Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nghiên cứu tình hình thừa cân béo phì của học sinh từ 11 15 tuổi tại một số trường trung học cơ sở thành phố huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 86 trang )


1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Trẻ em là tƣơng lai của đất nƣớc. “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, do
vậy việc chăm sóc sức khỏe trẻ em không chỉ là mối quan tâm của từng gia đình
mà là sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nƣớc, để có một thế hệ có đủ thể lực và
trí tuệ tốt.
Béo phì và suy dinh dƣỡng ở trẻ em là hai thái cực của một vấn đề. Ngƣời ta
nhận thấy cả tình trạng thừa cân béo phì và quá nhẹ cân đều liên quan đến sự gia
tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong [10], [17], [31].
Tình trạng dinh dƣỡng của trẻ em là sự tác động qua lại hết sức phức tạp của
các yêú tố kinh tế văn hóa xã hội và môi trƣờng. Cho nên tính chất phổ biến của
tình trạng dinh dƣỡng đƣợc coi là chỉ số hữu ích để đánh giá trình độ phát triển của
một quốc gia.
Dinh dƣỡng chiếm một vị trí quan trọng đối với sức khỏe trẻ em, nó ảnh
hƣởng trực tiếp đến đến quá trình tăng trƣởng, phát triển, ảnh hƣởng đến tình hình
bệnh tật và tử vong của trẻ em. Tình trạng thể chất của trẻ không bình thƣờng còn
liên quan đến khẩu phần ăn dƣ thừa, vƣợt quá mức nhu cầu của trẻ dẫn đến thừa
cân, béo phì. Do vậy, khi nói đến “Malnutrition” bao hàm cả “Thiếu và thừa” dinh
dƣỡng [17], [31], [60].
Suy dinh dƣỡng (SDD) là tình trạng thiếu calo và năng lƣợng trong khi đó
thừa cân béo phì là tình trạng tăng năng lƣợng thu vào hoặc giảm năng lƣợng tiêu
hao diễn ra trong một khoảng thời gian đáng kể. Tuy nhiên có những yếu tố nguy cơ
khác cùng tác động lên mỗi cá thể để làm dễ cho suy dinh dƣỡng hoặc béo phì
xuất hiện [31].
Thừa cân béo phì đang đƣợc Tổ chức Y tế thế giới xem xét dƣới góc độ là
một “nạn dịch toàn cầu” (global epidemic) và ngƣời ta cho rằng béo phì xếp đầu
tiên của một nhóm đƣợc gọi là“ các căn bệnh của nền văn minh” (Diseases of
civilization) [21], [28], [31], [60].
Việt Nam là nƣớc đang phát triển vì vậy chúng ta đang ở trong xu hƣớng



2
chung của các nƣớc đang phát triển đó là suy dinh dƣỡng cùng tồn tại song hành
với béo phì. Nó cũng nói lên rằng chúng ta phải đồng thời can thiệp cùng lúc cho
hai mặt của một vấn đề dinh dƣỡng nhƣ trong chiến lƣợc quốc gia về dinh dƣỡng đề
ra [10], [15].
Ở nƣớc ta, là một nƣớc đang phát triển phần lớn dân số tập trung chủ yếu ở
thành phố. Sự hiểu biết về kiến thức dinh dƣỡng chƣa đƣợc phổ biến triệt để đến
cộng đồng.Vì vậy, giải quyết tình trạng dinh dƣỡng của trẻ em hiện nay là một vấn
đề của toàn xã hội, nó đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành
của Nhà nƣớc và sự phối hợp lồng ghép của các ban ngành đoàn thể và các tổ chức
xã hội, trong đó ngành y tế đóng vai trò tham mƣu đắc lực, đặc biệt là sự tự giác
thực hiện chƣơng trình dinh dƣỡng của mỗi ngƣời dân, trong đó đóng vai trò quan
trọng bậc nhất là sự hiểu biết về dinh dƣõng của các bà mẹ khi mang thai và phòng
chống suy dinh dƣỡng ở trẻ em. Đồng thời cũng cần giáo dục các bà mẹ nếu cho
con ăn nhiều quá nhu cầu cũng gây nên tình trạng thừa cân béo phì. Một số thống kê
gần đây cho thấy tỷ lệ thừa cân béo phì đang càng tăng ở các thành phố lớn [10],
[17], [31], [43].
Tại Thừa Thiên Huế trong mấy năm gần đây tỷ lệ thừa cân béo phì cũng tăng
đặc biệt là học sinh tiểu học.Nhằm tìm hiểu thực trạng tình hình dinh dƣỡng ở trẻ
em, đặc biệt trẻ em lứa tuổi trung học cơ sở từ 11 đến 15 tuổi, góp phần cung cấp
các thông tin cần thiết cho các ban ngành chức năng.
Với mong muốn góp phần vào sự đánh giá tình hình thừa cân béo phì ở trẻ
em Thừa Thiên Huế nói chung và Thành phố Huế nói riêng, nhằm có kế hoạch dự
phòng hạ thấp tỷ lệ mắc bệnh thừa cân béo phì và nâng cao sức khoẻ cho trẻ em,
chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu tình hình thừa cân béo phì của học sinh
từ 11-15 tuổi tại một số trƣờng trung học cơ sở thành phố Huế”với mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ thừa cân béo phì của trẻ em từ 11 đến 15 tuổi tại 4 trường
trung học cơ sở nội thành, Thành phố Huế.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng thừa cân béo phì của trẻ

em từ 11 đến 15 tuổi tại các trường trên.

3

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. TÌNH HÌNH THỪA CÂN BÉO PHÌ
1.1.1. Thừa cân và béo phì
Thừa cân và béo phì đang nổi lên nhƣ là một vấn đề sức khỏe cộng đồng
hàng đầu ở các nƣớc đã và đang phát triển. Năm 2000, Tổ chức Y tế Thế giới
(TCYTTG) đã xuất bản báo cáo kỹ thuật “Béo phì”: Dự phòng và xử trí một dịch
toàn cầu.
Loài ngƣời Cổ đại đã biết đến béo phì, trên các bức chạm cổ đã có hình ảnh
những ngƣời béo tuy vậy tỷ lệ ngƣời béo chƣa bao giờ có ý nghĩa sức khỏe cộng
đồng nhƣ ở thế giới hiện đại [31].
Do béo phì liên quan đến nhiều tình trạng bệnh lý quan trọng nên ngƣời ta
thƣờng coi tỷ lệ béo phì là chóp của tảng băng các bệnh mạn tính không lây [21],
[31], [36].
Tình hình thừa cân và béo phì đang tăng lên ở mức báo động khắp nơi trên
Thế giới, ở ngƣời lớn và trẻ em, đó thật sự là một mối đe dọa tiềm ẩn trong tƣơng
lai [31].
Ở các nƣớc đang phát triển béo phì tồn tại song song với thiếu dinh dƣỡng
(BMI<18,5), gặp nhiều ở đô thị hơn ở nông thôn. Tỷ lệ ngƣời trƣởng thành béo phì
ở Hoa Kỳ là 20% ở nam, 25% ở nữ, tỷ lệ thừa cân> 50%[21], ở Canada là 15%
chung cho cả 2 giới, ở Hà lan 8%, ở Vƣơng quốc Anh 16%. Tỷ lệ ngƣời béo phì
trên thế giới tăng lên rõ rệt trong mấy chục năm qua, ở nữ thƣờng cao hơn ở nam
[31], [36], [39].
Ở các nƣớc đang trong thời kỳ kinh tế chuyển tiếp, khi kinh tế tăng trƣởng tỷ
lệ ngƣời béo cũng tăng lên cùng với tỷ lệ ngƣời gầy giảm dần.Ở giai đoạn đầu, tỷ lệ

béo tăng ở tầng lớp khá giả trong xã hội với chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index-
BMI) trung bình cao sau đó tỷ lệ béo tăng dần ở tầng lớp thu nhập thấp [21].

