Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Nghiên cứu tình hình viêm da tiếp xúc ở công nhân xây dựng tại một số công trường thuộc huyện hương thuỷ và phú vang, thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.03 KB, 39 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC












NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH VIÊM DA TIẾP XÚC Ở
CÔNG NHÂN XÂY DỰNG TẠI MỘT SỐ
CÔNG TRƯỜNG THUỘC HUYỆN HƯƠNG THUỶ
VÀ PHÚ VANG, THỪA THIÊN HUẾ






LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y KHOA









NĂM, 2009

1

ĐẶT VẤN ĐỀ


Viêm da tiếp xúc với xi măng là một bệnh da nghề nghiệp khá phổ biến
không những ở những nước đang phát triển như nước ta mà còn gặp ở các
nước công nghiệp phát triển như Anh, Pháp, Đức, Mỹ Ở Việt Nam, đã có
một vài công trình nghiên cứu về viêm da tiếp xúc với xi măng song vẫn chưa
có một con số thống kê có tính thời sự và đầy đủ về bệnh này trên bình diện
cả nước do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng được đẩy
mạnh, đô thị hóa ngày càng được phát triển, nhiều công trường, nhà máy, nhà
cửa đang được xây dựng và phát triển với tốc độ cao [1],[4],[7],[8]. Ngành
công nghiệp sản xuất xi măng và ngành sử dụng xi măng đang chiếm một tỉ
trọng đáng kể trong quần chúng nhân dân lao động. Viêm da tiếp xúc với xi
măng chính là bệnh da dị ứng tiếp xúc với một hỗn hợp crom kim loại hoá trị
6 hòa tan trong nước có trong xi măng và đóng vai trò như một hapten. Hiện
nay trên thế giới tỉ lệ viêm da tiếp xúc với xi măng ở công nhân xây dựng dao
động từ 2 đến 15% tuỳ từng nước: Ở Phần Lan từ 2 đến 6,8%, ở Thụy Điển,
Đan Mạch, Hà Lan khoảng 15,5%. Ở Việt Nam theo Khúc Xuyền, tỉ lệ viêm
da trong ngành xây dựng là rất cao: Ở công nhân sản xuất xi măng là 58,25%
trong đó các bệnh da dị ứng là 19,13%, ở công nhân sử dụng xi măng là
53,69% trong đó tỉ lệ các bệnh da dị ứng là 31,28% [9], [11].

2
Chính vì lý do này chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm hai mục tiêu:

1. Khảo sát tỉ lệ viêm da tiếp xúc với xi măng ở quần thể công nhân xây
dựng tại một số công trường thuộc hai huyện Phú Vang và Hương Thuỷ, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
2. Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến viêm da tiếp xúc với xi măng ở
quần thể công nhân xây dựng tại đây nhằm có biện pháp điều trị và dự phòng
một cách có hiệu quả và làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo.
















3
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Lịch sử viêm da tiếp xúc với xi măng
Đứng về mặt lịch sử, nguyên nhân quan trọng nhất của viêm da tiếp xúc
(VDTX) với xi măng chính là VDTX với crom(Cr), một thành phần kim loại
tồn tại dưới dạng hợp chất có trong xi măng. Chỉ ở trạng thái oxid hoá của Cr

hoá trị ba và hoá trị sáu mới hoạt động như một hapten. Sự tồn tại của chúng
phụ thuộc vào các yếu tố pH và nhiệt độ đun nóng trong quá trình sản xuất xi
măng. Crom hoá trị 6 được tạo ra khi hợp chất Crom hoá trị 3 (Cr2O3) được
đun nóng ở nhiệt độ 1400-1500 độ C.
Các trường hợp VDTX với xi măng đầu tiên được mô tả vào năm
1908 và 1925, thời kỳ xây dựng hệ thống tàu điện ngầm ở Paris và
London [26]. Trong thời gian này ngành xây dựng rất phát triển và VDTX
với xi măng đã trở thành bệnh da phổ biến đối với công nhân xây dựng.
Nhưng những hiểu biết về cơ chế bệnh sinh về bệnh này thời bấy giờ vẫn
chưa được sáng tỏ.
Năm 1931 Patch Test với dầu potassium dichromate 0,5% được thực
hiện trong chẩn đoán VDTX với xi măng và nó vẫn còn giữ nguyên giá trị sử
dụng trong bộ test áp da chuẩn của Châu Âu cho tới hiện nay [17], [28].
Năm 1950 Crom hoá trị 6 có trong xi măng đã thực sự gắn liền với dịch
tễ của viêm da dị ứng tiếp xúc với xi măng đối với công nhân xây dựng ở các
nước có ngành công nghiệp phát triển.
Năm 1966 Kligman đã chứng minh được potassium dichromate có
trong xi măng là một hapten cực mạnh có thể kích ứng viêm da dị ứng tiếp
xúc với xi măng [19]. Crom là một kim loại nặng, giữ vai trò quan trọng
trong mạ bóng. Nó được phát hiện đầu tiên năm 1797 khi nhà hoá học
người pháp Nicolas-Louis Vauquelin sản xuất oxide crom(CrO3) từ

