238
- Điều trị mạn tính: điều trị theo triệu chứng, cho ăn sữa chua và vitamin các loại
với liều cao.
- Đề phòng: tổ chức sản xuất theo hệ thống kín có hệ thống hút gió.
- Có trang bị bảo hộ lao động: áo quần, mũ, khẩu trang, găng tay để da khỏi tiếp
xúc với thuốc.
- Không được ăn, hút thuốc lá trong khi làm việc. Hết giờ làm việc phải rửa tay
thay quần áo, tắm r
ửa.
- Tuyên truyền giải thích để mọi người hiểu biết tránh dùng bừa bãi như uống
666 để tẩy giun, trừ chấy rận, bôi ghẻ đề phòng nhiễm độc.
- Kiểm tra sức khoẻ công nhân sản xuất theo định kỳ ít nhất một năm 1 lần.
III. THUỐC TRỪ SÂU DDT
DDT tức là diclorodiphenyl triclorectan, hiện nay người ta sản xuất nhiều dạng,
đó là một hỗn hợp gồm nhiều dạng đồ
ng phân của DDT.
DDT nguyên chất là tinh thể không mầu, mùi mốc, độ bay hơi thấp, không tan
trong nước. Tỷ lệ tan trong các dung môi hữu cơ tăng theo nhiệt độ. Rất bền vững, ở
760
0
C không biến chất, không bị các loại acid mạnh và các thứ nước acid phân giải.
Trái lại bị các loại kiềm phân giải thành dichloro - diphennyl - diclorétylen (DDE) ít
độc hơn.
3.1. Cơ chế bệnh sinh
DDT là một chất độc tiếp xúc phá hoại các tế bào thần kinh. Bắt đầu là hiện
tượng kích thích, sau đến rối loạn phối hợp động tác, cuối cùng đi đến tê liệt Vào cơ
thể phần lớn phân bố trong các tổ chức mỡ. Theo Martin và Vai ne
độc tính chủ yếu
của DDT là CHOCL8 (tricloetan). Theo một số nhà nghiên cứu thì liều LD50 đối với
chuột là 200mg/cân nặng. Đối với côn trùng dễ xảy ra hiện tượng quen thuốc nên dùng
lâu mất tác dụng, cần phối hợp thuốc.
Đối với người tiếp xúc qua da với các loại nhũ tương, dầu, mỡ có pha trộn DDT
cũng có thể bị nhiễm độc nhưng ít hơn là nhiễm độc qua đường hô hấp. Một số
nhà
nghiên cứu Mỹ (1950) cho rằng uống vào bị nhiễm độc nặng hơn là hít vào, nguyên
nhân có thể là do bột uống vào hạt to hơn, nhưng thực tế dùng loại dung dịch để phun
hạt tuy nhỏ hơn nhưng lượng hít vào phổi lại nhiều hơn. Theo Campbell (1949) về
bệnh lý giải phẫu không thấy có sự biến đổi gì đặc biệt trong nước tiểu, có thể thấy
hồng cầu, trụ niệu. Có ngườ
i cho rằng khi ngộ độc có thể thấy giảm canxi huyết. DDT
sau khi vào cơ thể được thải ra ngoài bằng đường nước tiểu và phân. Có người cho
rằng 75 ÷ 80% DDT ở trong cơ thể sẽ biến thành DDA (acid phía dicloro diphenyl
acetic) từ từ thải ra theo nước tiểu, một phần nhỏ ở lại gan cũng được phân giải nên ít
239
gây độc.
3.2. Biểu hiện bệnh lý và điều trị
Nhiễm độc DDT có thể có các biểu hiện bệnh lý cấp và mạn tính.
3.2.1. Cấp tính
Nếu uống nhầm phải DDT trước tiên thấy xuất hiện các dấu hiệu về tiêu hoá, ỉa
chảy, tiếp đến các hội chứng thần kinh cảm giác giảm, đau nhức các khớp, tê tay chân,
nhức đầu, chuột rút, co giật cơ, tê lưỡi, môi. Nặng có thể
bị tê liệt mất ngủ, có ảo giác
mê sảng, lên cơn giật, hôn mê đồng tử giãn, khó thở, khi khỏi có thể còn hậu quả viêm
dạ dày.
Nếu vào đường hô hấp: ngoài những triệu chứng trên, nặng sẽ có thể gây phù
phổi cấp, hôn mê.
Nhiễm độc do tiếp xúc gây viêm da, da sưng đỏ, nổi mụn.
Xét nghiệm máu có thể thấy hiện tượng giảm bạch cầu đa nhân, gây thiếu máu
tan huyết, hồng cầ
u mạng lưới tăng. Trong nước tiểu có chất indoxyl sunlfat.
3.2.2. Mạn tính
Toàn thân mỏi mệt, ăn kém, buồn ngủ nhiều. Nặng có thể giảm thị lực, co giật,
tổn thương gan thận. Để chẩn đoán cần phải tìm DDT trong nước tiểu.
Nhìn chung điều trị và phòng bệnh nhiễm độc DDT giống như với 666.
IV. THUỐC TRỪ SÂU THUỶ NGÂN HỮU CƠ
Hoá chất trừ sâu thuỷ ngân hữ
u cơ dùng trong nông nghiệp thường có 3 loại:
Thuỷ ngân Etin clorua, thuỷ ngân phenyl acetat (C
6
H
5
HgO
2
C
2
H
3
) thuỷ ngân còn
photphat (C
2
H
5
HgH
2
PO
4
) Thành phần đưa ra thị trường có 2% thuỷ ngân còn clorua
còn gọi là Cèrèsan hoặc có 2,5% thuỷ ngân Phenyl acetat hay 5% thuỷ ngân còn
photphat. Thuỷ ngân còn clorua là một loại tinh thể trắng, khó hoà tan trong nước, dễ
tan trong cồn và các loại dầu, đe, ở nhiệt độ thấp cũng bốc hơi nhanh. Hai loại còn có
tác dụng diệt sâu, nấm mạnh hơn nhưng có độc tính cao. Những người thường xuyên
tiếp xúc với hoá chất trừ sâu thuỷ ngân hữu cơ thường gặp là sả
n xuất, chế biến, đóng
gói hoặc vận chuyển hoá chất này trong nông nghiệp, để bảo vệ giống, nếu không có ý
thức đề phòng thì dễ bị nhiễm độc. Hoá chất thuỷ ngân hữu cơ thường qua đường hô
hấp, da niêm mạc và đường tiêu hoá vào cơ thể. Loại này thường tích luỹ trong cơ thể
nhất là ở tổ chức não khó tự thải ra ngoài cho nên trong máu và trong nước tiểu nồng
độ không cao. Do tác dụng củ
a thuỷ ngân vào vỏ não nên các tế bào vỏ não bị ức chế,
không điều khiển được các trung tâm thần kinh bên dưới, dẫn đến một trạng thái bệnh
lý của thần kinh sọ não. Ngoài ra còn gây tổn thương ở gan, ruột và thận.
Bệnh ở thể cấp tính: trong miệng có mùi vị kim loại, hít phải nhiều sẽ chóng mặt,
240
kém ăn, buồn nôn, trạng thái lơ mơ. Cá biệt có người đau bụng đi lỏng, có khi đi ngoài
ra máu, có cảm giác nóng bỏng ở cữ lợi sung huyết và chảy máu. Dấu hiệu rõ nhất là
rối loạn thần kinh vận động, co giật, nhất là hai tay.
Nặng: Toàn thân co giật, tứ chi tê dại, nghe kém, mắt mờ, da sưng nóng, đỏ nổi
mụn và bị bỏng.
Bệnh ở thể mạn tính: tiến triển chậ
m, triệu chứng không rõ rệt, trước tiên có cảm
giác mỏi mệt, đau đầu, toàn thân suy yếu, mất ngủ, run chân tay. Nếu điều trị không
kịp thời sẽ dẫn đến bại liệt.
Trong cấp cứu và điều trị người ta dùng BAL hay unitio 15% theo liều 5mg/kg
tiêm bắp thịt đồng thời cho dung dịch ngọt 30 ÷ 40%, 300 ÷500ml tiêm tĩnh mạch,
Vitamin C 10mg từ 3 ÷ 5 ống mỗi ngày.
Nếu vào đường tiêu hoá: cho uống s
ữa hay trứng (cả lòng trắng). Rửa dạ dày và
cho uống than hoạt tính, chất oxit Mg, nếu ở giai đoạn mới.
Nếu là ở giai đoạn mạn tính: dùng unitiol với liều lượng như trên từ 7 ÷ 10 ngày
hoặc 15 ngày, đồng thời kiểm tra thuỷ ngân niệu để quyết định việc dùng thuốc tiếp
tục. Nên sử dụng các loại thuốc an thần. Dùng gluconat canxi 5 ÷ 10% mỗi ngày tiêm
từ 10 ÷ 20ml trong 10 ÷ 15 ngày. N
ếu có viêm lợi, viêm niêm mạc miệng nên cho xúc
miệng bằng dung dịch 0,25% Permanganate Kali.
V. CÁC THUỐC DIỆT CỎ (HERBICIDES)
Các thuốc diệt cỏ ra đời là một tiến bộ trong khoa học nông nghiệp và đặc biệt là
lĩnh vực hoá chất bảo vệ thực vật. Thuốc diệt cỏ có giá trị dự phòng hoặc tiêu diệt các
loại cây không mong muốn trong nông nghiệp. Thuốc diệt cỏ (TTC) đã tiết kiệm sức
lực cho con người và máy móc
để kiểm soát cỏ dại nên ngày nay nó đã chiếm tới 40%
tổng số các loại thuốc trừ sâu diệt cỏ bán ra trên thị trường thế giới. Thuốc diệt cỏ bao
gồm nhiều loại có tác dụng chọn lọc, có loại không chọn lọc, tác động lên tất cả các
cây. Nếu dựa vào đặc tính hoá học thì TTC được phân chia ra các loại sau:
- Thuốc diệt cỏ hỗn hợp độc tính thấp, chủ yếu là TTC hữ
u cơ, loại này độc hại
thấp, hoặc vừa phải.
- Thuốc diệt cỏ độc tính cao hiện nay ít sử dụng.
- Một số loại đặc biệt như: a.cholophenoxyacetic, dipyridyls (Paraquat và diquat).