4
Ở các nƣớc đã phát triển, tỷ lệ béo cao ở tầng lớp nghèo thu nhập thấp và ở
nông thôn nhiều hơn thành thị [21].
Đáng chú ý là tình hình béo phì trẻ em không ngừng gia tăng Ở Hoa Kỳ, tỷ lệ
thừa cân ở trẻ em 5-14 tuổi Bang Louisiana tăng gấp đôi trong khoảng 1973 và
1994, ở Nhật cũng có tình trạng tƣơng tự, tỷ lệ trẻ em học sinh thừa cân (> 120%
cân nặng nên có) tăng từ 5% đến 10% trong khoảng 1973 đến 1993. Tỷ lệ tăng cao
nhất ở trẻ em học sinh 9-11 tuổi [8]. Béo từ lúc còn bé có nhiều nguy cơ dẫn đến
béo về sau này, cũng nhƣ các rối loạn bệnh lý khác liên quan đến béo phì. Ở Thái
Lan tỷ lệ trẻ em béo ở học sinh 6-12 tuổi (cân nặng/ chiều cao)> 120%) vùng
Bangkok tăng từ 12,2% năm 1991 đến 15,% năm 1993 [25], [31], [36], [39].
Tại Việt Nam, trong một vài năm gần đây, một hiện tƣợng sức khỏe đáng
quan tâm xuất hiện ở nƣớc ta đó là thừa cân và béo phì. Trƣớc năm 1995, hầu nhƣ
tỷ lệ thừa cân và béo phì không đáng kể. Những bằng chứng khoa học mới đây cho
phép chúng ta nhận định đây là một vấn đề dinh dƣỡng mới nảy sinh không kém
phần quan trọng, với tỷ lệ đang tăng nhanh theo thời gian. Hiện nay tại thành phố
Hồ Chí Minh tỷ lệ béo phì ở học sinh chiếm 12,2%, ở Hà Nội và Hải Phòng tỷ lệ
này đã chung quanh 10%. Béo phì và thừa cân không những ở trẻ em, học sinh mà
còn ở cả ngƣời trƣởng thành, kể cả tầng lớp cán bộ công chức cũng nhƣ tầng lớp
khác trong xã hội [7].
1.1.2. Định nghĩa
Béo phì là sự tích tụ mỡ bất thƣờng và quá mức tại mô mỡ và các tổ chức
khác gây hậu quả xấu cho sức khỏe. Nguyên nhân có thể là thứ phát (nội sinh) hoặc
nguyên phát (ngoại sinh) [31], [40].
Cho đến nay, khác với ngƣời lớn ngƣời ta vẫn chƣa có sự nhất trí cao về định
nghĩa cũng nhƣ trong việc sử dụng các ngƣỡng thích hợp để phân định một đứa trẻ
là béo phì hay không.

Với khái niệm đơn giản đƣợc chấp nhận nhiều nhất thì thừa cân (overweight)
là một tình trạng tăng quá mức trọng lƣợng cơ thể so với trọng lƣợng chuẩn và béo
phì (obesity) là tình trạng tăng quá mức mỡ cơ thể một cách cục bộ hay toàn thể

5
[31]. Trên thực tế có thể có một số trẻ thừa cân nhƣng không béo phì do sự phát
triển quá mức của khối nạc và xƣơng.
Sự tƣơng quan chặt chẽ giữa chiều cao và cân nặng trong suốt thời kỳ phát
triển trẻ em cho thấy rằng chỉ số cân nặng theo chiều cao (Weight for height): W/H)
có thể là một phƣơng pháp đơn giản để nhận định độ béo gầy [7], [19] ,[21].
Một quần thể tham khảo đã đƣợc TCYTTG khuyến nghị sử dụng trên toàn
thế giới từ những năm 1970 là quần thể NCHS (National Center For Health
Statistics), Trung tâm Thống kê Sức khoẻ quốc gia) của Hoa Kỳ. Trong các điều tra
sàng lọc giới hạn ngƣỡng để đánh giá một đứa trẻ là thừa cân khi chỉ số cân nặng
theo chiều cao lớn hơn +2SD so với quần thể tham chiếu NCHS/WHO. Một Uỷ ban
các chuyên gia của TCYTTG cũng đã đƣa ra khuyến nghị rằng mối liên quan này
thay đổi nhiều theo tuổi, có lẽ là cùng với thời kỳ dậy thì và trƣởng thành. Vì vậy
chỉ số cân nặng theo chiều cao chỉ nên đƣợc sử dụng trong một khoảng tuổi nhất
định mà thôi (<9 tuổi). Ngƣời ta cũng lƣu ý rằng trong điều tra cộng đồng chỉ số cân
nặng theo chiều cao cao là đủ đánh giá béo phì, vì đa số cá thể có cân nặng theo
chiều cao cao đều béo [14].
Để khắc phục nhƣợc điểm trên, TCYTTG đã khuyến nghị sử dụng chỉ số
BMI là một chỉ số thực hành lâm sàng đơn giản đƣợc mô tả đầu tiên vào thế kỷ XIX
bởi Quetelet. Vì vậy, BMI còn đƣợc gọi là chỉ số Quetelet, là một chỉ số kết hợp hai
yếu tố cân nặng và chiều cao [14], [29], [30].
Chỉ số BMI ở ngƣời trƣởng thành gia tăng chậm theo tuổi, vì vậy ngƣỡng
này không phụ thuộc vào độ tuổi khi đánh giá độ béo gầy. Trái lại ở trẻ em, BMI
thực tế thay đổi cùng với tuổi: Gia tăng nhanh chóng ở tuổi sơ sinh, giảm xuống ở
tuổi tiền học đƣờng và rồi tăng trở lại suốt thời kỳ thiếu niên và giai đoạn sớm ở
ngƣời trƣởng thành. Chính vì lý do này mà BMI chỉ nên đƣợc sử dụng ở trẻ lớn (>9

tuổi) và ngƣời trƣởng thành, và đánh giá chỉ số BMI ở trẻ em cần thiết phải đƣợc
đánh giá cùng biểu đồ tham khảo liên quan với giới và tuổi ( bách phân vị theo giới
và tuổi). Bách phân vị (Percentile) là số phần trăm của các cá thể trong nhóm mà
những cá thể này đã đạt đến một mức tăng trƣởng hoặc một đo lƣờng về lƣợng nào

6
đó (ứng với một cột cao 95 cm). Đối với số liệu nhân trắc, các ngƣỡng bách phân vị
có thể đƣợc tính toán từ trung bình và độ lệch chuẩn. Ở mốc 5,10,25 bách phân vị
tƣơng ứng với – 1,65 SD; -1,3 SD và – 0,7SD [19], [21].
Ở trẻ em, BMI  85 bách phân vị (85
th
Percentile) so với quần thể tham
chiếu NCHS/WHO thì đƣợc xem là thừa cân và  95bách phân vị ( 95
th
Percentile)
là béo phì. Ngoài ra nếu BMI  85 bách phân vị và bề dày nếp gấp da> 90 bách
phân vị cũng đƣợc xem là béo phì [9], [19], [39], [43], [86], [94].
Ngoài ra ngƣời ta còn sử dụng việc đo bề dày nếp gấp da để loại trừ các
trƣờng hợp thừa cân do phát triển khối nạc. Hai vị trí: nếp gấp da cơ tam đầu và góc
dƣới xƣơng bả vai [27]. Gọi là béo phì ở một trẻ vừa có thừa cân vừa có nếp gấp da
cơ tam đầu và góc dƣới xƣơng bả vai> 90 bách phân vị so với quần thể tham chiếu
NCHS [4],[35],[69].
Tỷ số vòng thắt lƣng/vòng mông(WAIST- HIP-RATIO) và vòng thắt lƣng
(WAIST CIRCUMFERENCE) cũng có giá trị để dánh giá sự phân bố của mỡ. Tỷ
số vòng thắt lƣng/ vòng mông (1.0 ở nam và 0,85 ở nữ) đƣợc dùng để xác định các
đối tƣợng béo bụng. Ngƣời ta còn thấy vòng thắt lƣng thƣờng không liên quan đến
chiều cao, có liên quan chặt chẽ với chỉ số BMI và tỷ số vòng thắt lƣng /vòng
mông, do đó thƣờng đƣợc coi nhƣ là chỉ số đơn giản đánh gíá khối lƣợng mỡ bụng
và mỡ toàn bộ cơ thế [21]. Hiện chƣa có các “ngƣỡng” quy ƣớc với vòng thắt lƣng.
Ngƣời ta thấy các nguy cơ bị bệnh tiểu đƣờng, cao huyết áp, nhồi máu cơ tim [15]

tăng khi vòng thắt lƣng  94 cm đối với nam,  80 cm đối với nữ và tăng lên rõ khi
các trị số tƣơng ứng là 102 cm và  88cm [31].
1.2. PHÂN LOẠI BÉO PHÌ: có 3 cách phân loại.
1.2.1. Dựa theo đặc điểm giải phẫu và sự phân bố của mô mỡ
- Béo phì dạng nam (android obesity) hay còn gọi là béo bụng, béo trung
tâm, béo phần trên, béo dạng quả táo (apple- shapled) [7], [9], [21], [19], kiểu béo phì
này có nhiều nguy cơ bệnh tật [9], [15].
- Béo phì dạng nữ (gynoid obesity) hay còn gọi là béo phần dƣới, béo ngoại
vi, béo dạng quả lê (pear- shped), hay béo phì phần thấp kiểu đàn bà, kiểu này ít gây

