăng lục và bộc lộ ra kiến thức
thiền học của mình. Vua biết đến, vời ông làm quốc sư và cho ông trụ trì tại chùa
Khai Quốc ở Thăng Long. Phái thiền này truyền sáu thế hệ. Kể cả thiền sư Thảo
Điền, có tất cả 19 thiền sư. Lý Thánh Tông là vị Tổ thứ hai, Lý Anh Tông thuộc
thế hệ thứ tư, Lý Cao Tông thuộc thế hệ thứ sáu.
Hệ thống tăng già (sangha) được duy trì, quốc sư có vai trò như người cố vấn tối


cao. Nhà vua cho các nhà sư được bận lễ phục riêng của họ. Quý tộc, quan lại thi
nhau cúng tiền bạc cho nhà chùa. Các nhà sư được cấp phát bằng, được miễn thuế
và lao dịch cùng đi lính. Chùa chiền mọc lên khắp nơi, không năm nào mà không
có xây chùa mới, triều đình lại miễn thuế cho dân chúng. Năm 1018, Lý Thái Tổ
cho người đi thỉnh kinh Tam Tạng (Tripitaka) về sao lại và cất vào kho Đại Hưng.
Vua Lý Thái Tông cho xây ngôi chùa Một Cột. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng
không phải vì tính chất kỹ thuật mà vì tính nghệ thuật của nó.
Kiến trúc phát triển mạnh dưới thời nhà Lý và chịu ảnh hưởng của Phật giáo rất
sâu đậm. Cung điện, lâu đài, thành quách và chùa tháp được xây dựng với qui mô
lớn. Thành Thăng Long là một công trình xây dựng lớn trong các triều đại phong
kiến. Thành gồm hai vòng dài khoảng 25 km. Trong hoàng thành có những cung
điện cao đến bốn tầng. Việc xây dựng các chùa tháp rất được coi trọng. Năm 1031
Lý Thái Tông cho xây 950 ngôi chùa. Năm 1056, Lý Thánh Tông lập chùa Sùng
Khánh ở phường Báo Thiên, phải dùng 11 ngàn cân đồng để đúc chuông chùa,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
năm sau lại dựng Tư Thiên Bảo tháp trước chùa Báo Thiên, cao vài chục trượng
(khoảng 50-60m) và có 30 tầng. Ngoài ra còn có nhiều chùa tháp khác cũng đồ sộ
và huy hoàng không kém.
Điêu khắc đời Lý độc đáo, chủ yếu trên gốm và trên đá. Đề tài thường là thiên
nhiên như mây, nước, hoa sen, hoa cúc và đặc biệt là hình tượng con rồng với
nhiều nếp cong mềm mại tượng trưng cho nguồn nước, niềm mơ ước của cư dân
trồng lúa.
Hình tượng con rồng của triều đại này không lẫn được với các triều đại khác.
Những hình điêu khắc ở chùa Phật Tích cho ta thấy rằng nghệ thuật điêu khắc thời
Lý không những tiếp thu nghệ thuật Trung Hoa mà còn của Champa nữa: Nhạc
công và vũ nữ, hình tượng thần điều Garuda.
Ca hát nhảy múa là những sinh hoạt phổ cập trong dân chúng. Hát ả đào đã xuất
hiện. Cảnh vũ nữ múa dân hoa hay vũ công vừa múa vừa sử dụng nhạc cụ được
khắc trên các phù điêu. Đua thuyền, múa rối nước là sinh hoạt lễ hội không thể
thiếu được trong cuộc sống văn hóa của người dân đời Lý.