Thuốc diệt cỏ không những được sử dụng trong nông nghiệp để diệt cỏ dại mà
còn được dùng trong lâm nghiệp để triệt cây nhỏ, chống cháy hoặc dùng trong giao
thông vận tải để làm sạch đường. Trong chiến tranh chố
ng Mỹ các khu rừng nghi có
quân dân ta sử dụng làm căn cứ kháng chiến, người Mỹ đã dùng thuốc diệt cỏ liều cao
tiêu diệt rất nhiều cây cối, phá hoại môi trường lâm sinh. Các thuốc diệt cỏ càng được
241
sử dụng rộng rãi thì số người tiếp xúc với TTC càng cao và nhiều người bị suy giảm
sức khoẻ, nhiễm độc cấp hoặc mạn tính, TTC nhiều khi còn do lượng đọng lại trên
thực phẩm gây hại cho người sử dụng, con số này không thể thống kê đầy đủ được.
Một số tác giả đang nghiên cứu khả năng tác hại lâu dài trên cơ thể người tiếp xúc
cũng như các th
ế hệ do hiện tượng đột biến trên di truyền (chất độc chiến tranh ở Việt
Nam), thậm chí còn có khả năng gây ung thư.
Các loại TTC xâm nhập vào cơ thể con người qua tất cả các đường da, niêm mạc,
hô hấp và tiêu hoá tuỳ theo hoàn cảnh tiếp xúc.
Cơ chế bệnh sinh trong nhiễm độc TTC còn nhiều điều chưa lý giải được, song
người ta thấy một số khả năng gây kích thích tế bào, kích thích thần kinh gây nên các
rối loạn thần kinh giống thuốc trừ sâu là thường gặp (Alachlor, atrazin, simazine, 2, 4
D, 5T ). Một số loại tác động trực tiếp lên tế bào gây kích thích và huỷ hoại tế bào
tiếp xúc ở da, niêm mạc đường hô hấp, tiêu hoá như 2,4 D, paraquat, diquat Tác
dụng gây hại trực tiếp này có thể xảy ra ở các tế bào mà thuốc này đi qua như tế bào
gan và ống thận. Do tác dụng của các TTC gần giống như thuốc trừ sâu dòng chlore
hữu cơ nên bệ
nh cảnh lâm sàng cũng thể hiện tình trạng bệnh lý đa dạng ở nhiều cơ
quan của cơ thể (chủ yếu là da và niêm mạc). Người ta coi thuốc diệt cỏ là loại thuốc
có khả năng gây độc toàn thân nên sẽ có rất nhiều hội chứng bệnh lý có thể xảy ra như
các hội chứng viêm, kích thích da và niêm mạc, hội chứng tiêu hoá, hội chứng suy
nhược thần kinh, viêm các dây thần kinh. Ngoài ra có thể có một số h
ội chứng bệnh lý
do tổn thương gan thận hoặc ung thư, xảy thai
Việc chẩn đoán nhiễm độc các TTC còn gặp nhiều khó khăn, vì việc xác định các
TTC trong cơ thể hoặc trong các loại bệnh phẩm gặp khó khăn, nên cần phải hết sức
lưu ý đến yếu tố tiếp xúc và các hội chứng lâm sàng tương ứng để có chẩn đoán xác
định và chẩn đoán phân biệt có hiệ
u quả nhanh chóng.
Các bệnh nhân nhiễm độc TTC cần phải được giải toả các chất độc và điều trị
phục hồi là chính. Trong quá trình điều trị cần hết sức lưu ý đến việc trung hoà chất
độc, bảo vệ các tế bào tiếp xúc, tránh tổn thương thêm, cần thiết phải tăng khả năng tự
phục hồi của các tế bào bị tác hại. Một số vitamin, dung dị
ch tiêm truyền có tác dụng
tốt với các tế bào.
Đề phòng nhiễm độc TTC cần có biện pháp an toàn vệ sinh lao động trong sản
xuất và sử dụng TTC, đồng thời cũng phải hết sức lưu ý trong sử dụng thức ăn, nước
uống an toàn không bị ô nhiễm thuốc diệt cỏ.
VI. THUỐC DIỆT CHUỘT (RODENTICIDES)
Trong nông nghiệp chuột ngày càng trở nên nguy hại do hiện tượng mất cân bằng
sinh thái, chuột phá hoạ
i mùa màng và phát triển lan rộng khắp mọi nơi trên thế giới.
Có nơi, có vụ chuột phá huỷ hơn 50% hoa màu của nông dân khu vực. Ở nhiều nước
242
phát triển chuột còn phá huỷ hơn 20% lương thực dự trữ quốc gia. Đa số các loại thuốc
diệt chuột đều có ảnh hưởng đến sức khoẻ con người và động vật có ích do độc tính
của chúng. Hiện nay, có rất nhiều loại thuốc diệt chuột có nguồn gốc khác nhau đưa
vào sử dụng trong cộng đồng, nên tình trạng ngộ độc do thuốc chuột ngày càng trở nên
phức tạp v
ề mọi phương diện đặc biệt là đối với trẻ em. Một số loại thuốc diệt chuột
quá nguy hiểm đã được cấm sử đụng song một số dạng như phốtpho trắng và Vacor
(pyriminil) thì vẫn còn dùng, tuy rằng theo quy định thì các loại này đã không được
dùng từ lâu vì độc hại với người rất mạnh. Fluroaceto sodium có tính độc tương tự
nhưng còn được dùng để diệt chó sói. Strychnin có thể đượ
c dùng để diệt chuột khi
thuốc chống đông máu không có hiệu quả, nhưng nó độc cho mọi động vật máu nóng.
ANTU - ∞ naphthyl - thiuoure ít được dùng vì chuột dễ phát hiện và chịu đựng nhanh
với nó, đồng thời nó cũng có khả năng sinh ung thư bàng quang.
Do chất chống đông máu thường được dùng chống chuột nên thuốc này được
nhiều người nghiên cứu. Một số chất sau đây thường được sử dụng.
Tên phổ thông Tên thương mại - Liều LD
50
(mg/kg)
Alpha naphthylthiourea 6mg
Brodifacoun Klerat 0,05%, FonNarat 0,05%, 0,005%
Bromadiolon Kilbrat 0,0056, Musal 0,005%
Coumafuryl 25mg
Diphacinon Yasoudion 0,0056 3mg
Pindon 280mg
Strychnin
1
÷ 30mg
Warfarinsodium 180mg
Zinc phosphid 50mg
Các thuốc này thường gồm 2 loại hợp chất liên quan chặt chẽ với nhau:
Coumarin đại diện là Warfarin và Indedion đại diện là Diphacinon.
Warfarin được cấu thành như bụi bột (loạt hoạt chất cho lkg = l%), để dùng cho
vào hang và đường đi lại của chuột là bột (1g và 5g/kg hoặc 0,1 và 0,5%), để trộn làm
mồi với nồng độ 50 ÷ 250mg/kg (0,00005 ÷ 0,000125%).
Khi tiếp xúc với các thuốc diệt chuột có thể bị nhiễm độc ở h
ệ thống tạo huyết và
một số cơ quan khác (các chất này có khả năng chống đông máu).
Người ta thấy Warfarin được hấp thụ tốt qua đường tiêu hoá và một phần nhỏ
qua da, Diphacinon thì được hấp thu qua đường tiêu hoá. Mọi tác động chống đông
máu thông qua ức chế tổng hợp prothoprombin ở gan (yếu tố II, VII, IX và XI hình
như nó còn một thể bất hoạt của vitamin K. Ở người và chuột, đời sống của các y
ếu tố
này dài hơn đời sống của chất như Indondion tác động trên chuột nhanh hơn
Coumarine. Sức đề kháng với Warfarin ở người và chuột có thể có tính di truyền và có
243
thể được sinh ra do chuyển hoá nhanh. Chất chống đông cũng gây tổn thương mao
mạch qua một cơ chế nào đó chưa biết rõ, cho dù chất này được hồi phục nhanh nhờ
dùng vitamim K. Hoại tử da và viêm da được coi như là một biến chứng hiếm gặp
trong sử dụng Warfarin điều trị, nhưng không rõ kết quả. Khi nghiên cứu sự tiếp xúc
với TDC Indondion thấy có gây độc cho tim mạch và thần kinh trong một số lo
ại động
vật, tuy nhiên những tác dụng này ở người còn cần được nghiên cứu thêm.
Nghiên cứu về lâm sàng nhiễm độc thuốc diệt chuột cho thấy phần lớn các tai
nạn do nuốt phải không đưa tới độc hại rõ mặc dù không được điều trị, bởi vì liều
nhiễm thường là một lần và ít. Liều nhiễm nhắc lại có thể có chảy máu, trước tiên là
các màng niêm mạc như là lợi, m
ũi, da, khớp và đường tiêu hoá, đau bụng, lưng và
khớp. Sự chảy máu trong các tạng vùng này cũng có thể xảy ra. Tuy nhiên, các trường
hợp tự tử thì rất rõ tình trạng nhiễm độc, thậm chí tử vong nhanh.
Qua xét nghiệm chúng ta có thể thấy rõ được là thành phần prothrombin thay đổi
sau khi nuốt phải TDC. Sau khoảng 48 giờ đối với một chất chống đông máu và
thường cũng rõ tính độc sau một lần tiếp xúc duy nhất. Warfarin có thể được
định
lượng trong huyết tương và chất chuyển hoá của nó trong nước tiểu, nhưng việc này ít
được dùng vì ít nghĩ đến hoặc khi biết thì đã quá rõ.
Trong trường hợp tự tử hay bị đầu độc có thể dẫn tới sự chảy máu không thể giải
thích được và thời gian prothrombin bị ức chế thì chưa thể nghĩ đến hoàn cảnh hoàn
toàn do tác hại TDC mà còn có nhiều nguyên nhân khác, vì thế cần cân nhắc khi chẩn
đoán phân biệ
t và xác định.
Trong điều trị cần lưu ý việc giải phóng chất độc ra khỏi cơ thể, truyền dịch,
chống chảy máu và điều trị các triệu chứng kèm theo nâng cao thể trạng cho bệnh
nhân.
Gần đây một số loại thuốc diệt chuột của Trung Quốc xuất hiện nhiều ở nước ta.