7
nguy cơ bệnh tật hơn [9], [15].
- Béo phì hỗn hợp: trƣờng hợp này mô mỡ phân bố khá đồng đều. Các
trƣờng hợp béo phì nặng và rất nặng thƣờng là béo phì hỗn hợp [9], [15].
1.2.2. Theo nguyên nhân bệnh sinh
- Chỉ có một số ít (10%) béo phì ở trẻ em có nguyên nhân nội tiết hoặc do
khiếm khuyết di truyền( còn đƣợc gọi là béo phì thứ phát hay béo phì nội sinh), còn
lại hơn 90% là béo phì nguyên phát [21].
- Một số bệnh nội tiết có thể gây béo phì, tuy nhiên nguyên nhân này tƣơng
đối hiếm gặp nhƣ trong hội chứng Cushing, thiểu năng giáp trạng, thiểu năng sinh
dục…
- Ngoại trừ bệnh cƣờng Insulin nguyên phát, các nguyên nhân béo phì thứ
phát đều làm trẻ chậm tăng trƣởng, thƣờng chỉ số chiều cao theo tuổi thấp hơn 5
bách phân vị. Trong khi đó các trẻ béo phì nguyên phát thƣờng có chiều cao lớn hơn
chuẩn. Nói cách khác nếu trẻ béo phì có chiều cao theo tuổi lớn hơn 50 bách phân
vị thì không cần khảo sát thêm nguyên nhân của béo phì. Đây là một điểm rất quan
trọng trong thực hành lâm sàng [39].
Bảng 1.1. Phân biệt giữa béo phì nguyên phát và béo phì thứ phát nội sinh [10],
[12]
Yếu tố

Béo phì nguyên phát
Béo phì thứ phát
1.Tần suất béo phì ở trẻ em
> 90%
< 10%
2.Chiều cao
Cao, thƣờng > 50 BPV
Lùn, thƣờng < 5BPV
3.Tiền sử gia đình
Gia đình có béo phì
Gia đình có béo phì
không thƣờng gặp
4.Chức năng tâm thần
Bình thƣờng
Chậm phát triển
5. Tuổi xƣơng
Bình thƣờng hoặc lớn hơn
so với tuổi
Chậm phát triển tuổi
xƣơng
6.Lâm sàng
Bình thƣờng
Kèm các dấu hiệu đặc
trƣng của bệnh nguyên


8
1.2.3. Phân loại béo phì dựa theo khởi phát
-Nhìn chung, mọi ngƣời thừa nhận rằng béo phì ở trẻ em thƣờng liên quan
đến béo phì trƣởng thành. Ngƣời ta cho rằng ở một giai đoạn nào đó của cuộc đời,

cụ thể là khi còn bé và ở tuổi thiếu niên, sự phát sinh béo phì thƣờng kèm theo sự
tăng số lƣợng các tế bào mỡ kèm theo phì đại tế bào mỡ, loại này khó điều trị [9],
[21].
-Béo phì khởi phát ở ngƣời lớn thƣờng chỉ có sự gia tăng kích thƣớc (phì đại)
tế bào mỡ mà thôi, loại này dễ điều trị [9], [21].
Do đó béo phì ở trẻ em thƣờng là yếu tố báo trƣớc của béo phì ở ngƣời lớn
và có sức đề kháng cao đối với điều trị [8]. Nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy có đến
30% số trẻ béo sẽ trở thành ngƣời béo khi trƣởng thành kèm theo các rối loạn bệnh
lý khác liên quan tới béo. Do đó cần đặt riêng và nhấn mạnh vấn đề kiểm soát béo
phì ở trẻ em [9], [21].
1.3. TỶ LỆ MẮC BỆNH BÉO PHÌ
1.3.1. Tại các quốc gia đang phát triển
- Tại các quốc gia đang phát triển, bên cạnh tình trạng trẻ em bị suy dinh
dƣỡng mà nhiều quốc gia đang phải đối mặt, béo phì đã xuất hiện và ngày càng gia
tăng nhanh chóng. TCYTTG đã nhận định béo phì và các hậu quả của nó sẽ trở
nên một yếu tố chủ yếu làm kiệt quệ các nguồn lực dành cho y tế tại vùng Thái Bình
Dƣơng trong một tƣơng lai gần.
- Dựa vào số liệu của NHANES 1999-2004 tỷ lệ béo phì gia tăng ở các độ
tuổi 6-10 tuổi từ 4% đến 17,5%, độ tuổi 12-19 tuổi tăng từ 6,1 đến 17% [58].
-Điểm qua các quốc gia thuộc ASEAN ta thấy tại Singapore, tỷ lệ béo phì
của học sinh tiểu học là 9% ở nam và 8% ở nữ vào năm 1984, đến năm 1989 tỷ lệ
này đã đạt 14,5% ở nam và 10,4% ở nữ [21], [39].
1.3.2. Tại Việt nam
- Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng,
sự phân cực trong xã hội dẫn đến sự phân cực trong ăn uống, lối sống. Bên cạnh vấn
đề suy dinh dƣỡng còn rất cao nhƣng đã có xu hƣớng giảm dần nhờ các chiến lƣợc

9
can thiệp tích cực, thì số trẻ thừa cân và béo phì đã gia tăng đáng kể đặc biệt tại các
thành phố lớn tại thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ thừa cân ở trẻ em là 3% năm 1999,

đã tăng lên 6% vào năm 2000, tỷ lệ thừa cân béo phì của học sinh Hà Nội ở tất cả
các lứa tuổi đều có xu hƣớng tăng và tốc độ tăng nhanh vào những năm gần đây:
2,5% năm 1995 và 5.6% năm 2000 trong đó cao nhất là học sinh tiểu học: 8,8%. Tại
Nha Trang tỷ lệ béo phì tuổi mẫu giáo là 3,49% [8],ở trẻ em dƣới 5 tuổi tại thành
phố Hồ Chí Minh là 3,3% [8], [19].
1.3.3. Tại Thừa Thiên Huế
Gần đây đã có các đề tài luận án chuyên khoa cấp II của Phan Thị Bích Ngọc
cho thấy tỷ lệ thừa cân béo phì ở học sinh tiểu học Huế là 6,4% , trong đó có 3,1%
là béo phì [43] và luận văn Thạc sĩ của Phạm Văn Dũng tỷ lệ béo phì ở trẻ 6-10
tuổi là 7,6% trong đó trẻ nam bị béo phì là 11,2% cao hơn trẻ nữ bị béo phì là 3,4%
[10]. Kết quả của Phan Thị Hạnh cho thấy tỷ lệ béo phì ở học sinh lớp 9 là 6,9%
[16].
Rõ ràng trong thời kỳ chuyển tiếp, Việt Nam cũng giống nhƣ các nƣớc đang
phát triển khác, béo phì đã xuất hiện bên cạnh tình trạng suy dinh dƣỡng ở trẻ em và
đang dần trở thành một vấn đề dịch tễ quan trọng.
1.4. NGUYÊN NHÂN VÀ CƠ CHẾ BỆNH SINH CỦA BÉO PHÌ
Mọi ngƣời đều biết cơ thể giữ đƣợc cân nặng ổn định là nhờ trạng thái cân
bằng giữa năng lƣợng do thức ăn cung cấp và năng lƣợng tiêu hao cho lao động và
các hoạt động khác của cơ thể. Cân nặng cơ thể tăng lên có thể do chế độ ăn dƣ
thừa vƣợt quá nhu cầu hoặc do nếp sống làm việc tĩnh tại ít tiêu hao năng lƣợng.
Ngƣời ta nhận thấy 60-80% trƣờng hợp béo phì là do nguyên nhân dinh dƣỡng [39].
1.4.1. Cơ sở sinh lý học của sự điều hòa cân nặng cơ thể là phƣơng trình cân bằng
năng lƣợng:
Năng lượng dự trữ = Năng lượng hấp thu – Năng lượng tiêu hao
Một cân bằng năng lƣợng dƣơng tính xảy ra khi năng lƣợng hấp thu lớn hơn
năng lƣợng tiêu hao, điều này sẽ kích thích làm gia tăng dự trữ năng lƣợng và tăng
cân. Ngƣợc lại, một cân bằng âm tính sảy ra khi năng lƣợng hấp thu thấp hơn năng

10
lƣợng tiêu hao, điều này làm giảm năng lƣợng dự trữ và giảm cân [6], [7], [8], [9],