Ta có thể nói đời Lý là một giai đoạn phát triển rực rỡ của nền văn hóa dân tộc.
V. Nhân vật tiêu biểu
Ngoài những ông vua lỗi lạc của nhà Lý như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý
Thánh Tông, Lý Nhân Tông, nước Việt thời Lý còn có những nhân vật nổi tiếng
như Lê Phụng Hiểu, Lý Đạo Thành, Lê Văn Thịnh đặc biệt có Lý Thường Kiệt,
một nhà quân sự tài ba và ỷ Lan Nguyên phi, một người phụ nữ đã phát huy được
khả năng trong việc cai trị đất nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
ỷ Lan nguyên phi
ỷ Lan quê ở làng Thổ Lỗi (Thuận Thành, Hà Bắc). Năm 1062 vua Lý Thánh
Tông đã 40 tuổi mà không có con nên thường đi các nơi để cầu tự. Một hôm vua
qua làng Thổ Lỗi, trong khi mọi người đổ ra đường xem xa giá thì bà đang hái dâu,
chỉ đứng dựa cây lan mà nhìn. Vua thấy thế làm lạ, cho gọi đến để hỏi. Thấy bà
xinh đẹp, đối đáp dịu dàng lại thông minh sắc sảo, vua đưa về cung và phong làm
ỷ Lan phu nhân. Năm 1066 bà sinh Thái tử Càn Đức và được phong là Nguyên phi.
Lúc bấy giờ giữa Đại Việt và Champa đang xảy ra chiến tranh biên giới. Vua Lý
Thánh Tông phải thân chinh đi đánh (1069). Vua giao cho bà quyền giám quốc.
Sau nhiều trận không thành công, Lý Thánh Tông rút quân về nước. Trên đường
về kinh đô, nghe báo là bà ỷ Lan thay vua trị nước được yên vui, Thánh Tông
nghĩ: "Người đàn bà trị nước còn được như thế, ta đi đánh Chiêm Thành không
thành công, thế ra đàn ông hèn lắm à! Vua đem quân trở lại và lần này chiến thắng.
Năm 1072, Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đức mới bảy tuổi lên nối ngôi. Bà
được phong làm Thái phi. Có tài liệu ghi rằng lúc bấy giờ Thái hậu họ Dương
buông rèm lo việc triều chính. ỷ Lan lên làm Hoàng Thái Hậu (tức Linh Nhân Thái
Hậu) giúp vua trị nước. Trước họa nhà Tống lăm le xâm lăng Đại Việt, bà đã nghe
theo lời Lý Thường Kiệt gọi Lý Đạo Thành trở lại giữ chức Thái phó Bình
Chương quân quốc trọng sự để lo việc triều chính. Đây là lúc triều đình nhà Lý tổ
chức thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Tống. Lý Thường Kiệt đã đem quân
đánh sang tận Ung Châu, Liêm Châu, năm sau chận đứng quân xâm lăng ở sông
Như Nguyệt buộc chúng phải rút về nước. Trong việc trị nước, Thái hậu coi trọng

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
việc phát triển nông nghiệp, bảo vệ trâu bò dùng làm sức kéo. Thương những phụ
nữ nghèo khổ phải đem thân thế nợ, không thể lập gia đình, bà cho xuất tiền chuộc
họ và tìm người gả chồng cho. Thái hậu cũng chú ý mở mang đạo Phật. Tương
truyền bà đã cho xây dựng đến 100 ngôi chùa để mong chuộc lại lỗi đã bức tử
Dương Thái Hậu cùng các cung nữ trước kia.
Lý Thường Kiệt
Lý Thường Kiệt vốn tên là Ngô Tuấn, tự là Thường Kiệt, quê ở làng An Xá,
huyện Quảng Đức (Cơ Xá, Gia Lâm, Hà Nội). Từ nhỏ ông đã ham chuộng cả văn
lẫn võ, thích đọc sách và tập luyện võ nghệ. Năm 20 tuổi, ông được bổ làm một
chức quan nhỏ trong đội kỵ binh. Sau theo lời khuyên của vua Lý Thái Tông, ông
tự hoạn để vào làm quan trong cung. Ông được thăng dần lên đến chức Đô tri nội
thị sảnh, trông coi mọi việc trong cung vua. Đến năm 1069, ông được cử làm Đại
tướng theo vua Lý Thánh Tông tiến công Champa. Lý Thường Kiệt bắt được Chế
Củ trong dịp này khi tiến quân đến tận biên giới Chân Lạp (vùng Phan Rang, Phan
Thiết ngày nay). Chiến thắng trở về, ông được phong làm Phụ quốc Thái phó, tước
Khai quốc công và được vua Lý nhận làm con nuôi, vì thế ông đổi sang họ Lý và
có tên là Lý Thường Kiệt.
Năm 1072, Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đức (7 tuổi, con của ỷ Lan
Nguyên phi) lên nối ngôi, tức là Lý Nhân Tông, Thái hậu Thượng Dương cùng
Thái sư Lý Đạo Thành là phụ chính nhưng Lý Thường Kiệt giúp ỷ Lan (đã trở
thành Linh Nhân Thái hậu) truất quyền phụ chính của Thái hậu Thượng Dương,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
giáng Lý Đạo Thành xuống làm Tả gián nghị Đại phu và đổi đi trấn nhậm ở Nghệ
An. ỷ Lan lên làm Phụ chính còn Lý Thường Kiệt làm Tể tướng.
Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, nhà Tống đang gặp khó khăn về mọi mặt. Tể tưởng
của nhà Tống là Vương An Thạch đưa ra Tân pháp để giải quyết những bế tắc của
Trung Quốc. Một trong những biện pháp của Tân pháp Vương An Thạch là phải
tạo nên uy danh cho nhà Tống bằng cách bành trướng xuống phía Nam, xâm lăng
Đại Việt. Do vậy nhà Tống cho tích trữ lương thảo, quân dụng tại các thành Ung