Đặc biệt loại Trinuoroacetamide và Fluoroacetate. Thuốc này có hai dạng: dạng hạt
gạ
o màu hồng và dạng nước đóng ống màu hồng. Thuốc diệt chuột loại này được chiết
xuất từ cây Acacia gây co giật và tử vong chuột ngay sau khi ăn. Liều độc LD
50
là 2 ÷
13mg/kg. Như vậy, trẻ con có thể chết khi uống nhầm 1/2 đến 1gr. Cơ chế gây độc chủ
yếu là ức chế chu trình Kreb dẫn đến hiện tượng thiếu năng lượng, tử vong của tế bào
nên tế bào thần kinh bị bệnh trước nhất. Các tế bào tim cũng bị bệnh nhanh chóng. Tuy
nhiên, các tế bào của cơ quan khác nếu tiếp xúc sớm đều có thể bị bệnh ngay nên chất
độc vào c
ơ thể theo đường nào thì nơi đó thường bị hại trước. Nói như vậy để rõ về cơ
chế hơn là về bệnh lý vì người bị nhiễm độc, thuốc độc mau chóng phân tán khắp cơ
thể nên hầu hết các tế bào đều bị ảnh hưởng ngay. Trong chẩn đoán cần lưu ý để phân
biệt với ngộ độc Strychnin, một chất độc thần kinh xử trí tương t
ự các chất độc khác,
nếu mới nhiễm chưa co giật cần loại trừ bằng chống nôn, rửa dạ dày được thì tốt. Đồng
thời phải chăng co giật bằng các loại thuốc an thần. Nếu muộn có thể dùng ống thông
bơm than hoạt vào đường tiêu hoá để hấp thụ chất độc còn lại. Truyền dịch, thở oxy và
244
điều trị triệu chứng tích cực như chống suy các cơ quan chức năng sống. Một số thuốc
điều trị có hiệu quả như Acetamit 10% truyền, Etylic truyền, Glycerol monoacetat
0,1÷ 0,5mg/kg truyền 30 phút/1ần. Nhìn chung các loại ngộ độc thuốc diệt chuột ngoài
việc tìm mọi cách loại trừ chất độc ra khỏi cơ thể thì việc chống ngộ độc tế bào, ngộ
độc thần kinh là quan trọ
ng, cần có biện pháp an toàn trong bảo quản và sử dụng các
hoá chất diệt chuột, công tác tuyên truyền giáo dục cần phải tiến hành thường xuyên
và rộng rãi.
245
MỘT SỐ BỆNH DO VI SINH VẬT
1. ĐẠI CƯƠNG
Có nhiều tác nhân sinh học trong môi trường lao động gây nên các rối loạn bệnh
lý nghề nghiệp như: các loại sản phẩm sinh học tự nhiên (bột ngũ cốc, phấn hoa ), các
vi sinh vật và ký sinh trùng Ở nước ta một số bệnh nghề nghiệp do các vi sinh vật đã
được đưa vào danh mục các bệnh được bảo hiểm như: bệnh lao, bệnh viêm gan virus,
bệnh do soạn khuẩn Leptospira. Các bệnh thường gặp đượ
c chia ra làm 3 nhóm:
- Nhóm bệnh do siêu vi trùng: viêm gan, HIV/AIDS, cúm
- Nhóm bệnh do vi khuẩn: than, lao, Leptospira, brucella
- Nhóm bệnh do ký sinh trùng: các bệnh nấm, amip, giun sán
Bệnh thường gặp ở những nghề có tiếp xúc với bệnh nhân mắc bệnh như các thầy
thuốc hoặc công nhân, nông, lâm nghiệp, trong quá trình tiếp xúc thường xuyên với
các tác nhân gây bệnh mà bị lây từ các nguồn truyền nhiễm hoặc các yếu tố truyền
nhiễm.
Một vấn đề cần được lưu ý là những bệnh do tác nhân sinh họ
c này nhiều khi xảy
ra không phải do nguyên nhân nghề nghiệp. Trong sinh hoạt hoặc đời sống xã hội
thường ngày người ta có thể bị các bệnh nấm, bệnh lao thậm chí cả HIV/AIDS. Những
người với lí do nghề nghiệp phải tiếp xúc bắt buộc với yếu tố nguy cơ, tác nhân gây
bệnh, rất có thể không bị bệnh do nghề nghiệp nếu họ thực hiện tốt công tác vệ sinh,
an toàn lao động song họ lạ
i có thể bị bệnh do vô tình tiếp xúc không đề phòng với
bệnh đó trong sinh hoạt đời sống thường nhật ở xã hội hiện tại. Ví dụ: bệnh lao có thể
lây cho một thất thuốc khi giao lưu ăn uống ở gia đình một người bệnh là bạn bè bị
bệnh mà chưa được chẩn đoán phát hiện. Bệnh cúm có thể lây cho một thầy thuốc khi
ôm hôn một người bạn mà không biết h
ọ đã mắc bệnh cúm. Bệnh HIV/AIDS hoặc
viêm gan virus rất thường gặp ở mọi đối tượng có sự giao lưu nghi nghiệp và không
nghề nghiện.
II. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP
2.1. Bệnh lao phổi
Bệnh lao thường dễ lây qua đường hô hấp, nên cán bộ y tế có tỷ lệ mắc cao hơn
2÷3 lần so với cộng đồng. Ngày nay bệnh lao vẫn là một hiểm hoạ đối v
ới cộng đồng
vì tỷ lệ mắc bệnh rất cao. Vẫn chưa thấy sự thuyên giảm tỷ lệ mắc lao ở các nước đang
phát triển. Ở nước ta tỷ lệ này hàng năm là mắc mới 189/100.000 dân, AFB(+) mới là
85/100.000 dân, tử vong do lão là 26/100.000 dân. Tỷ lệ hiện mắc tổng cộng
289/100.000 dân và AFB(+) là 102/100.000. Trên thế giới hàng năm có 8 đến 10 triệu
246
người bị bệnh lao, trong số đó lao mới từ 0,52 ÷ 0,84 triệu và 1,7 đến 2,2 triệu người
chết một năm. Bệnh nhân có thể truyền trực khuẩn lao khi ho, hắt hơi hay nói chuyện
bắn ra dưới dạng khí dung lơ lửng trong không khí nhiều giờ rồi được truyền cho
nhóm người mẫn cảm hoặc lây qua đồ dùng của người bệnh không được khử trùng tẩy
uế. Nguy cơ phát bệnh ở
nhóm tuổi dưới 16, người thiếu ăn, hoặc mắc kèm các bệnh
khác như silicosis, đái đường, AIDS là rất cao. Người ta thường nói bệnh lao thường
đi cùng với nghèo đói và bệnh tật khác. Các cán bộ y tế khi tiếp xúc với bệnh nhân rất
dễ bị lây qua nhiều cơ chế trực tiếp và gián tiếp. Về lâm sàng bệnh lao tương đối phức
tạp. Các triệu chứng thường gặp là:
- Ho và khạc đờm kéo dài trên 3 tuần.
- Đôi khi kèm theo: gầy sút, kém ăn, mệt mỏi. kéo dài, sất về chiều, ra mồ hôi
ban đêm, đau tức ngực, khó thở, ho ra máu Các thể lao khác nhau cũng cho thấy các
diện mạo lâm sàng khác nhau. Các xét nghiệm cận lâm sàng cũng có nhiều điều đáng
quan tâm song chủ yếu dựa vào xét nghiệm đờm và chụp X quang phổi. Tuy nhiên, tuỳ
thể lao mà xem xét các xét nghiệm đặc trưng riêng. Những đối tượng nghề nghiệp có
nguy cơ cần phải thử tuberculin đị
nh kỳ gồm những người tiếp xúc với bệnh nhân nghi
ngờ hoặc đã biết nhiễm lao, nhân viên xét nghiệm lao, thầy thuốc thú y, y bác sĩ, y tá
chăm sóc bệnh nhân lao, người chăn nuôi gia súc.
Nhìn chung chẩn đoán và điều trị bệnh lao do thầy thuốc chuyên khoa xét
nghiệm và lâm sàng bệnh lao đảm nhiệm. Trong khám sức khoẻ định kỳ ngoài thử
nghiệm test bì cũng nên xét nghiệm đờm và chụp phim phổi cho những trường hợp
nghi ngờ. Nh
ững người trong gia đình và người tiếp xúc hàng ngày với bệnh nhân mới
được chẩn đoán, nếu nghi ngờ có thể điều trị dự phòng bằng thuốc kháng lao loại
Ioniazit (những người này là người có X quang phổi bất thường và có test phản ứng bì
tuberculin dương tính và tình trạng lâm sàng đặc biệt. Liều điều trị do bác sĩ chuyên
khoa lao chỉ định. Để dự phòng bệnh lao người ta coi việc giáo dục truyền thông và
bảo hộ
lao động là biện pháp khá cơ bản. Ngoài ra cũng nên tiêm phòng BCG
2.2. Bệnh lao bò
Bệnh lao bò thường gây bệnh cho một số súc vật: ngựa, dê, mèo, thỏ, chuột nhắt,
chuột đồng. Bệnh nặng nhẹ tuỳ theo liều nhiễm vào cơ thể và theo đường nhiễm. Ở gia
súc qua đường hô hấp gây phế quản phế viêm, bệnh phát chậm đôi khi có giai đoạn
cấp kèm theo thời kỳ tiềm tàng.
Ở bò, bệnh có các thể viêm vú, viêm thận, viêm tử
cung, viêm ruột, phổi. Trực
khuẩn lao có thể thấy ở sữa, nước tiểu, dịch tử cung, phân, đờm
Để dự phòng bệnh lao bò, các nhân viên tiếp xúc với súc vật phải biết phòng
bệnh dựa vào các đường lây. Súc vật phải được bác sĩ thú y khám định kì. Súc vật bị
bệnh phải giết hoặc chữa trị, sữa phải đun sôi khi sử dụng. Trong chăn nuôi cần chú ý
cải thiện điều ki
ện vệ sinh, không nhất bò đông quá, đủ sáng, thoáng khí giữ vệ sinh
247
môi trường sạch sẽ, thường kỳ tẩy uế chuồng trại lò sát sinh, tẩy uế xe chuyên chở súc
vật ốm và những nơi ô nhiễm bằng cacbonat natri 4% và sau đó bằng hợp chất cresyl.
Những người tiếp xúc cần được khám sức khoẻ định kỳ để chẩn đoán bệnh lao nghề
nghiệp khi phải làm việc trong môi trường có tiếp xúc với trực khuẩn lao người hay
bò. Việc chẩn đoán và
điều trị cũng như bệnh lao ở người, lao lây do lao súc vật sẽ
được thầy thuốc chuyên khoa lao đảm nhiệm. Dự phòng giống như lao người nói
chung.