[21], [27], [39], [41]. Nhƣ vậy chỉ khi có cân bằng năng lƣợng dƣơng tính xảy ra
thì mới có khả năng phát triển thành béo phì tức là năng lƣợng (calo) đƣa vào cơ thể
qua thức ăn thức uống đƣợc hấp thu và dự trữ dƣới dạng mỡ nhiều hơn là đƣợc oxy
hóa để tạo thành nhiệt lƣợng (TCYTTG 2000). Do đó ngƣời béo phì cần hạn chế
bớt thức ăn giàu năng lƣợng nhƣ chất béo,chất ngọt và cần tăng hoạt động thể lực
để tăng cƣờng sử dụng năng lƣợng, không ăn quá mức cần thiết [21], [39].
Các nghiên cứu về dịch tễ học, di truyền học và sinh thái học phân tử cho
thấy nhiều quần thể khác nhau trên thế giới có những ngƣời rất dễ nhạy cảm với sự
tăng cân và phát triển thành béo phì dễ hơn những ngƣời khác. Các yếu tố di truyền,
sinh học và các yếu tố cá nhân khác nhƣ tuổi, giới , hoạt động các hormone tác động
qua lại với nhau tạo nên một cá thể có những đặc tính sinh học trở nên dễ nhạy cảm
với sự gia tăng hay là không.
- Sự hấp thu năng lượng
Năng lƣợng thu vào là toàn bộ thức ăn và đồ uống mà có thể đƣợc chuyển
hoá bên trong cơ thể. Chất béo cung cấp nhiều năng lƣợng nhất tính trên mỗi đơn vị
trọng lƣợng thức ăn, carbonhydrate và protein là ít nhất. Năng lƣợng của chất xơ
đƣợc ƣớc tính vào khoảng 6,3KJ/g, chất béo: 37KJg, rƣợu: 29KJ/g, protein:17KJ/g,
carbonhydrate: 10KJ/g.
Các quan sát trực tiếp về hấp thu năng lƣợng đều cho thấy ngƣời béo phì
thƣờng ăn nhiều và ăn nhanh hơn ngƣời gầy, sự hấp thu chất béo liên quan chặt chẽ
với béo phì ở trẻ em. Sự nở lớn của khối mỡ làm giảm các phản ứng chuyển hoá bù
trừ dẫn đến sự tích luỹ mỡ nhiều hơn nữa. Hoạt động tĩnh tại tạo nên nhu cầu năng
lƣợng thấp ở trẻ em. Hơn thế nữa hoạt động cơ bắp thấp làm giảm sự oxy hoá chất
béo thuận lợi cho việc tích luỹ mỡ [61], [99].
- Sự tiêu hao năng lượng
Sự tiêu hao năng lƣợng- yếu tố thứ hai của phƣơng trình cân bằng năng
lƣợng- gồm 3 phần chính [1], [87], [99], [106], [107].
+Năng lƣợng dành cho chuyển hoá cơ bản.

11

+Năng lƣợng dành cho quá trình sinh nhiệt.
+Năng lƣợng dành cho các hoạt động thể lực
Tuỳ theo tính chất thƣờng xuyên và mức độ hoạt động thể lực của từng
ngƣời mà các thành phần cơ bản của sự tiêu hao năng lƣợng có sự thay đổi khác
nhau, những ngƣời có mức hoạt động thể lực thấp là tƣơng đồng với sự gia tăng
của tỷ lệ béo phì [9], [99].
1.5. CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THỪA CÂN –BÉO PHÌ
Nhiều nguyên nhân gây thừa cân béo phì nhƣng chủ yếu có 3 nguyên nhân
chính đó là gene, thực phẩm và mức độ luyện tập [45].
1.5.1. Chế độ ăn giàu Lipit hoặc đậm độ nhiệt cao: Liên quan chặt chẽ với gia
tăng tỷ lệ béo phì. Các thức ăn giàu chất béo thƣờng ngon nên ngƣời ta ăn quá thừa
mà không biết. Khi vào cơ thể các chất protit, Lipit, gluxit đều có thể chuyển thành
chất béo dự trữ. Các nghiên cứu cho thấy chỉ cần ăn dƣ 70 calo mỗi ngày sẽ dẫn tới
tăng cân mặc dù số calo nhỏ này có thể không đƣợc nhận ra dễ dàng, nhất là khi ăn
những thức ăn giàu năng lƣợng. Vì vậy khẩu phần nhiều mỡ , dù số lƣợng nhỏ cũng
có thể thừa calo và tăng cân. Nhiều nghiên cứu trên trẻ em cho thấy trẻ béo phì
thƣờng háu ăn, ăn nhiều lần. Những thức ăn có hàm lƣợng mỡ cao có vẻ làm ngon
miệng hơn, trong khi rau quả làm trẻ dễ chán. Không chỉ ăn nhiều mỡ, thịt mà ăn
nhiều chất bột, đƣờng, đồ ngọt đều có thể gây béo [31], [39], [96]. Những thức ăn
hấp thu nhanh, đặc biệt là Carbohydrat còn gây tăng nhanh Glucose, Insulin máu, kế
đó là giảm glucose và gây thèm ăn nhiều hơn. Nhiều tác giả cho rằng việc thích ăn
nhiều đƣờng , snack( giàu béo), những thức ăn nhanh nấu sẵn (hamburger , sausage)
và miễn cƣỡng ăn rau quả là một đặc trƣng của trẻ béo phì. Thói quen ăn nhiều vào
bữa tối cũng là một điểm khác nhau giữa trẻ béo và không béo [2], [11], [39]. Một
số trẻ có thói quen nhấm nháp thứ gì đó khi thấy mệt mỏi, buồn bã hoặc xúc động.
Tiêu thụ đồ ăn nhanh, kể cả khi không thực sự thấy đói, cũng khiến trẻ rơi vào tình
trạng tăng cân khó kiểm soát [45], [96].

12
1.5.2. Hoạt động thể lực kém

Trọng lƣợng cơ thể trƣớc tiên đƣợc điều hoà bởi một loạt quá trình sinh lý
nhƣng nó cũng bị ảnh hƣởng bởi các yếu tố về nhận thức cũng nhƣ yếu tố xã hội
bên ngòai. Tuy nhiên yếu tố cơ bản để béo phì trở thành “nạn dịch toàn cầu” chính
là các yếu tố xã hội mà dẫn đến sự thay đổi về lối sống, thói quen ít hoạt động thể
lực, tăng tiêu thụ thực phẩm giàu năng lƣợng và có hàm lƣợng chất béo cao [39],
[45].
Cùng với yếu tố ăn uống, sự gia tăng tỷ lệ béo phì đi song song với sự giảm
hoạt động thể lực trong một lối sống tĩnh tại hơn, thời gian dành cho xem tivi và
đọc báo, làm việc bằng máy tính, nói chuyên qua điện thoại dài, lái xe [39].
Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận trẻ em thừa cân ở thành thị nhiều hơn ở nông
thôn [2], [45], [59]. Phân tích nhận định này cho thấy ngoài tác động do điều kiện
kinh tế, trẻ sống từ môi trƣờng thành thị hầu nhƣ thiếu cơ hội để vui chơi bên ngoài
trong những điều kiện an toàn. Chúng sẽ ở nhà để xem tivi và do buồn chán, chúng
sẽ tìm đến thức ăn để đƣợc thích thú [2], [45], [59]. Ngƣợc lại, trẻ sống ở nông
thôn, nơi mà khí hậu ƣu đãi quanh năm cho những hoạt động ngoài trời, thì ít béo
hơn.Nhiều tác gỉa đã xác định: trẻ thừa cân ít hoạt động thể lực hơn trẻ có cân nặng
bình thƣờng [2], [39], [45]. Hai yếu tố quan trọng góp phần đó là giảm hoạt động
thể lực ở trẻ trong những xã hội giàu có, hầu nhƣ trẻ không cần đi bộ đến trƣờng vì
đã có phƣơng tiện vận chuyển, và chƣơng trình ti vi phát sóng liên tục làm trẻ ngồi
xem thụ động, ngay cả những trẻ nhỏ [2]. Theo Beat Schrch et al 1990 ở Mỹ, trẻ 2-
5 tuổi xem tivi trung bình 4 h/ ngày trẻ 6-11 tuổi xem trung bình 3,5h/ngày. Xem ti
vi là yếu tố quan trọng làm tăng sự thừa cân của trẻ [2], [39], [45]. Tỷ lệ trẻ 6-11
tuổi thừa cân tăng 2% cho mỗi gìờ xem ti vi và những đứa trẻ dùng trung bình 25
giờ/tuần để xem tivi liên quan chặt chẽ với thừa cân [2]. Khi xem ti vi thƣờng kèm
có ăn snack và bản chất các thức ăn này giàu calo [2]. Vì vậy, xem ti vi là sự kế hợp
của tăng lƣợng ăn vào và giảm năng lƣợng tiêu hao ở trẻ.
- Kiểu sống tĩnh tại cũng giữ vai trò quan trọng. Một nghiên cứu ở học sinh
Bắc Ireland cho thấy ở 11 tuổi, trẻ thƣờng có những quan tâm về thể thao, nhƣng