Châu (Quảng Tây), Khâm Châu và Liêm Châu (Quảng Đông) để chuẩn bị cho
cuộc xâm lăng. Trước tình thế đó Lý Thường Kiệt chủ trương như sau: "Ngồi yên
đợi giặc không bằng đem quân ra đánh trước để chặn mũi nhọn của giặc". Trước
hết để củng cố nội bộ, ông đề nghị cùng ỷ Lan mời Lý Đạo Thành về lại triều đình
giữ chức Thái phó trông coi việc triều chính. Trước họa nước, Lý Đạo Thành hợp
lực cùng Lý Thường Kiệt tích cực chuẩn bị việc đối phó.
Cuối năm 1075, Lý Thường Kiệt đem 10 vạn quân tiến sang đất Tống đánh vào
Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu. Sau 42 ngày vây hãm quân Việt chiếm
được thành Ung Châu. Sau khi phá hủy phần lớn căn cứ hậu cần của quân Tống,
tháng 4.1076, Lý Thường Kiệt cho rút quân về. Cuối năm ấy, nhà Tống cử tướng
Quách Quỳ đem 30 vạn quân theo hai đường thủy bộ sang xâm lược Đại Việt. Lý
Thường Kiệt cho lập phòng tuyến kiên cố dọc theo sông Như Nguyệt để chặn địch.
Đồng thời ông cũng cho quân đón đánh thủy binh địch và đã ngăn được hai cánh
quân thủy bộ của địch phối hợp với nhau. Trên phòng tuyến Như Nguyệt, chiến
trận diễn ra ác liệt. Để cổ vũ quân sĩ, ông làm nên bài thơ và cho người đêm khuya
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
vào đền thờ Trương Hát ở bờ Nam sông Như Nguyệt giả thần nhân đọc vang lên:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)
Nhờ thế tinh thần quân sĩ thêm hăng hái. Sau hơn ba tháng đánh không thắng
lực lượng bộ binh, không thể sang sông vì thiếu thủy binh hỗ trợ, quân Tống bị
chết mất quá nửa lại thêm bệnh tật đe dọa, Quách Quỳ lâm vào thế quẫn bách. Lý
Thường Kiệt chủ động đề nghị hòa để mở lối thoát cho quân địch nhằm sớm chấm
dứt chiến tranh. Đến tháng ba năm 1077 Quách Quỳ rút quân về nước. Từ đấy

quân Tống từ bỏ ý định xâm lược Đại Việt.
VI. Di sản văn hóa tiêu biểu
Nhà Lý để lại nhiều công trình kiến trúc có tính chất Phật giáo như tháp Báo
Thiên (Hà Nội) cao vài mươi trượng (trên 60m), tháp Sùng Thiện Diên Linh (chùa
Đọi) cao 13 tầng Đặc biệt có chùa Một Cột, tuy không cao lớn, đồ sộ nhưng lại
thanh thoát nhẹ nhàng, biểu trưng chiều sâu văn hóa. Để tưởng nhớ triều Lý, người
đời sau có xây Đền Đô (còn gọi là đền Lý Bát Đế) tại đất phát tích của nhà Lý.
Đền Đô, tuy không được xây dựng vào thời nhà Lý, nhưng vẫn mang những
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
đường nét của thời ấy với hình tượng những con rồng, hoa sen, lá sen Ngoài ra,
nhà Lý còn truyền lại nhiều loại hình nghệ thuật độc đáo như múa khiên, đánh cầu
và đặc biệt là múa rối nước.
1. Chùa Một Cột
Chùa được xây dựng vào năm 1049. Chùa có tên là Diên Hựu, nghĩa là phúc
lành dài lâu. Tục truyền rằng một đêm vua Lý Thái Tông nằm một thấy Phật Bà
Quan Âm dẫn đi thăm một tòa sen. Vua đem giấc mộng kể lại cho bá quan văn võ
nghe. Triều thần cho là điềm gỡ, khuyên vua nên xây một ngôi chùa để cầu phúc.
Chùa có hình dáng như một hoa sen mọc trên nước. Tòan bộ ngôi chùa được đặt
trên một cột đá cao chừng 20m. Các cột gỗ đỡ mái được bố trí uốn lượn chồng
chéo tạo nên đường nét của cánh sen. Bên dưới là ao vuông tượng trưng cho đất.
Chung quanh là cây cối xum xuê. Tổng thể khu kiến trúc tạo nên được không khí
thanh tịnh của chữ Thiền.
Chùa Một Cột ngày nay có quy mô nhỏ hơn chùa nguyên thủy vì bị tàn phá và
trùng tu lại nhiều lần, nhưng vẫn còn mang dán dấp độc đáo của ngôi chùa Diên
Hựu xưa.
2. Đền Lý Bát Đế
Làng Cổ Pháp xưa, nay thuộc làng Đình Bảng (huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc),
quê hương của Lý Thái Tổ, là nơi hội tụ nhiều kiến trúc cổ. Trong đó có đền Lý
Bát Đế thờ tám vị vua của triều Lý. Đền còn gọi là đền Đô vì do Đô nguyên soái
Vũ Kỳ Sỹ xây nên vào năm 1600-1602.


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×