2.3. Viêm gan virus
Viêm gan virus thường gặp với tỷ lệ cao trong nghề y tế do tiếp xúc với nguồn
lây như bệnh nhân và xét nghiệm bệnh phẩm. Virus có thể truyền theo nhiều đường
máu, tinh dịch, nước não tuỷ, nước bọt, nước tiểu và ăn uống. Lan truyền th
ường xảy
ra do tiếp xúc mà không có ý thức dự phòng hoặc không có chế độ an toàn lao động
tốt. Khi xét nghiệm máu có mang virut là sự dương tính với kháng nguyên bề mặt,
dương tính này có ở thời kỳ nhiễm bệnh tiền lâm sàng trong đa số bệnh nhân và kéo
dài rất lâu sau đó.
Hiện nay có 6 loại virus gây tổn thương gan là các virus gây viêm gan A, B, C,
D, E, G. Trừ viêm gan A và E lây theo đường tiêu hoá còn các thể khác lây theo đường
máu đặc biệt là viêm gan B và C thường để lại hậu quả là xơ gan và ung thư gan
nguyên phát.
Về
lâm sàng: sau 4 ÷ 6 tuần ủ bệnh, bệnh phát với rất nhiều hội chứng. Nổi bật là
hội chứng huỷ hoại tế bào gan, gây vàng da, ứ mật, có kết hợp với đau vùng gan và
sốt có hai thể viêm gan mạn tính tấn công và viêm gan mạn tồn tại. Cận lâm sàng
đáng chú ý nhất là hiện tượng tăng men gan SGOT và SGPT.
Nhóm người có nguy cơ nhiễm viêm gan virus đặc biệt cao gồm nhân viên y tế
thường xuyên tiếp xúc với máu (tiêm bộc l
ộ tĩnh mạch, xét nghiệm viên, bác sĩ cấp
cứu và ngoại khoa, kỹ thuật viên và nhân viên ngân hàng máu, y tá đơn vị thận và ung
thư, bác sĩ nội khoa, nhân viên thường xuyên thử, tiêm qua da với máu nhiễm virus.
Virus có thể còn sống trong máu khô hoặc các sản phẩm máu trong nhiều ngày, làm
cho các dụng cụ chăm sóc y tế nhiễm virus nặng (nếu như chọc dò tiêm qua da).
Việc chẩn đoán do bác sĩ chuyên khoa lây đảm nhiệm theo các quy trình và tiêu
chuẩn, chuẩn đoán của chuyên ngành quy định. Về m
ặt xử trí có thể điều trị tương tự
như bất kể thể nào khác của viêm gan. Rượu và những chất độc cho gan khác cần được
tránh trong thời kỳ mới khỏi bệnh.
Việc kiểm soát quá trình nhiễm trùng cần phải được thực hiện nghiêm ngặt cho
các đối tượng có nguy cơ, dùng găng tay bất cứ khi nào tiếp xúc với dịch sinh học như
tinh dịch, nước bọt, hoặc máu trong ngo
ại khoa và mổ răng, hàm, mặt. Quá trình kiểm
soát vệ sinh an toàn cần được tiến hành thường xuyên để nâng cao ý thức trách nhiệm
của mọi đối tượng.
248
Các đối tượng có nguy cơ cao nhiễm trùng với viêm gan virus cần được tiêm
vacxin
Giám sát tiếp xúc cũng là biện pháp vệ sinh trong thực hành và có thể nhận ra
sớm các trường hợp nhiễm trùng không có triệu chứng.Thử nghiệm tìm kháng nguyên
bề mặt, kháng thể thân và kết hợp kháng nguyên kháng thể có thể áp dụng cho tất cả
các trường hợp có nguy cơ. Sau cùng công tác giáo dục truyền thông cho các đối
tượng có nguy cơ mắc bệnh viêm gan virus nghề nghiệp về an toàn và vệ sinh lao động
luôn luôn được coi trọng, cần được làm thường xuyên.
2.4. Bệnh than (nhiệt thán)
Thường gặp ở những người tiếp xúc với các gia súc ở vùng có dịch gây nên do
trực khuẩn than có nha bào và gặp trong ngành công nghiệp chế biến lông cừu, sừng
gia súc, len có tiếp xúc với nha bào. Hoặc do trực khuẩn qua da vào cơ thể, nuốt hoặc
hít phải bụi có bào tử nhiệt thán. Thậm chí có thể bị lây trực tiếp khi chăm sóc gia xúc
bị bệnh ở các trại ch
ăn nuôi gia xúc.
Trong các thể bệnh, bệnh nhiệt thán da thấy nhiều nhất. Khi làm việc công nhân
lấy tay gãi vào cổ, mặt hoặc lau mồ hôi, nên bệnh hay phát sinh ở cổ, mặt. Thời gian ủ
bệnh từ 2 giờ đến 2 tuần trung bình 1 ÷ 3 ngày. Khi phát bệnh các bác sĩ thú y, bác sĩ
lây cần xem xét để chẩn đoán và điều trị theo quy trình và liệu trình chuyên ngành.
Triệu chứng của bệnh than là hiện tượng sốt cấp tính và tổn thương lở loét các t
ế
bào ở những vùng bệnh. Tuỳ theo thể bệnh mà hội chứng lâm sàng ở vùng đó nặng
hơn. Ví dụ: than thể tiêu hoá bệnh cảnh giống như bệnh tả. Than thể hô hấp giống như
viêm phổi cấp tính, than thể da viêm mạc giống như viêm da cấp tính hoặc dị ứng
nặng
Phương pháp đề phòng: trước hết phải chống bệnh than ở động vật, phải theo dõi
về
mặt thú y đối với lò sát sinh và việc vận chuyển nguyên liệu có nghi bị bệnh. Tất cả
các loại da chưa gia công, chưa được cục thú y kiểm tra đều không được vận chuyển:
bằng đường sắt hoặc đường thuỷ. Ở lò sát sinh chỉ được giết những súc vật lành khoẻ
mạnh.
Bào tử có sức đề kháng rất mạnh, cho nên phải khử trùng thật kỹ càng nguyên
liệu khả nghi.
Khi da bị sây sát (
đứt, gai xước) thì phải chữa ngay. Nếu có người mắc bệnh than
thì phải nghiên cứu nguyên nhân mắc bệnh, cách xử trí các vật liệu khả nghi và cách
phòng chống bệnh lây lan.
Công tác an toàn vệ sinh lao động cũng cần được lưu ý thường xuyên đối với các
đối tượng có nguy cơ.
2.5. Bệnh sốt do Leptospira
Đây là bệnh do nhiều chủng xoắn khuẩn Leptospira từ súc vật truyền sang người.
249
Người mắc bệnh do tiếp xúc với vật hoang dại hay gia súc bị bệnh. Tiếp xúc nghề
nghiệp trong quá trình chăn nuôi hoặc phải tiếp xúc với nước ô nhiễm cũng rất dễ mắc
bệnh
Hiện nay, người ta mới phát hiện được trên 14 chủng xoắn khuẩn Leptospira gây
bệnh và khoảng 100 tuýp huyết thanh chính và phụ. Về hình thái, các chủng giống
nhau và là những xoăn khuẩn nhỏ như sợi chỉ, đường kính 0,1n, dài 4 ÷
60n, hình
xoắn, chuyển động nhanh theo trục dọc.
Bệnh do Leptospira gặp trên toàn thế giới, súc vật hoang dại hoặc gia súc là ổ
bệnh. Nhiều nghề phải tiếp xúc với mầm bệnh và có nguy cơ nhiễm bệnh đặc biệt là
nghề rừng. Trên thực tế bị lây bệnh xoắn khuẩn là do tiếp xúc với đất hoặc nước ô
nhiễm nước tiểu súc vật bị bệnh, trong khi lao động phải ngâm mình dướ
i nước hay
bơi lội dưới nước hoặc bùn lầy. Cũng có thể lây trực tiếp khi tiếp xúc với súc vật, mầm
bệnh vào cơ thể qua da sây xát hoặc qua niêm mạc. Bệnh còn có thể lây qua thực
phẩm, nước uống ô nhiễm.
Điều kiện tồn tại và phát triển mầm bệnh là nóng và ẩm ướt. Ở những vùng nhiệt
đới, nóng và ẩm quanh năm, bệnh đã phát triển ở những ngườ
i phải lao động bên
những súc vật bị bệnh hay tiếp xúc với đất, nước ô nhiễm, ở những ao tù, hồ nước
đọng, sông suối nước chảy chậm.
Theo N.A. Iston và J.C. Broom, năm 1958, những nghề nghiệp có nguy cơ nhiễm
bệnh là các nghề mà công việc lao động nông lâm, ngư nghiệp nói chung: trồng lúa,
trồng rau, chăn nuôi gia súc, lò sát sinh, trồng mía, thú y, chế biến thực phẩm (mổ thịt,
pha thịt, chế biến cá, chế biến pho mát), đ
ánh cá, xây dựng (các công trường xây dựng
cầu cống, nhà cửa), đường dây tải điện, đường dây thông tin liên lạc, đào mương kênh,
làm thuỷ lợi, nhân viên phòng thí nghiệm (tai nạn tiêm truyền) quân đội, đánh bẫy thú
vật, kinh doanh rừng, trồng rừng
Leptospira thâm nhập vào cơ thể qua vết tổn thương da hoặc niêm mạc mồm và
tập trung ở các cơ quan và tổ chức, chủ yếu là gan, thận, lách, hạch bạch huyết và tuỷ
xương, vào ngày thứ 7 thứ 8 của bệnh Leptospira bắt đầu đào thải ra nước tiểu. Bệnh ở
thận thường rất rõ do viêm cấp chảy máu. Bệnh ở gan cũng rõ do tổn thương nặng gây
vàng da và huỷ hoại liên tục nội màng mao mạch, đưa tới chảy máu nhiều nơi ở da và
niêm mạc gọi là thể Leptospira vàng da chảy máu để phân biệt với các thể Leptospira
khác.
Thời gian ủ bệnh do Leptospira là 4 ÷ 19 ngày, th
ường từ 7 ÷ 10 ngày. Biểu hiện
lâm sàng rất thay đổi nhiều khi có diễn biến dữ dội, nghiêm trọng khi nhiều phủ tạng
bị tổn thương. Có thể biểu hiện rất nhẹ, ở thể này đôi khi sốt cao liên tục, kéo dài vài
ngày tới 1 tuần hoặc hơn nữa. Các triệu chứng sớm xuất hiện là ăn không ngon, đau
cơ, nhức đầu dữ dội, liên tục và đau vùng sau nhãn cầ
u. Mồ hôi vã ra nhiều, buồn nôn
và nôn, có thể ỉa chảy hoặc táo, màng tiếp hợp mắt màu đỏ. Triệu chứng trên hầu như
250
bao giờ cũng thấy trong 48 giờ đầu Trong thời kỳ sốt, gai mắt phù nề, viêm thần kinh
mắt và đôi khi liệt nhẹ thần kinh vận động nhãn cầu.