13

tới 16 tuổi quan tâm này giảm và các nghề tĩnh tại đƣợc trẻ thích hơn, đặc biệt là nữ,
những hoạt động nhàn rỗi mà trẻ ƣa thích là nghe nhạc, nói chuyện với bạn bè [2],
[45], [59].
1.5.3. Yếu tố kinh tế xã hội
Ở các nƣớc đang phát triển, tỷ lệ ngƣời béo phì ở tầng lớp nghèo thƣờng
thấp (Thiếu ăn, lao động chân tay nặng, phƣơng tiện đi lại khó khăn) và béo phì nhƣ
một đặc điểm của giàu có (béo tốt) ở các nƣớc đã phát triển khi thiếu ăn không còn
phổ biến nữa thì tỷ lệ béo phì lại thƣờng cao ở tầng lớp nghèo, ít học so với tầng lớp
trên [11].
Nguyên nhân khác nhau này là do ở những nƣớc nghèo, sự tiếp cận thực
phẩm hạn chế, nên ngƣời béo là biểu hiện của sự giàu có, hấp dẫn giới tính. Ngƣời
ta tin rằng béo là khỏe mạnh. Ngƣợc lại ở các nƣớc giàu, béo lại bị xem là kém
thông minh, chậm chạp và thiếu sự kiềm chế [2], [39], [99].
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy trẻ là con một, con út hay con cả thƣờng
đƣợc cƣng chiều, không có sự tranh giành trong gia đình nên có tỷ lệ dƣ cân cao [2],
[10].
Các nhà tâm lý học cũng nhất trí rằng nhiều cha mẹ nuông chiều và ân cần
quá mức trong việc ăn uống của trẻ, dùng những thực phẩm không thích hợp để làm
yên những đứa trẻ hiếu động, quấy khóc đã tạo ở trẻ thói quen đòi và tìm ăn những
thức ăn này khi buồn chán [39], [71], [72], [73], [101].
1.5.4. Ngủ ít
Yếu tố này cũng đƣợc xem nhƣ là một nguy cơ cao ở trẻ thừa cân dƣới 5
tuổi. Nguyên nhân chƣa rõ, nhƣng một số tác giả cho rằng kiểu sống gia đình thiếu
điều độ từ ngủ tới ăn hoặc do thiếu hoạt động thể lực tạo ra những sóng thấp trên
điện não khi ngủ cũng có thể do hoạt động tiêu mỡ của cơ thể là tối đa về đêm và sự
ngủ ít làm giảm tiêu mỡ nói chung (Poskitt-EME, 1995). Trong khi ngủ cơ thể tiết
ra hoóc môn làm giảm sự thèm ăn. Nếu thức dậy giữa chừng, quá trình này bị gián
đoạn sẽ làm cho bạn đói cồn cào và rất khó ngủ tiếp nếu không đƣợc ăn một chút gì
đó, và đó chính là thủ phạm nhanh nhất để tích lũy mỡ thừa [20], [45], [63], [64].


14
Sự mất ngủ thƣờng xuyên còn ảnh hƣởng xấu đến hoạt động của các hoóc
môn đốt cháy calo thừa trong cơ thể bạn [45].Một nghiên cứu kéo dài 13 năm trên
gần 500 ngƣời ở Mỹ, tuổi từ 27 đến 40 , cho thấy: Những ngƣời tăng cân nhiều nhát
là những ngƣời ngủ ít hơn 6 tiếng mỗi đêm.Một phần nguyên nhân là: Thời gian
thức dậy giữa đêm càng dày thì xu hƣớng ăn thêm càng tăng; và sự thiếu ngủ cũng
đã thay đổi cả đồng hồ sinh học cũng nhƣ hệ sinh hóa tự nhiên trong cơ thể. Các
hóa chất và hoóc môn kiểm soát cảm giác thèm ăn rất dễ bị thay đổi khi thời gian
ngủ giảm đi dù chỉ một hoặc hai tiếng so với bình thƣờng [45].
Càng béo phì, càng khó ngủ. Đây là một vòng luẩn quẩn, ngƣời mất ngủ sẽ
bị tăng cân và càng béo thì họ càng khó ngủ hơn.Ngƣời béo phì dễ bị ngạt thở lúc
ngủ vì các cơ ở họng bị giãn, trùng xuống làm cản trở dòng khí ra vào. Vì thế, họ
buộc phải thức dậy một vài giây để dễ thở, sau đó ngủ lại, rồi lại thức giấc. Cứ thế,
cái vòng luẩn quẩn này lặp đi lặp lại suốt đêm khiến ngƣời béo phì không thể có
giấc ngủ sâu [45].
1.5.5. Yếu tố di truyền
Đáp ứng sinh nhiệt kém có thể do yếu tố di truyền. Yếu tố di truyền có vai
trò nhất định đối với béo phì, những trẻ béo thƣờng hay có cha mẹ béo, tuy vậy nhìn
trên đa số cộng đồng yếu tố này không lớn.Theo Mayer J (1995) thì nếu cả bố lẫn
mẹ đều bị béo phì thì có 80% con họ sẽ bị béo phì. Nếu một trong hai ngƣời có béo
phì thì 40% con họ sẽ có béo phì. Ngƣợc lại, nếu cả bố và mẹ bình thƣờng thì khả
năng các con bị béo phì chỉ chiếm 7% [39], [43].
1.5.6. Do gen
Có ngƣời rất dễ bị tăng cân, trong khi có trƣờng hợp chẳng cần lo giữ gìn mà
trọng lƣợng vẫn không thay đổi trong nhiều năm. Gen là yếu tố tạo sự khác biệt này
[1]. Các nhà khoa học đã nhận dạng nhiều loại Gene làm tăng hoặc làm giảm cảm
giác thèm ăn, khiến một số ngƣời chóng đói hơn so với ngƣời khác, hoặc cần phải
ăn nhiều hơn mới đủ no. Đó chính là nguyên nhân gây ra hiện tƣợng ăn quá nhiều
và tăng cân [45], [52].


15
1.5.7. Lối sống tĩnh tại
-Xem ti vi thật ra không gây nên thay đổi trong tốc độ chuyển hoá của trẻ,
nhƣng tăng thời lƣợng xem ti vi đồng nghĩa với tăng thời gian không hoạt
động.Hoạt động ở đây cả lao động chân tay và trí óc [39], [45].
-Những ngƣời hoạt động thể lực nhiều thƣờng ăn thức ăn giàu năng lƣợng,
khi họ thay đổi lối sống, hoạt dộng nhƣng vẫn giữ thói quen ăn nhiều cho nên dễ bị
béo [17].
1.6.CÁC HẬU QUẢ ĐỐi VỚi SỨC KHỎE CỦA BÉO PHÌ Ở TRẺ EM




ĐIỀU HOÀ NĂNG LƢỢNG

Hấp thụ Tiêu hao













Sơ đồ 1.1. Các sự ảnh hƣởng lên cân bằng và điều hoà năng lƣợng [39]

ẢNH HƢỞNG CỦA MÔI TRƢỜNG VÀ XÃ HỘI
Sự nhạy cảm của cá
thể
Kỉểu hoạt động thể
lực và chế độ ăn
Chất
béo

Đƣờng,
bột
Đạm
Tăng cân Duy trì cân nặng Giảm cân
Hoạt động
thể lực

Sinh nhiệt

Chuyển
hoá cơ bản
Dự trữ mỡ cơ thể

16
Béo phì là một đơn vị bệnh lý độc lập đồng thời là một trong những yếu tố
nguy cơ chính của các bênh mạn tính không lây nhƣ bệnh mạch vành (CHD), bệnh
đái đƣờng týp2. Các yếu tố nguy cơ chính của các bệnh mạn tính không lây ( non
communicable disase NCD) là hút thuốc lá, béo phì, tăng huyết áp và tăng
Cholesterol máu) [17], [31].
Béo phì làm gia tăng nguy cơ bệnh tật và tử vong [6], [9], [31], [39]. Các
hậu quả xấu về sức khỏe của ngƣời béo phì rất nhiều và rất khác nhau. Các nguy cơ
này đƣợc sắp xếp từ những nguy cơ làm chết yểu cho đến những nguy cơ tuy

không nguy hiểm chết ngƣời nhƣng lại làm kém đi chất lƣợng cuộc sống [7], [8],
[9], [45].
Các hội chứng liên quan với béo phì ở trẻ em liên quan đến vấn đề tâm lý xã
hội, phát triển quá nhanh, dậy thì sớm, gia tăng khối mỡ tự do, rối loạn lipit huyết,
gia tăng nguy cơ bệnh tim mạch, gan nhiễm mỡ, bất thƣờng trong chuyển hóa
glucose. Các hậu quả ít gặp hơn gồm các biến chứng về hình thể (orthopeadic
complication), khó thở tắc nghẽn lúc ngủ, khối giả u não, bệnh buồng trứng đa
nang, sỏi mật [87], [98].
Hậu quả lâu dài và quan trọng nhất của béo phì ở trẻ em là sự tồn tại dài dẵng cho
đến tuổi trƣởng thành [69].Có khảng 80% trẻ em béo phì sẻ trở thành béo phì lúc
trƣởng thành cùng với tất cả bệnh tật đồng hành của nó [39], [87], [103].
1.6.1. Các hậu quả về tâm lý xã hội
Hậu quả thƣờng thấy ở trẻ béo phì tại các nƣớc nông nghiệp phát triển là
chức năng tâm lý -xã hội nghèo nàn [39], [100]. Trẻ lớn thƣờng liên hệ gán ghép
giữa thân hình quá cở với 1 sự thiếu thành đạt trong cuộc sống [38], [39], [100].
Béo phì ở thiếu niên cũng có thể liên quan với những khó khăn trở ngại về
kinh tế và xã hội sau này [100]. Mội nghiên cứu tiến cứu (prospective study) rộng
lớn ở Hoa Kỳ đã cho thấy những phụ nữ mà đã bị béo phì lúc còn trẻ tuổi thƣờng có
thu nhập thấp hơn, tỷ lệ nghèo khó thiếu thốn cao hơn so với nhóm cũng từng bị các
bệnh mãn tính khác trong thời trẻ [28], [38], [39], [100].