Bệnh do Leptospira nặng thường do L.icterohaemorrhagiae, thể này hay có biểu
hiện xuất huyết, viêm phổi, viêm cơ tim, truất mạch ngoại biên. Gan to, vàng da, chức
năng gan bị ảnh hưởng, các triệu chứng về hệ thần kinh trung ương thường nặng hơn,
bạch cầ
u tăng, chủ yếu bạch cầu đa nhân. Thận bị suy, protein niệu tăng, đái ít hoặc vô
niệu và thường dễ đi đến tử vong.
Việc chẩn đoán và điều trị do bác sĩ lây xử lý song cũng phải phân biệt với bệnh
sốt hồi quy, bệnh Lepto không vàng da và bệnh viêm gan virus, cần dựa vào yếu tố
tiếp xúc, tính chất nghề nghiệp (để xác định nguyên nhân nghề nghiệp). Công tác
phòng bệ
nh Leptospira cần lưu ý đến yếu tố dịch tễ học. Trong quá trình gây bệnh, có
3 yếu tố quan trọng là người tiếp xúc, môi trường ô nhiễm và quan trọng nhất là ổ
bệnh ở súc vật cần chú ý diệt mầm bệnh ở mọi nơi kết hợp với giám sát môi trường và
trang bị bảo hộ lao động đầy đủ. Giáo dục an toàn vệ sinh lao động cho các đối tượng
có nguy cơ cũng rất quan trọng.
2.6. Bệnh Brucellose
Bệnh gặp trên các công nhân tiếp xúc với dê, cừu bị bệnh, người vắt sữa, xét
nghiệm viên, nhân viên thú y, chế biến sữa. Vi khuẩn có trong máu, các dịch tiết của
súc vật bị bệnh, xâm nhập vào cơ thể qua các vết xước trên da hoặc hít phải bụi có trực
khuẩn. Nếu uống phải sữa có trực khuẩn có thể bị bệnh. Dùng phản ứng Wright (phản
ứng ngưng kết brucella) có thể phát hi
ện bệnh ở thời kỳ bệnh chưa rõ về lâm sàng.
Bệnh cấp tính xảy ra sau 7 ÷ 21 ngày ủ bệnh với bệnh cảnh như sốt nhẹ, yếu mệt
lả, mệt mỏi, sụt cân, ra nhiều mồ hôi và trong 10 ÷ 20% bệnh nhân có lách to. Bệnh
nhiễm trùng khu trú có thể xảy ra như viêm tuỷ xương (đặc biệt ở đốt sống lưng cùng),
viêm khớp, áp xe lách, viêm mào tinh hoàn, viêm nội mạc tim. Bệnh có thể tr
ở thành
mạn tính với tình trạng ốm yếu, suy nhược kéo dài.
Để phòng bệnh brucellose việc quan trọng và cơ bản là phòng và chống bệnh cho
súc vật, phải cách ly súc vật ốm, bị truy thai (trâu, bò, lợn, dê, cừu) ở những nơi
chuồng trại riêng biệt, đồng thời diệt trùng hoặc đốt những đồ dùng đã tiếp xúc với súc
vật bị bệnh. Cần thiết phải vệ sinh thường xuyên chuồng trại như
: quét dọn phân, nước
tiểu, thay rơm thường kỳ, tẩy uế các chuồng gia súc bằng clorua vôi.
Kịp thời điều trị súc vật bị mắc bệnh bằng tetracyclin hoặc streptomycine
Có thể tiêm vacxin được điều chế với vi khuẩn chết (xác vi khuẩn) cho gia súc có
sừng để gây miễn dịch.
Những người chăn nuôi gia súc phải gìn giữ da, đề phòng xây sát da, nếu bị xây
sát thì phải nghỉ và bôi cồn iod. Trước khi vắt s
ữa hoặc đỡ đẻ cho gia súc phải bôi
thuốc mỡ vazơlin vào tay hay đi găng. Nếu gia súc mắc bệnh hoặc khả nghi phải khử
251
độc bằng phenol.
Phải cấp phát quần áo bảo hộ lao động cho người chăn nuôi, nhân viên thú y và
người vắt sữa. Đồng thời cần giáo dục an toàn vệ sinh cho các đối tượng có nguy cơ.
2.7. Các bệnh ký sinh trùng nghề nghiệp
Các bệnh do ký sinh trùng nghề nghiệp thường gặp là các loại nấm, đơn bào,
giun sán và côn trùng tiết túc. Loại đơn bào như sốt rét, lỵ amip, bệnh Leishmania,
bệnh trypanosonia và nhiều bệnh nấm, ký sinh trùng khác ở đường tiêu hoá và máu.
Các bệnh giun sán như: sán máng (Schistosoma), giun móc và các lo
ại giun khác.
Các bệnh gây ra do côn trùng tiết túc là: Bệnh ngứa do mò có thể gây viêm da,
chúng đồng thời là véc tơ truyền bệnh hoặc vật chủ của các ký sinh trùng khác.
Một số nhóm nghề nghiệp hay phải tiếp xúc với các bệnh ký sinh trùng, đặc biệt
họ phải tiếp xúc với các vectơ mang bệnh, trực tiếp tiếp xúc với nguồn lây và gián tiếp
phải tiếp xúc với nguồn lây qua các nơi làm việc chật trội nóng, ẩm, thiếu vệ sinh.
2.7.1. Các bệnh do nấm
Thường gặp ở các nghề mà môi trường lao động có điều kiện thuận lợi cho nấm
tồn tại. Bản thân con người lao động cũng tự nhiên tạo điều kiện cho nấm phát triển.
Ví dụ: Môi trường nóng, ẩm, công nhân đi giày dễ bị các bệnh nấm da, nấm kẽ. Người
thợ cắt tóc, giặt là dễ bị bệnh nấm tóc, nấm kẽ móng tay. Nhìn chung các bệnh do n
ấm
mang tính chất nghề nghiệp có rất nhiều. Các thầy thuốc cần kết hợp với bác sĩ chuyên
khoa da liễu để chẩn đoán và xử lý kịp thời Công tác dự phòng cần được tiến hành
thường xuyên và đồng bộ ở các nơi có tiếp xúc nghề nghiệp.
2.7.2. Bệnh lỵ amip
Nguyên nhân nghề nghiệp đối với bệnh này không nhiều, rất khó bị lây so với
các vi khuẩn họ Salmonella và Shigella có nghĩa là thao tác phải quá v
ụng về mới bị
lây. Việc phòng bệnh chỉ cần lưu ý đến các biện pháp an toàn là đủ.
2.7.3. Bệnh giun móc
Có hai loại giun móc ankylostomaduodenale và necatoramericamis. Chúng dài
khoảng lem sống và hút máu ở đoạn hành tá tràng, nếu nhiều xuống đến hàng tràng,
giun móc hút máu, mỗi con ankylostomaduodenale hút 0,2ml máu mỗi ngày, mỗi con
necator hút 0,03ml. Loại thứ nhất sống được 5 năm, loại thứ hai sống được 15 năm.
Giun móc đẻ trứng ra môi trường bên ngoài, khi gặp dấu hiệu thuận lợi (ẩ
m nóng 20 ÷
25
0
C pH trung tính) trứng thành phôi trong 24 giờ và nở trong 48 giờ. Sau 1 tuần ấu
trùng có thể truyền bệnh và có thể sống được 6 tháng.
Nền đất ẩm, xốp của các mỏ than và mỏ phôtphat, đất trồng rau là điều kiện
thuận lợi nhưng đối với mỏ sắt và muối thì không. Bệnh nhiễm qua đường da, do đi
chân đất, hoặc do người thợ dựa lưng vào vách mỏ ẩm thấp.
252
Ấu trùng giun móc xâm nhập qua da gây nên một nốt sần đỏ, hoặc ngứa trong
chốc lát, sau đó theo đường tuần hoàn trở về phổi ngày thứ 3 và từ mao mạch chui vào
phế nang không có dấu hiệu lâm sàng hay X quang nào tương ứng với giai đoạn này.
Từ ngày thứ tư đường hô hấp bị kích thích, thể hiện bằng chứng sổ mũi, ho từng cơn
khạc đờm, miệng có vị tanh kim loại, giọng khàn và đau bụng. Sau đ
ó xuống đường
tiêu hoá gây bệnh cấp hoặc mạn tính ở đây. Các dấu hiệu bệnh lý cấp tính thường
giống như hội chứng đau dạ dày, đôi khi kèm theo cảm giác buồn nôn, thường là ỉa
chảy. Khi bị tái nhiễm bệnh nhân ở vào trạng thái dị ứng, nên chứng sổ mũi ở công
nhân mỏ càng nặng hơn, lúc đầu nổi mề đay, sau nổi thành nốt sần ngứa rồi thành m
ụn
nước, mụn mủ, khi bong ra để lại một vết sẫm, nước mũi chảy nhiều nhưng không xảy
ra viêm tá tràng trở lại.
Nhiễm giun móc cấp tính không phải thể nào cũng đi đến thiếu máu. Thiếu máu
chỉ xảy ra khi nhiễm thật nhiều giun hoặc do hậu quả tích luỹ sau nhiều lần tái nhiễm
liên tiếp. Thiếu máu cấp đồng thời xảy ra với viêm tá tràng thể hiện tình trạng nhi
ễm
giun rất nặng, mất máu cộng thêm ỉa lỏng làm kiệt sức, có thể dẫn đến tử vong.
Đối với thiếu máu mạn tính ta có thể phân loại theo mức độ nặng nhẹ, thiếu máu
nhẹ chưa giảm sắt, có thể chữa khỏi hoàn toàn bằng chất sắt nhưng lại tái phát nếu
không được thực hiện song song với tẩy giun. Thiếu máu nặng, người xanh lướt, môi
tái, khó thở khi gắng sứ
c, phù do giảm protein huyết. Đây là chứng thiếu máu giảm
sắc, hồng cầu nhỏ, giảm sản, với tỷ lệ hồng cầu mạng lưới rất thấp. Tỷ lệ sắt trong
huyết thanh giảm nhiều. Điều trị tẩy giun kèm theo dùng thuốc có muối sắt II đạt được
kết quả tốt, có thể khỏi hoàn toàn.