17
1.6.2. Các nguy cơ về tim mạch
Rối loạn lipid huyết, tăng huyết áp, đề kháng với Insulin thƣờng thấy ở trẻ
béo phì [1], [27], [52], [64], [87]. Tình trạng béo phì ở trẻ em là 1 yếu tố tiên đoán
các mức lipoprotein, lipid huyết , huyết áp sẽ trở nên cao hơn sau này [38], [39],
[69]. Chính vì thế béo phì hiện nay là vấn đề sức khỏe cấp bách nhất vấn đề này có
thể đe dọa làm nghịch đảo thành quả của loài ngƣời trong ½ thập kỷ qua trong việc
đẩy lùi bệnh tim mạch [95].
1.6.3. Các biến chứng tại gan và dạ dày

Ngƣời ta đã báo cáo các biến chứng về gan ở trẻ em béo phì, đặc biệt là tình
trạng gan nhiễm mở (hepatic steatosis) cùng với sự gia tăng men transaminase. Các
bất thƣờng này liên quan với sỏi mật . Tuy thế tình trạng này hiếm gặp ở trẻ nhỏ và
thiếu niên [9], [15], [28], [31], [38], [39], [87].
Chứng trào ngƣợc dạ dày - thực quản, rối loạn làm rỗng dạ dày ở béo phì có
thể là hậu quả của việc gia tăng áp lực bên trong ổ bụng do lƣợng mỡ bên trong
bụng quá nhiều [31], [39], [69], [87].
1.6.4. Bệnh đái đƣờng
Có mối liên quan chặt chẽ giữa béo phì và bệnh đái đƣờng týp 2. Đƣờng
huyết đƣợc duy trì tƣơng đối hằng định nhờ haotj động điều hòa của hệ thần kinh và
nội tiết. Trong đó, insulin là hoocmon duy nhất làm giảm đƣờng huyết. Khi bị béo
phì khả năng làm giảm đƣờng huyết của insulin giảm nhất là những ngƣời béo
bụng. Chính vì vậy tế bào gan tăng sản xuất glucose, trong khi tế bào cơ và mô mỡ
lại giảm tiếp nhận glucose, gây tăng đƣờng huyết. Để thích ứng với mức đƣờng
huyết cao hơn bình thƣờng nhƣ vậy, tuyến tụy tăng cƣờng sản xuất insulin, đến một
thời điểm nào đó, khi lƣợng insulin không đủ sức để khống chế đƣờng huyết, các
triệu chứng của bệnh tiểu đƣờng xuất hiện. Chính vì vậy, ngƣời béo dễ mắc bệnh
tiểu đƣờng hơn so với ngƣời có cân nặng bình thƣờng. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là ngƣời béo nào cũng mắc bệnh tiểu đƣờng, bởi vì sự xuất hiện của bệnh cần
có thời gian và còn phụ thuộc khả năng thích ứng của cơ thể [9], [53]. Nguy cơ đái
đƣờng túy 2 tăng lên liên tục khi BMI tăng và giảm đi khi cân nặng giảm. Một

18
nghiên cứu gần đây cho thấy có thể giảm tới 64% trƣờng hợp đái đƣờng túy 2 ở
Nam và 74% ở nữ nếu BMI không vƣợt quá 24. Các nguy cơ trên tiếp tục tăng lên
khi: - Béo phì ở thời kỳ trẻ em và thiếu niên
- Béo bụng
Khi cân nặng giảm, khả năng dung nạp glucose tăng, sự kháng lại insulin
giảm [9], [15], [31], [39], [65].
1.6.5. Các biến chứng về hình thể (orthopeadic complication)

Các biến chứng nặng bao gồm chứng cong xƣơng đùi do bị đè nén bởi cơ
thể quá nặng, bệnh Blount (biến dạng xƣơng là hậu quả từ việc phát triển quá mức
xƣơng chày) [39], [87]. Các biến chứng nhẹ hơn gồm có tật chân vòng kiềng (genu
valgum) và chứng dễ trẹo cổ chân [39], [59].
1.6.6. Các biến chứng khác
Bao gồm chứng khó thở tắt nghẽn lúc ngủ [9], [39] và khối giả u não
(Pseudotumor Cerebri) [52], [87]. Khó thở tắt nghẽn lúc ngủ có thể giảm thông khí
phổi , thậm chí gây đột tử trong các trƣờng hợp nặng [87]. Khối giả u não là 1 bệnh
tâm lý hiếm gặp với triệu chứng tăng áp lực nội sọ, cần phải đƣợc điều trị kịp thời
[69].
1.6.7. Béo phì làm tổn thƣơng bàn chân trẻ
Gần đây ngƣời ta đã khảo sát ở ngững trẻ bị thừa cân và béo phì và đã nhận
thấy ở những trẻ béo phì, bàn chân dài hơn và rộng hơn so với trẻ bình
thƣờng.Ngoài ra trẻ béo phì còn mất nhiều thời gian để đi bộ và đi chậm hơn so với
trẻ bình thƣờng.Ở trẻ béo phì, sự thừa cân khiến cho cấu trúc bàn chân biến dạng,
lâu ngày sẽ dẫn đến những bệnh lý ở lƣng và chân [39], [45]
1.7. ĐIỀU TRỊ BÉO PHÌ TRẺ EM
Hầu hết các trƣơng trình điều trị áp dụng cho trẻ em cũng gần giống với các
chƣơng trình điều trị áp dụng cho ngƣời lớn. Tuy vậy mục tiêu điều trị ở ngƣời lớn
và trẻ em có khác nhau [12], [39], [52], [53], [69].
Việc đạt đến và duy trì cân nặng thích hợp là điều rất quan trọng. Đó là lý do
tại sao việc khuyến cáo lại tập trung vào vấn đề thay đổi lâu dài trong việc ăn uống

19
có thể giúp cải thiện tốt hơn cân nặng trong thời gian ngắn [57].
Có hai nguyên tắc cơ bản để điều trị thừa cân và béo phì đó là tiết thực và
rèn luyện thể dục thể thao [12], [37], [39], [51], [74].
Một mục tiêu quan trọng của việc điều trị ở trẻ em ngăn ngừa trở thành béo
phì thật sự lúc trƣởng thành [8], [39]. Để đạt đƣợc mục tiêu này, nguyên tắc là
giảm lƣợng mỡ dƣ thừa bằng phối hợp thích hợp giữa tăng năng lƣợng tiêu hao và

giảm cung cấp năng lƣợng đồng thời phải bảo đảm sự tăng trƣởng của trẻ [12], [35].
Nguyên tắc thứ hai là đảm bảo tính lâu dài, dễ dung nạp, không làm trẻ cảm thấy bị
cách biệt [12], [39]. Ở những trẻ thừa cân vừa phải, ngƣời ta cố gắng duy trì cân
nặng hiện tại đợi khi trẻ lớn lên sẽ trở thành bình thƣờng.
Đối với trẻ béo phì nặng, chƣơng trình giảm cân phải đƣợc tiến hành từng
bƣớc, lý tƣởng nhất là giảm khoảng 0,5 kg/tuần. Điều này sẽ không kìm hãm sự
tăng trƣởng chiều cao, quá trình chuyển hóa vẫn diễn ra an toàn, gây nên một cảm
giác đói tối thiểu, giữ an toàn cho khối nạc, không gây nên các rối lọan về tâm lý
[12], [39]. Chƣơng trình điều trị gồm có: chế độ ăn, thể dục, trị liệu hành vi và một
số phƣơng pháp trị liệu khác [12], [39], [59].
Bảng 1.2. Các thành phần của một chƣơng trình điều trị béo phì [12]
Thành phần
Đề nghị
Mục tiêu giảm
cân thỏa đáng,
tiết chế
- Khởi đầu đạt đƣợc giảm 2,5- 5 kg tốc độ 0,5 – 2 kg/ tháng
-Tính đƣợc tổng năng lƣợng mỗi ngày, phần trăm năng lƣợng
của các thành phần mỡ, protein và carbohydrate
Hoạt động thực
thể
Bắt đầu tùy thuộc chức năng hô hấp và tuần hoàn của trẻ, với
mục tiêu cuối cùng là hoạt động 20-30 phút/ ngày (không tính
các hoạt động tay chân ở trƣờng học)
Điều chỉnh hành
vi
- Tự kiểm soát, giáo dục dinh dƣỡng, khuyến khích, điều chỉnh
các thói quen ăn uống, hoạt động thể dục thể thao, thay đổi thái
độ, củng cố và phần thƣởng
Sự tham gia của

gia đình
Đánh giá sinh hoạt gia đình, kiểu xem tivi, tham vấn dinh dƣỡng
cho cha mẹ bệnh nhi

20
1.7.1. Thay đổi chế độ ăn
Nguyên tắc chọn thức ăn cho trẻ thừa cân phải theo nguyên tắc “giảm bột
đƣờng, béo và tăng rau trái”. Thức ăn nhẹ nhàng nhƣ bún, cháo, phở thay cho các
thức ăn có năng lƣợng cao nhƣ xôi, bánh mỳ, bánh chƣng. Mỗi bữa ăn của trẻ giảm
từ ½ đến 1 chén cơm và thay bằng canh rau hay trái cây. Lựa chọn cho trẻ trái cây
không ngọt nhƣ thanh long, bƣởi, dƣa hấu, dƣa bở, loại bỏ các mỡ thịt, da, lòng
động vật ra khỏi chế độ ăn, thay thức ăn chiên xào bằng các thức ăn luộc, hấp, canh.
Tránh các loại thức ăn nhanh, thức ăn công nghiệp. Thay vì ăn thịt nên cho trẻ ăn
cá, đậu hũ. Các bữa phụ nên chọn ăn khoai củ, và không đƣợc cho tre ăn vặt ngoài
bữa, nhất là với các loại thức ăn giàu năng lƣợng nhƣ bánh kẹo ngọt, socola[18].
Lựa chọn sữa không có chất béo: sữa gầy, sữa tách bơ, sữa đậu nành, tập cho trẻ
uống không đƣờng [38], [39], [45], [50].
Giảm nguồn năng lƣợng từ chất béo: nên ở mức thấp, càng thấp càng có hiệu
quả giảm cân. Tất cả các thực phẩm có nhiều chất béo thì nên tránh: Thịt mỡ, nƣớc
dùng thịt, bơ, thịt chân giò…Tránh các thực phẩm có nhiều Cholesterol: não, tim,
gan, thận,lòng lợn…[66], [68].
Tránh ăn các thức ăn có đƣa thêm chất béo: bánh mỳ bơ, bơ trộn rau, các
món xào, rán…[39], [45], [50].
- Protein (Đạm): đảm bảo đủ chất đạm. Thay thế một phần chất béo trong
chế độ ăn bằng Protein, có thể là cách hiệu quả trong giảm cân, chiếm tỷ lệ 15-25%
năng lƣợng của khẩu phần. Các thực phẩm giàu Protein: Thịt nạc, tôm, cua, cá ít
béo, giò nạc, sữa đậu nành, fomat, trứng, sữa bột tách bơ, sữa chua không có đƣờng,
đậu đỗ.
- Gluxit: Nên sử dụng Gluxit có nhiều chất xơ nhƣ bánh mỳ đen, ngũ cốc
nguyên hạt, khoai củ có đậm độ năng lƣợng thấp, không đắt tiền, luôn có sẵn [9],

[39], [45], [50].
- Đủ Vitamin và muối khoáng: cần bổ sung viên đa vitamin, khoáng và vi
khoáng tổng hợp. Những khẩu phần ăn dƣới 1200 Kcal thƣờng thiếu hụt Vitamin và
khoáng chất cần thiết nhƣ: Canxi, sắt, Vitamin E…

21
+ Muối:hạn chế muối ăn < 6 g/ ngày, nếu có cao huyết áp thì dùng 2-4 g/
ngày [5].
- Tạo thói quen ăn uống theo đúng chế độ ăn. Số bữa ăn nên 3 bữa/ ngày.
- Các thức ăn giàu năng lƣợng nhƣ: đƣờng mật, mứt, kẹo, bánh ngọt,
chocolat, nƣớc ngọt… nên tránh ăn uống.
-Các thức ăn không nên dùng: Không uống các chất kích thích: rƣợu, bia,
cà fe
- Khi chế biến tránh xào rán nhiều mỡ, nên tăng các dạng rau luộc, nấu canh,
làm nộm, rau trộn xalat [39], [56], [62].
Không nên ăn nhiều vào chiều và tối [39] Phân chia các bữa ăn trong ngày
theo một thời gian biểu hợp lý, trẻ có thể ăn 3 bữa chính+ 1-2 bữa phụ. Những bữa
ăn trong ngày nên càng sớm càng tốt( khoảng 7 giờ tối). Các thức ăn đƣợc đƣa vào
cơ thể trong thời gian này đƣợc tiêu hóa trong thời gian ngủ, tức là khi cơ thể không
hoạt động chuyển thành dạng năng lƣợng dự trữ [45].
Việc áp dụng chế độ ăn hạn chế protein một cách nhanh chóng chỉ nên đƣợc
áp dụng đối với những trƣờng hợp nặng và phải đƣợc thực hiện tại các trung tâm
chuyên khoa dƣới sự giám sát chặt chẽ. Cần lƣu ý chƣơng trình giảm cân có thể làm
tổn thƣơng xúc cảm,tâm thần của trẻ. Các rối loạn hành vi ăn uống nhƣ chứng chán
ăn tâm thần (anorexia nervosa), chứng cuồng ăn (bulimia nervosa) có thể xảy ra
[10], [12].
Sự bận tâm lo lắng thái quá của cha mẹ hoặc của bản thân trẻ về cân nặng có
thể làm giảm đi tính tự tin của trẻ. Sau khi đã đạt đƣợc các mục tiêu ban đầu , cả gia
đình và đứa trẻ phải tích cực duy trì các thói quen tốt đã đạt đƣợc. Việc tái khám
đều đặn sẽ giúp đạt đƣợc điều này [12], [45], [83], [84], [85].

1.7.2. Thể dục
Tùy theo từng ngƣời mà có thể lựa chọn hình thức luyện tập cho thích
hợp:duy trì chế độ luyện tập thể thao ít nhất 30 phút/ngày với các loại hình nhƣ:đi
bộ, bơi, thể dục nhịp điệu, đi xe đạp… Ngƣời ta ƣớc tính 1kg chất béo của cơ thể
cung cấp đủ năng lƣợng cho đi bộ hoặc đi nhanh 100 km. Điều này tƣơng ứng với

22
đi bộ 2,5 km (20-30 phút/ngày 5 lần/tuần) sẽ mang đến giảm khoảng 6,5 kg chất
béo trong 1 năm với điều kiện không ăn thừa năng lƣợng [39], [45], [59], [76], [77].
Nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng tăng hoạt động thể lực kết hợp với chế độ ăn hiệu
quả hơn nhiều khi áp dụng riêng rẽ từng biện pháp trong trị liệu giảm cân và duy
đƣợc tình trạng giảm cân đó [35]. Hoạt động thể lực giúp bảo toàn các khối mỡ tự
do trong suốt thời kỳ ăn kiêng. Thể dục còn làm cải thiện tâm trạng và tác động tốt
lên sự lựa chọn thức ăn của trẻ. Luôn giữ lối sống năng động: đi bộ, đi xe đạp thay
vì bố mẹ phải chở, giảm thời gian ngồi một chỗ xem ti vi, khuyến khích trẻ làm một
số việc nhà hơn là ngồi một chỗ [56], [86].
1.7.3. Trị liệu hành vi (Behavioral Therapy): Trị liệu hành vi làm gia tăng một
cách có ý nghĩa hiệu quả của các chƣơng trình điều trị béo phì. Trị liệu này cung
cấp kỹ năng cho trẻ nhằm thay đổi hành vi để có một nếp sống hợp sức khỏe hơn.
Chƣơng trình trị liệu hành vi bao gồm chế độ tự kiểm soát bản thân, giáo dục dinh
dƣỡng hợp lý, thay đổi hành vi ăn uống và gia tăng hoạt dộng thể lực. Cần lƣu ý là
sự tham gia hợp tác và sự động viên khích lệ của bố mẹ là rất cần thiết và làm gia
tăng kết quả diều trị [45], [90].
Cần vƣợt qua các rào cản của bản thân, tham gia vào hoạt động có tính thể
dục [54].
Đừng chế nhạo trẻ, điều tồi tệ nhất mà chúng ta thƣờng hay làm với các trẻ
béo phì là lôi các em ra làm trò đùa, nhất là ở công cộng. Đừng bao giờ cƣời giễu
và gọi trẻ với những cái tên thằng bệu, con heo… Cha mẹ nên hiểu rằng, những đúa
trẻ “quá khổ” rất nhạy cảm và dễ tủi thân [83], [84], [85]. Nhiều cha mẹ cứ nghĩ
việc chế nhạo sẽ khiến các em thấy lo lắng và chăm chỉ giảm cân. Thực tế không ít

trẻ do bị chế nhạo quá nhiều đã trở nên ì ạch trong sự mặc cảm. Trẻ có thể nghĩ rằng
“số” mình là thế và sẽ khó thay đổi [45], [90].
1.7.4. Một số phƣơng pháp trị liệu khác
Bao gồm sử dụng thuốc, giải phẫu, trị liệu bằng y học dân tộc [45], [51],
[58]. Các phƣơng pháp này áp dụng chủ yếu cho ngƣời lớn. Các thuốc giảm cân
không đƣợc khuyến nghị dùng cho trẻ em vì chƣa có đủ dữ liệu về ảnh hƣởng của