Việc chẩn đoán và điều trị đơn gi
ản, dễ thực hiện vì phương tiện sẵn có, các loại
thuốc cũng sẵn có ở hầu hết các địa phương.
Dự phòng cá nhân để bảo vệ người lành thực hiện bằng cách sử dụng giầy da hay
ủng cao su. Dự phòng tập thể nhằm tiêu diệt giun móc ở ruột cho người lành mang
giun, người bệnh hay ở môi trường bên ngoài. Trên thực tế cần phải lưu ý phát hiện
bệnh khi khám tuyển và khám sứ
c khoẻ định kỳ. Song song cũng cần giáo dục ý thức
an toàn, bảo hộ lao động thường xuyên cho người lao động có tiếp xúc với nguy cơ.
2.7.4. Nhiễm HIV/AIDS
Từ ngày khởi đầu đại dịch HIV/AIDS 6/1981 đến nay khoảng hơn 20 năm đã có
nhiều triệu người nhiễm HIV sẽ dẫn đến AIDS và có thể dẫn đến cái chết.
Đại dịch lan rộng trên khắp các châu lục: châu Mỹ, châu Phi, châu Á, châu Úc,
châu Âu. Khoảng gần 200 nước có bệ
nh nhân HIV trên thế giới. Đến cuối năm 2002
trên thế giới có 42 triệu người HIV(+), 5 triệu ca nhiễm mới, có 3,1 triệu người chết.
Dự tính đến năm 2005 con số HIV(+) có thể là 6 triệu người và sẽ có 1 triệu trẻ mồ côi
do HIV/AIDS. Ở Việt Nam hiện nay có khoảng trên 52924 ca HIV(+). Đã có 7.750 bị
AIDS, tử vong 4.211 người (12/2002). Những người nhiễm HIV thường gặp chủ yếu
253
trong độ tuổi lao động. Ở Mỹ, Tây âu, tử vong do AIDS cũng chủ yếu ở tuổi lao động:
20 ÷ 40 tuổi, là tuổi lao động có hiệu xuất cao nhất. So với các lây nhiễm bằng các
đường khác, lây nhiễm do nghề nghiệp, tỷ lệ có thấp hơn. Ví dụ: trong ngành Y tế,
năm 1989, toàn thế giới có 25 người nhiễm HIV nghề nghiệp (19 do kim tiêm nhiễm
HIV và 6 do dây bắn dịch sinh học lên vùng da, niêm mạc bị tổn thương). Ở Pháp
(1992), có 72 ng
ười được coi là nhiễm HIV nghề nghiệp. Ở Hoa Kỳ (6/1992) có 29
trường hợp, James Chín (1991) cho thấy hiệu lực của mỗi lần tiếp xúc đơn nhiễm HIV
của công việc chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS là 0,5%.
Các nhân viên y tế khi chăm sóc và điều trị bệnh nhân đều có thể bị nhiễm HIV.
Ở Pháp, trong 72 người được coi là nhiễm HIV nghề nghiệp từ đầu vụ dịch đến 1992,
có 16 y tá, 3 bác sĩ, 2 hộ lý, 2 sinh viên y khoa, 1 phẫu thuật viên y khoa, 1 xét nghiệm
viên, 1 ph
ụ tá nha khoa, 1 người bảo quản. Qua điều tra ở 12 bệnh viện ở Pháp (1988 :
1989), thấy tỷ xuất nhiễm AIDS như sau:
- Tiếp xúc với máu khi tiêm: 60%
- Tiếp xúc qua vết thương do sây xước: 16%
- Nhiễm do dây dính dịch sinh học: 14%
Nhiễm do hút dịch bệnh nhân bằng ống thông, nhiễm do đỡ đẻ bằng 1/2 trường
hợp bị dây bắn.
Chỉ số mới nhiễm do tai nạn của y tá là 10 lần cao hơn bác sĩ. Nói chung lây
nhiễ
m do HIV nghề nghiệp ít hơn viêm gan B 100 lần.
Nguy cơ tiềm tàng của lây nhiễm HIV gặp ở nhiều khâu, nhiều thao tác khác
nhau. Ví dụ như trong một phòng xét nghiệm: từ khâu lấy máu, vận chuyển, thao tác
với máu, lau chùi và bảo quản dụng cụ, tiếp xúc với vật phẩm thải bỏ Phương thức
lây truyền cũng rất rộng rãi: do bao tay bị thủng, da bị kim tiêm đâm, bị ống nghiệm
vỡ đâm, đổ vỡ
gây ô nhiễm.
Nhìn chung bệnh lý lâm sàng của HIV/AIDS rất đa dạng do sự suy giảm miễn
dịch chung gây nên, song nói chung là sự giảm sức đề kháng và nhiễm trùng. Hội
chứng lâm sàng chính là:
- Sốt không rõ nguyên nhân, sốt kèm đau đầu.
- Triệu chứng thần kinh khu trú.
- Sốt và ho, nuốt đau.
- Loét vùng sinh dục.
- Các tổn thương mới ở trên da.
- Tiêu chảy kéo dài.
- Bệnh lý ở hạch lympho và các dạng khác.
254
- Suy mòn.
Các xét nghiệm chủ yếu là xét nghiệm men như: Elisa, EIA và xét nghiệm
Western - Blot. Những xét nghiệm này có độ nhậy và độ đặc hiệu khác nhau nên khi
chẩn đoán dương tính cần phải hết sức thận trọng.
Phòng chống tai nạn, lây nhiễm HIV/AIDS cần phải chú ý một số điều sau đây:
1) Mang bao tay khi tiếp xúc với mọi vật phẩm lây nhiễm hay bất cứ chỗ nào có
nguy cơ dính máu hay dịch thể. Phải cung cấp đủ bao tay
đảm bảo chất lượng cho
những người tiếp xúc với HIV.
2) Vứt bỏ bao tay mỗi lần nhiễm khuẩn, rửa tay và mang bao tay mới.
3) Không được sờ, dụi mắt, mũi và da bằng tay có mang bao tay.
4) Không được rời chỗ và đi quanh phòng xét nghiệm khi mang bao tay.
5) Rửa tay bằng xà phòng và ngay lập tức sau bất cứ một ô nhiễm nào và sau khi
làm việc xong.
6) Mang áo choàng hay áo công tác khi làm việc. Tốt nhất là loại áo choàng cuốn
chặt vào người. Cởi bỏ khi làm việc xong.
7) Cửa phòng xét nghiệm phải được đóng chặt, việc vào phòng phải được hạn
chế. Cửa phòng treo biển “Nguy hiểm đến tính mạng! Không được vào!”
8) Phòng xét nghiệm phải được giữ sạch sẽ, gọn gàng, không để những đồ vật,
trang thiết bị không cần thiết liên quan đến xét nghiệm. Tẩy uế sàn nhà khi làm song
công việc và cuối ngày làm việc. Dùng dung dịch Natrihypoclorid 0,1% (1g.H: 1.000
ppm).
9) Tránh những nguy hiểm có thể do kim tiêm, bơm tiêm hoặc các vật s
ắc nhọn
khác sau khi đã dùng.
10) Không được dùng các pipet hút bằng miệng. Mọi thao tác kỹ thuật phải được
tiến hành hạn chế thấp nhất việc tạo ra khí dung, các giọt nước và gây ra đổ vỡ. Không
ăn uống, hút thuốc, để thức ăn hay tư trang trong phòng thí nghiệm.
Song song các việc trên cần xử lý tốt các vật phẩm bị nhiễm bẩn, tránh tai nạn đổ
vỡ và luôn có ý thức tự bảo vệ cho mình và cộng đồng kh
ỏi bị nhiễm HIV.
255
GIÁM ĐỊNH BỆNH NGHỀ NGHIỆP
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các bệnh nghề ngiệp không hề có xu hướng giảm ở nước ta và trên thế giới.
Ngay ở các nước tiên tiến như Mỹ vẫn có hàng trăm nghìn người chết hàng năm do
mắc các bệnh liên quan đến nghề nghiệp và khoảng 400.000 người mới mắc bệnh nghề
nghiệp.
Ở nước ta do công tác khám chữa bệnh nghề nghiệp chưa được quan tâm nên đã
bỏ sót rất nhiều b
ệnh nhân mắc bệnh nghề nghiệp cho đến chết mà không biết là mình
bị bệnh nghề nghiệp. Tuy nhiên, cho đến nay ở nước ta đã có khoảng 10.000 bệnh
nhân được giám định bệnh nghề nghiệp. Ở Thái Nguyên mỗi năm cũng phát hiện và
đưa ra giám định bệnh nghề nghiệp được hàng trăm bệnh nhân.
Việc giám định các bệnh nghề nghiệp đặc biệt là các bệnh nhiễm độc được khởi
sự
từ thế kỷ thứ XVII ở một số nước Tây Âu. Thời kỳ này công tác giám định mang
tính chất pháp y là chính. Phải sang đầu thế kỷ thứ 20 công tác giám định bệnh nghề
nghiệp mới trở thành thường quy ở nhiều nước. Năm 1925 lần đầu tiên trên thế giới tổ
chức lao động Quốc tế (ILO) xây dựng danh mục 3 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm
(BNNBH). Năm 1934 số bệnh
được bảo hiểm là 10 bệnh, năm 1964 danh mục các
BNNBH được nâng lên 15 bệnh. Danh mục 29 nhóm BNNBH Quốc tế ngày nay do
ILO xây dựng năm 1980.
Ở nước ta do phát triển kinh tế xã hội còn hạn chế nên phải tới năm 1976
(19/5/1976) mới đưa được 8 bệnh nghề nghiệp vào danh sách các BNNBH. Ngày
25/12/1991 SỐBNNBH tăng lên con số21 bệnh.
Việc giám định BNN đánh giá khả năng lao động không những mang tính chất
pháp lý, thực hiện pháp lệnh bảo hộ lao động nướ
c nhà, sự công bằng xã hội mà còn
mang tính nhân văn ưu việt của một xã hội. Hiện nay không còn chiến tranh ác liệt thì
người lao động mắc BNN chính là thương binh thời bình của đất nước. Chỉ tiếc rằng vì
nhiều lý do nên y học lao động trong đó có bệnh nghề nghiệp và giám định bệnh nghề
nghiệp chưa phát triển đúng với sự cần thiết của nó. Công tác khám chữa BNN không
được quan tâm đúng mức nên phát triển chậm, b
ởi vậy chưa đáp ứng được nhiệm vụ
quan trọng này của giám định bệnh nghề nghiệp. Ở rất nhiều địa phương không có
thầy thuốc khám chữa BNN, các khoa BNN ở nước ta chưa đếm hết trên đầu ngón tay
của một bàn tay thì ai sẽ phát hiện bệnh và đánh giá bước đầu bệnh lý nghề nghiệp
phục vụ cho công tác giám định trong khi số người có nguy cơ mắc BNN là vô cùng
lớn, lớn h
ơn rất nhiều so với nhiều bệnh xã hội đang được đầu tư. Hầu hết các tỉnh
miền núi phía Bắc trong nhiều năm nay chưa giám định được trường hợp BNN nào
hoặc có là do các cơ quan Trung ương phát hiện và lập hồ sơ giúp.
256
II. CÁC VĂN BẢN PHÁP QUY LÀM CƠ SỞ CHO GIÁM ĐỊNH BNN
Đây là những văn bản mang tính chất quốc gia và có ý nghĩa pháp lý làm cơ sở
cho việc thực hiện công tác giám định BNN hiện nay.
Nghị định của Chính phủ số 06/CP ngày 20 tháng 01 năm 1995 quy định chi tiết
một số điều của Bộ luật lao động về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Sẽ được trích
ngay sau đây:
Chương II. An toàn lao động, vệ sinh lao động
Điề
u 7. Việc định kỳ khám sức khoẻ, huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao
động theo điều 102 của Bộ luật Lao động được quy định như sau:
1. Phải khám sức khoẻ cho người lao động kể cả người học nghề, tập nghề, ít
nhất 1 lần trong một năm, đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại thì ít nhất 6
tháng một lần.
Vi
ệc khám sức khoẻ phải do các đơn vị y tế Nhà nước thực hiện.
2. Trước khi nhận việc, người lao động, kể cả người học nghề, tập nghề phải
được hướng dẫn, huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Sau đó căn cứ vào công việc của từng người đảm nhiệm mà huấn luyện, hướng
dẫn các biện pháp bảo đảm an toàn phù hợp và ph
ải được kiểm tra thực hành chặt chẽ.
Nghiêm cấm việc sử dụng người lao động chưa được huấn luyện và chưa được
cấp thẻ an toàn làm công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao
động.
Việc tổ chức huấn luyện, mở lớp huấn luyện theo hướng dẫn của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội.
Chương III. Tai nạn lao động và bệnh nghề nghi
ệp
Điều 10. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị BNN theo
điều 106 của Bộ luật Lao động được quy định như sau:
1. Người bị BNN được điều trị theo chuyên khoa.
2. Sau khi điều trị, tuỳ theo danh mục các loại BNN, ít nhất cũng được khám sức
khoẻ 6 tháng một lần và được lập hồ sơ sức khoẻ riêng biệt.
Nội dung hồ sơ và chế độ quản lý, lưu trữ hồ sơ do Bộ y tế quy định.
Điều 11: Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường cho người lao động
bị tai nạn lao động hoặc BNN theo khoản 3 điều 107 của Bộ luật Lao động.
Trong trường hợp doanh nghiệp tuyển người vào học nghề, tập nghề để làm việc
tại doanh nghiệ
p theo khoản 2 điều 23 của Bộ luật lao động, nếu trong quá trình tập
nghề, học nghề xảy ra tai nạn lao động thì người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi
thường ít nhất bằng 30 tháng lương tối thiểu cho người bị suy giảm khả năng lao động,
257
từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người bị chết do tai nạn lao động mà không có lỗi
của người lao động. Trường hợp do lỗi của người học nghề, tập nghề thì cũng được
người sử dụng lao động trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 12 tháng lương tối thiểu.
Bộ luật lao động ngày 23/6/1994 (Trích)
Điều 102 - Chương IX
Khi tuyển dụng và sắp x
ếp lao động, người sử dụng lao động phải căn cứ vào tiêu
chuẩn sức khoẻ quy định cho từng loại việc, tổ chức, huấn luyện, hướng dẫn, thông
báo cho người lao động về những quy định, biện pháp làm việc an toàn, vệ sinh và
những khả năng tai nạn cần đề phòng trong công việc của từng người lao động.
Người lao động phải được khám sức khoẻ khi tuyển dụ
ng và khám sức khoẻ định
kỳ theo chế độ quy định. Chi phí khám sức khoẻ cho người lao động do người sử dụng
lao động chịu.
Điều 106 - Chương IX
Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp
tác động đối với người lao động. Danh mục các loại BNN do Bộ y tế và Bộ lao động -
Thương binh và Xã hội ban hành sau khi lấy ý kiến T
ổng liên đoàn lao động Việt Nam
và đại diện của người sử dụng lao động.
Người bị bệnh nghề nghiệp phải được điều trị chu đáo, khám sức khoẻ định kỳ,
có hồ sơ sức khoẻ riêng biệt.
Điều 107 - Chương IX
1. Người tàn tật do bị tai nạn lao động, BNN được giám định y khoa để xếp hạng
thương tật, xác định mứ
c độ suy giảm khả năng lao động và được phục hồi chức năng
lao độngl nếu còn tiếp tục làm việc thì được xếp công việc phù hợp với sức khoẻ theo
kết luận của Hội đồng giám định y khoa.
2. Người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ về chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp
cứu đến khi điều trị xong cho người b
ị tai nạn lao động hoặc BNN, người lao động
được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động BNN. Nếu doanh nghiệp chưa
tham gia loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc thì người sử dụng lao động phải trả cho
người lao động một khoản tiền ngang với mức quy định trong điều lệ bảo hiểm xã hội.
3. Người sử dụng lao động có trách nhi
ệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng
lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân
nhân người chết do tai nạn lao động, BNN mà không do lỗi của người lao động.
Trường hợp do lỗi của người lao động thì cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất
bằng 12 tháng lương. Trích luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân
Chương IV - Điều 33: Giám
định y khoa
1. Hội đồng giám định y khoa xác định tình trạng sức khoẻ và khả năng lao động
258
của người lao động theo yêu cầu của các tổ chức sử dụng lao động và người lao động.
2. Các tổ chức sử dụng lao động và các cơ quan bảo hiểm xã hội phải căn cứ vào
kết luận của Hội đồng Giám định y khoa để thực hiện chính sách đối với người lao
động.
Trích “ Điều lệ khám chữa bệnh và phục hồi chức năng”
(Ban hành kèm theo Nghị đị
nh của Hội đồng Bộ trưởng số 23 HĐBT ngày
24/11/1991).
Chương V: Giám định y khoa
Điều 17: Hội đồng giám định y khoa có nhiệm vụ giám định tình trạng sức khoẻ
và khả năng lao động của người được giám định.
- Xác định mức độ mất khả năng lao động tạm thời hay lâu dài và nguyên nhân
gây mất khả năng lao động của người được giám định.
- Quy định đ
iều kiện và loại hình lao động, công việc và nghề nghiệp phù hợp
với sức khoẻ của người được giám định.
Điều 18: Các tổ chức sử dụng lao động căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám
định y khoa để thực hiện các quyền của người lao động được nghỉ việc để điều trị, điều
dưỡng, hưởng ch
ế độ lao động thích hợp.
Các cơ quan bảo hiểm xã hội phải căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định y
khoa, thực hiện chính sách đối với người lao động được nghỉ mất sức, hưởng chế độ
bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội tỷ lệ mất sức lao động của họ.
Điều 19: Các tổ chức sử d
ụng lao động, các cơ quan bảo hiểm xã hội và người
lao động nếu không đồng ý với kết luận của Hội đồng giám định y khoa có quyền đề
nghị lên Hội đồng giám định y khoa trên một cấp giám định lại.
Điều 20: Hội đồng giám định y khoa sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
nếu cây giám định sai sự thật.
Chỉ thị số 33 BYT/CB ngày 21/12/1979 của Bộ y t
ế về việc triển khai công
tác phòng và chữa bệnh nghề nghiệp (Trích)
Hội đồng giám định y khoa tỉnh, thành phố
- Về tổ chức cần bổ sung một bác sĩ chuyên khoa BNN hoặc bác sĩ nội khoa có
bổ túc BNN vào làm uỷ viên Hội đồng giám định y khoa tỉnh, thành phố. Bác sĩ này
phải là người có trình độ khá về chuyên môn và có đạo đức tốt.
- Chỉ có HĐGĐYK tỉnh, thành phố mới có quyền giám định ngườ
i công nhân
mắc BNN, tuỳ theo bệnh người công nhân có thể được đổi nghề, nhận một công việc
khác hợp với sức khoẻ hoặc nghỉ hẳn về mất sức lao động.
- Khi gặp trường hợp khó vượt khả năng chuyên môn thì gửi bệnh nhân lên Hội
259
đồng GĐYKTW.
Riêng đối với bệnh bụi phổi do silic và do amiăng: Để giám định bệnh này cần tổ
chức nhóm 3 bác sĩ gồm:
- 1 Bác sĩ của tổ VSLĐ trong trạm VSPD tỉnh, thành.
- 1 Bác sĩ của phòng khám BNN trong phòng khám đa khoa của Bệnh viện tỉnh
hoặc của bộ phận chữa BNN của Bệnh viện tỉnh.
- 1 Bác sĩ được chỉ định làm uỷ viên trong Hội đồng GĐYK tỉnh, thành ph
ố.
Hội đồng giám định y khoa trung ương
- Hội đồng giám định y khoa trung ương được giao thêm nhiệm vụ giám định
BNN, thành phần Hội đồng sẽ bổ sung 1 bác sĩ chuyên khoa BNN là uỷ viên. Uỷ viên
này phải là 1 bác sĩ có trình độ, có kinh nghiệm về BNN và có đạo đức tốt
- Nguồn bệnh nhân là do các HĐGĐYK địa phương và bệnh viện E gửi về.
- Để giúp cho HĐGĐYKTW có điều kiện giám định tốt bệ
nh nghề nghiệp các
Viện chuyên khoa về bệnh viện đầu ngành, mỗi đơn vị cử một bác sỹ đã học bổ túc
BNN của chuyên khoa mình hợp thành một nhóm chuyên viên làm cố vấn cho
HĐGĐYKTW. Bộ sẽ chỉ định các giám định viên.
Viện GĐYK có trách nhiệm giúp đỡ các HĐGĐYK địa phương và ngành về mặt
chuyên môn và phương pháp làm việc trong việc giám định BNN.