23
thuốc đối với những rối loạn hành vi ăn uống trong giai đoạn dậy thì hoặc khi sử
dụng dài hạn [45], [51], [58]. Dùng thuốc và giải phẫu chỉ áp dụng cho trẻ bị béo
phì rất nặng mà thất bại với các chƣơng trình giảm cân và chỉ đƣợc tiến hành tại các
trung tâm chuyên khoa mà thôi.
Một số phƣơng pháp trị liệu mới dựa trên các hiểu biết mới về sinh bệnh học
của bép phì nhƣ sử dụng Leptin, trong tƣơng lai sẽ là phƣơng pháp hiệu quả để điều
trị cũng nhƣ dự phòng ở trẻ em [77], [87].
1.8. DỰ PHÒNG BÉO PHÌ
Béo phì trẻ em cũng gần giống nhƣ béo phì ở ngƣời lớn. Điều trị và ngăn
ngừa thành công béo phì lúc còn nhỏ sẽ làm giảm nguy cơ béo phì khi trƣởng thành.
Điều này sẽ giúp làm giảm nguy cơ của bệnh tim mạch và các bệnh khác [95].
Dự phòng béo phì là một trong những biện pháp hiệu quả nhất và ít tốn kém
hơn là để bị béo phì rồi mới điều trị. Để dự phòng béo phì trƣớc mắt phải tuyên
truyền những kiến thức cơ bản cho cộng đồng hiểu để cùng tham gia, ngoài ra còn
có sự phối hợp hết sức chặt chẽ giữa các ban ngành nhƣ Sở y tế, Sở giáo dục, Gia
đình và xã hội [36], [39], [44], [56], [67].
Để dự phòng thừa cân- béo phì, cần chăm sóc tốt cho trẻ từ trong bào thai để
tránh thiếu hoặc thừa dinh dƣỡng ở trẻ sơ sinh, cho bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng
đầu, cai sữa sau 2 năm. Nếu phải nuôi bằng sữa bò không nên thêm đƣờng và tinh
bột, khi ăn dặm, thứa ăn phải đƣợc bổ sung các vi chất dinh dƣỡng để giúp tăng
trƣởng tối đa[8].Và điều quan trọng là theo dõi tăng trƣởng của trẻ ở mọi lứa tuổi
qua chỉ số cân nặng- chiều cao. Nhƣ vậy cha mẹ là ngƣời sẽ phát hiện sớm suy dinh

dƣỡng hoặc thừa cân- béo phì để xử trí kịp thời [8], [75], [78], [79], [91].
Ở các nƣớc đang phát triển có giải pháp đơn giản để kiểm soát thừa cân, béo
phì bằng cách giáo dục từng cá nhân và cộng đồng thay đổi thói quen về hoạt động
thể lực và cải thiện chế độ ăn. Nhƣ vậy dự phòng đem lại hiệu quả và rẻ tiền hơn
nhiều so với việc điều trị béo phì [39]. Các can thiệp nhằm mục tiêu kiểm soát và
dự phòng béo phì phải đƣợc thiết kế một cách cẩn trọng để tránh làm bùng nổ các
rối loạn liên quan đến ăn uống do sự lo sợ quá mức bệnh béo phì, đặc biệt ở lứa tuổi

24
mới lớn [39], [67], [87], [91], [104].
1. Dự phòng tăng cân
2. Khuyến khích duy trì cân nặng hiện tại
3. Kiểm soát bệnh tật đồng hành với béo phì
4. Khuyến khích giảm cân
Ngƣời ta áp dụng 3 mục tiêu dự phòng sau đây:
- Dự phòng cho cộng đồng:(Dự phòng toàn dân):
+ Dự phòng trực tiếp lên tất cả mọi ngƣời trong cộng đồng. Nhằm tuyên
truyền dinh dƣỡng hợp lý và lối sống lành mạnh thông qua các phƣơng tiện thông
tin đại chúng, tại nơi làm việc, thông qua trƣờng học và các tài liệu giảng dạy, tập
huấn qua mạng lƣới của các câu lạc bộ và trung tâm của cộng đồng [39], [80], [81],
[104].
+ Các can thiệp thiết yếu: Nâng cao kiến thức của cộng đồng về mối nguy
hại của thừa cân – béo phì và 2 giải pháp quan trọng trong ngăn ngừa thừa cân –
béo phì đƣợc xác định rõ đó là: Nâng cao hoạt động thể lực và cải thiện chất lƣợng
bữa ăn. Hạn chế những thức ăn chế biến sẵn có đậm độ năng lƣợng cao, nhiều chất
béo đang thay thế dần những thức ăn truyền thống (TCYTTG 2000)
- Dự phòng chọn lọc: Dự phòng trực tiếp lên các cá nhân và các nhóm có
nguy cơ cao bị béo phì. Tuyên truyền sâu hơn để các đối tƣợng hiểu rõ và có thể tự
giải quyết các nguy cơ
-Dự phòng có mục tiêu: Là nhằm đến cá nhân đã bị thừa cân thực sự và

những ngƣời tuy chƣa bị béo phì nhƣng có những chỉ dấu sinh học cho thấy có sự
thừa chất béo quá mức. Dự phòng trẻ bị thừa cân không trở thành béo phì lúc trong
thành là một mục tiêu chiến lƣợc dự phòng này.
Chiến lƣợc dự phòng thừa cân béo phì trong cộng đồng bao gồm các biện
pháp phối hợp nhƣ sau [39], [64], [100]:
- Tăng cƣờng hiểu biết của cộng đồng về béo phì và các bệnh mạn tính
không lây có liên quan đến béo phì [31].
- Khuyến khích chế độ ăn hợp lý: Chế độ ăn calo thấp, cân đối, ít béo, chú

25
trọng cân đối giữa các loại chất béo no và chất béo không no có nhiều nối đôi và
một nối đôi, ít đƣờng, đủ đạm, đủ vitamin và khoáng chất theo nhu cầu đề nghị cho
từng lứa tuổi nhiều rau quả [31], [39], [45].
- Khuyến khích các hoạt động thể lực và lối sống năng động.
- Áp dụng các giải pháp cải thiện môi trƣờng góp phần kiểm soát Thừa cân –
béo phì. Những lời khuyên hƣớng tới phòng Thừa cân và béo phì nhƣ:
+ Ăn phối hợp nhiều loại thực phẩm
+ Ăn chất béo ở mức vừa phải, chú ý phối hợp dầu mỡ ở tỷ lệ cân đối , ăn
thêm vừng lạc.
+ Ăn nhiều rau xanh và quả chín( ăn 300 gram rau xanh mỗi ngày)
+ Duy trì cân nặng ở “mức nên có”
+ Thực hiện nếp sống năng động, lành mạnh, hoạt động thể lực đều đặn [39].
1.9. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU BỆNH BÉO PHÌ
Các biểu hiện lâm sảng của bệnh béo phì đã đƣợc ghi nhận từ thời Hi Lạp –
La mã cổ [39], [82], [97], [104]. Đầu thế kỉ XX, các phân tích về các dữ kiện bảo
hiểm nhân thọ đã chứng tỏ rằng béo phì có liên quan với sự gia tăng tỉ lệ tử vong
[39], [104], [105]. Yếu tố gia đình trong bệnh béo phì đƣợc dề cập vào năm 1920;
bệnh Cushinh và bệnh béo phì do tổn thƣơng vùng dƣới dồi đƣợc mô tả cũng trong
thời gian này [39], [100]. Nửa đầu thế kỉ XX, nhiều thuốc mới để điều trị bệnh béo
phì dƣợc giới thiệu , phẫu thuật cắt 1 phần dạ giày cũng đã đƣợc áp dụng để điều trị

cho những ca bệnh béo phì trầm trọng [39], [82], [97], [104], [105].
Tại các quốc gia công nghiệp phát triển đã có rất nhiều nghiên cứu về béo
phì ở các khía cạnh khác nhau [92], [93].
Tại hoa kì béo phì đã trở nên 1 vấn đề dịnh tễ quan trọng dƣợc quan tâm
nghiên cứu. Năm 1990 Hoa Kì tiêu tốn khoảng 68,8 tỷ USD đẻ điều trị và nghiên
cứu bệnh béo phì, đó là chƣa kể khoảng 33 tỷ USD hàng năm chi cho các sản phẩm
và dịnh vụ làm giảm cân [87].
Nghiên cứu WHO/MONICA là 1 nghiên cứu rộng lớn liên quan dến chỉ số
BMI của 48 nhóm dân tộc Caucase (Caucasians- chủ yếu thuộc Châu Âu) đã đƣợc

×