Việc giám định y khoa
Giúp Bộ hướng dẫ
n công tác giám định BNN cho các HĐGĐYK các tỉnh, thành
và ngành, ra văn bản quy định tiêu chuẩn giám định 8 BNN, tổ chức Hội đồng
GĐYKTW trực tiếp giám định những công nhân mắc BNN mà các HĐGĐYK địa
phương chưa có điều kiện giám định.
Các quy định giám định y khoa về mất khả năng lao động do bệnh nghề
nghiệp
Giám định y khoa về mất khả năng lao động (KNLĐ) vừa mang tính chất chuyên
môn vừa mang tính chất pháp lý.
Đối tượng giám định y khoa (GĐYK) về mất KNLĐ do BNN là những người lao
động phải làm việc trong môi trường có các yếu tô độc hại gây ra BNN được Nhà
nước bảo hiểm, sau khi điều trị, điều dưỡng phục hồi chức năng còn để lại di chứng
(trường hợp BNN không có thuốc điều trị đặc hiệu hoặc không điều trị được thì đượ
c
lập hồ sơ gửi đi giám định ngay), làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ đền bù và sắp
xếp công việc làm phù hợp với sức khoẻ.
I. Cấp có thẩm quyền GĐYK về mất KNLĐ do BNN
1. Các hội đồng GĐYK tỉnh, thành phố trực thuộc TW, các Hội đồng GĐYK Bộ
260
Quốc phòng, Bộ nội vụ, Bộ giao thông và vận tải. Các Hội đồng này chỉ có quyền
giám định lần đầu.
2. Hội đồng GĐYKTW (bao gồm cả phân Hội đồng GĐYKTW I và II). Đây là
hội đồng cao nhất của toàn quốc, ngoài quyền hạn giám định lần đầu, hội đồng
GĐYKTW có thẩm quyền giám định lần thứ hai và giám định phúc quyết BNN.
II. Các nguyên tắc pháp lý, thủ tục hồ sơ
giám định BNN
Nguyên tắc giám định y khoa BNN cũng là các nguyên tắc giám định chung của
ngành giám định y khoa, gồm những quy định chính sau đây:
1. Việc xác định tỉ lệ mất KNLĐ do BNN phải căn cứ vào bảng tiêu chuẩn do
Nhà nước ban hành.
2. Phải tiến hành giám định qua 2 bước.
Bước 1 : Chuẩn bị hồ sơ, dự kiến tỉ lệ mất KNLĐ và biện pháp phục hồi chức
năng (do bác sĩ phòng GĐYK ho
ặc giám định viên BNN thực hiện).
Bước 2: Hội đồng GĐYK họp xét từng trường hợp một, quyết định tỷ lệ mất
KNLĐ (phải có mặt đối tượng) và ra biên bản.
3. Hội đồng GĐYK làm việc theo chế độ tập thể, dân chủ. Khi họp phải có quá
bán số thành viên chính thức, ít nhất cũng phải có mặt hai thành viên chuyên môn và
một thành viên chính sách. Quyết định của Hội đồng dự
a theo đa số ý kiến của các
thành viên dự họp. Trường hợp chưa thống nhất ý kiến thì phải biểu quyết, Chủ tịch
Hội đồng không có quyền quyết định một mình.
4. Không giám định khi đương sự vắng mặt.
5. Không giám định khi không có đủ thủ tục giấy tờ và khi đối tượng đang còn
điều trị, điều dưỡng phục hồi chức năng.
6. Biên bả
n giám định lập thành 04 bản, có đầy đủ chữ ký trực tiếp của các thành
viên dự họp, đánh số và đóng dấu của Hội đồng. Bản chính biên bản (tờ đánh máy đầu
tiên) và bản dự thảo (bản viết tay) lưu lại Hội đồng với hồ sơ, 2 bản khác trả cho cơ
quan giới thiệu để làm chế độ, 1 bản gửi cho đương sự.
A. Thủ t
ục hồ sơ giám định lần đầu
Phải có đầy đủ các giấy tờ sau:
1. Giấy giới thiệu của người sử dụng lao động gửi đến BHXH tỉnh thành phố để
giám đốc BHXH giới thiệu đến Hội đồng. Trường hợp chưa tham gia BHXH bắt buộc
thì không cần giấy giới thiệu của BHXH. Trong giấy giới thiệu phải ghi đúng và rõ họ
và tên, tuổi đờ
i (khớp với chứng minh thư nhân dân), nghề nghiệp (công việc làm cụ
thể, không ghi chung chung: công nhân, cán bộ ), thâm niên nghề, bậc thợ, tên loại
BNN cần giám định.
261
2. Kết quả đo kiểm tra nồng độ các yếu tố độc hại trong môi trường lao động
(theo mẫu quy định của bộ y tế). Người ký phiếu này phải là Giám đốc hoặc phó giám
đốc Trung tâm y học dự phòng của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc trung
tâm y tế dự phòng các ngành (Công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải ). Viện y
học lao động - vệ sinh môi trường, viện KHKT - BHLĐ Tổng liên đoàn lao động Việ
t
Nam, Viện vệ sinh dịch tễ - Cục quân y - Bộ quốc phòng.
Phiếu đo kiểm tra môi trường phải trùng với năm phát hiện BNN. Trường hợp
bệnh nhân phát hiện BNN trong thời gian bảo đảm thì phiếu do kiểm tra môi trường
lao động phải trùng với bệnh nhân rời khỏi môi trường lao động đó.
Kết quả đo kiểm tra môi trường lao động chỉ có giá trị trong 1 năm.
3. Bệnh án nghiên cứu BNN hoặc “tóm tắt h
ồ sơ và bệnh án gửi ra Hội đồng
GĐYK theo mẫu quy định”.
4. Phim X quang (kèm biên bản hội chẩn) các xét nghiệm cận lâm sàng, thăm dò
chức năng các giấy tờ ra viện sau khi điều trị, điều dưỡng BNN.
5. Chứng minh thư nhân dân và y bạ (xuất trình khi đến khám tại Hội đồng).
B. Thủ tục hồ sơ giám định lần thứ 2
1. Giấy giới thiệu (quy định như trên). Trường h
ợp đương sự đã có sổ trợ cấp
BNN thì chỉ cần giấy giới thiệu của Giám đốc BHXH.
2. Kết quả đo kiểm tra môi trường lao đồng (quy định như trên).
3. Tóm tắt hồ sơ bệnh án gửi ra Hội đồng GĐYK.
4. Biên bản giám định y khoa về BNN lần trước (nếu sao phải công chứng). Sổ
theo dõi cá nhân về BNN.
5. Các giấy tờ điều trị, điều dưỡ
ng phục hồi chức năng kể từ sau khi giám định
lần đầu.
6. Khi đến khám phải mang theo CMT nhân dân và y bạ.
C. Giám định phúc quyết hoặc giám định theo yêu cầu của người sử dụng lao
động, cơ quan quản lý chế độ, chính sách (dưới đây gọi tắt là người yêu cầu)
1. Công văn của người yêu cầu giám định do cấp trưởng hoặc phó được uỷ nhiệm
ký, nêu rõ lý do trưng cầu giám định.
2. Bản sao có công ch
ứng toàn bộ hồ sơ đã giám định bao gồm:
- Tóm tắt hồ sơ bệnh án.
- Biên bản đã giám định các lần trước.
- Các giấy tờ đã điều trị, điều dưỡng về BNN.
- Các khám nghiệm cận lâm sàng: Xét nghiệm đặc hiệu, phim X quang kèm biên
262
bản hội chẩn (nếu là bệnh bụi phổi nghề nghiệp, tổn thương xương, khớp trong
BNN)
3.Toàn bộ hồ sơ gửi bảo đảm qua bưu điện: Nếu gửi trực tiếp hồ sơ phải được
đóng kín trong phong bì có dấu niêm phong.
4. Khi đối tượng đến giám định mang theo CMT nhân dân và y bạ, bao gồm toàn
bộ quá trình khám chữa bệnh của bệnh nhân ở các cơ sở y tế. Các s
ố liệu này càng lâu,
xa thời gian giám định càng có giá trị đối với các bệnh mạn tính.
DANH MỤC 21 BỆNH NGHỀ NGHIỆP ĐƯỢC BẢO HIỂM TÍNH ĐẾN 1997
(Ban hành kèm theo các Thông tư Liên bộ số 08 -TTLB ngày 19/5/1976,
Thông tư Liên bộ số 29/TTLB ngày 25/12/1991 và Quyết định số 67/BYT - QĐ ngày
4/2/1997 của Bộ y tế)
STT Tên các bệnh phân theo nhóm Ban hành tại văn
bản
Nhóm I: Các bệnh bụi phổi và phế quản
1 1. Bệnh bụi phổi - Silic nghề nghiệp (BP - Silic) Thông thư 08
2 2. Bệnh bụi phổi Atbet (Amiăng)(BP - amiăng) Thông tư 08
3 3. Bệnh bụi phổi bông(BP - bông) Thông thư 29
4 4. Bệnh viêm phế quản mạn tính nghề nghiệp (Viêm PQ - NN) Quyết định 167
Nhóm II: Các bệnh nhiễm độc nghề nghiệp
1. Bệnh nhiễm độc chì và các hợp chất của chì Thông tư 08
6 2. Bệnh nhiễm độc Benzen và các hợp chất đồng đẳng của
benzen
Thông tư 08
7 3. Bệnh nhiễm độc thuỷ ngân và các hợp chất của thủy ngân Thông tư 08
8 4. Bệnh nhiễm độc mangan và các hợp chất của mangan Thông tư 08
9 5. Bệnh nhiễm độc TNT (Trinitro toluene) Thông tư 29
10 6. Bệnh nhiễm độc asen và các hợp chất có asen nghề nghiệp Quyết định 167
11 7. Bệnh nhiễm độc Nicotin nghề nghiệp Quyết định 167
12 8. Bệnh nhiễm độc hoá chất trừ sâu nghề nghiệp Quyết định 167
Nhóm III: Các bệnh nghề nghiệp do yếu tố vật lý
13 1. Bệnh do quang tuyến X và các chất phóng xạ Thông tư 08
14 2. Bệnh điếc nghề nghiệp do tiếng ồn (điếc NN) Thông tư 08
15 3. Bệnh rung chuyển nghề nghiệp Thông tư 29
16 4. Bệnh giảm áp mạn tính nghề nghiệp Quyết định 167