4
PbCrO4. Nó được sử dụng đầu tiên không những ở dạng hỗn hợp kim loại,
mạ bóng mà còn dùng để thuộc da, sơn, chống ăn mòn, ceramic và các
ngành hoá học khác. Trong những năm 1970 sự gia tăng đáng kể VDTX
với Crom nghề nghiệp đã ảnh hưởng sâu sắc đến tỉ lệ bệnh tật và sức khoẻ
của người dân Đan Mạch nói riêng và toàn thể công nhân xây dựng nói
chung trên toàn thế giới.
Năm 1979 người ta đã có khái niệm cho sulfate sắt vào xi măng để làm

giảm lượng Crom hoá trị 6 hoà tan trong nước, và như thế sẽ làm giảm tính
kích ứng VDTX của xi măng [16].
Năm 1981 sulfate sắt đã thật sự được cho vào xi măng bởi Aalborg
Portland, Denmark và như vậy đã làm giảm lượng Cr hoá trị 6 hoà tan trong
nước xuống dưới 2 phần triệu và đã thực sự làm giảm nguy cơ viêm da tiếp
xúc với xi măng đối với công nhân xây dựng.
Năm 1983 đạo luật này đã được áp dụng tại Đan Mạch và từ đó tần suất
viêm da dị ứng với Crom ở công nhân xây dựng ở Đan Mạch đã giảm một
cách đáng kể [13].
Ngày 17 tháng 1 năm 2005 Hiệp Hội Châu Âu đã cấm tiếp thị và sử dụng
xi măng có chứa Crom hoá trị 6 hoà tan trong nước trên 2 phần triệu. Quyết
định này chắc chắn sẽ có ý nghĩa tích cực trong việc giảm tỉ lệ VDTX với xi
măng trong tương lai đối với công nhân xây dựng [15], [18].
Hiện nay VDTX chiếm từ 15 đến 20% dân số toàn dân. Sự mẫn cảm
được gây nên bởi da tiếp xúc với một hapten có trọng lượng phân tử thấp.
Yếu tố nguy cơ bao gồm sự nhạy cảm tiềm tàng cố hữu của dị nguyên, nồng
độ dị nguyên cao (liều lượng trên một đơn vị da), tần suất tiếp xúc cao, khả
năng thấm, thời gian tiếp xúc kéo dài, sự hiện diện của yếu tố kích ứng sự
xâm nhập và chức năng hàng rào của da bị thay đổi. Yếu tố gene hình như
đóng vai trò thứ yếu [12].
Người nhạy cảm trở nên phơi bày đối với một nồng độ dị nguyên vượt

5
ngưỡng sẽ dẫn đến viêm da tiếp xúc dị ứng. Mặt khác sự kích ứng VDTX còn
phụ thuộc vào thời gian và tần suất tiếp xúc, vùng tiếp xúc và sự hiện diện của
các yếu tố kích thích [18].
Đã có một số công trình nghiên cứu xác định sự nhạy cảm của dị nguyên
đối với công nhân đang làm việc trong ngành xây dựng ở Brazil từ năm 2000
đến 2005 và họ nhận thấy rằng 4 dị nguyên thường gặp nhất ở những công
nhân xây dựng là: potassium dichromate (57%), carba-mix (34.9%), cobalt

chloride (30.2%) và thiuram-mix (27.9%). Và ngày nay người ta cũng nhận
thấy rằng dịch tễ và viễn cảnh lâm sàng của dị ứng với Cr ở một số nước đang
có sự thay đổi từ vấn đề nghề nghiệp sang vấn đề tiêu thụ. Các sản phẩm
thuộc da bây giờ đã trở thành tác nhân tiếp xúc chính của Cr, tần suất khoảng
0,5-1,7% ở một số nước như Đan Mạch, Thụy Sĩ

6
Bệnh da mẫn cảm với crom ở nam giới chiếm tỉ lệ 2-6,8% ở Phần Lan.
Tỉ lệ này cao đến 15,5% trong công nhân ngành xây dựng ở một số nước Đan
Mạch, Thụy Điển, Hà Lan, Úc [11].
Ở Việt Nam theo Khúc Xuyền, tỉ lệ viêm da trong ngành xây dựng là
rất cao: Ở công nhân sản xuất xi măng là 58,25% trong đó các bệnh da dị ứng
là 19,13%; ở công nhân sử dụng xi măng là 53,69% trong đó tỉ lệ các bệnh da
dị ứng là 31,28% [11].
1.2. Phản ứng quá mẫn đặc hiệu kháng nguyên
Phản ứng quá mẫn là phản ứng miễn dịch đặc hiệu định hướng chống
lại các kháng nguyên khu trú trên tế bào hoặc tổ chức, khởi đầu của tổn
thương tế bào hoặc phản ứng viêm. Phản ứng quá mẫn có thể được phát triển
trong bối cảnh của cơ chế đề kháng đối với vi sinh vật gây bệnh ví dụ phản
ứng viêm khu trú cho phép tránh được sự phát tán của một nhiễm khuẩn. Tuy
nhiên những phản ứng như thế này có thể được định hướng chống lại những
chất không gây bệnh do chính bản thân mình như các dị nguyên (KN gây
phản ứng quá mẫn). Bệnh dị ứng là bệnh chủ yếu của tất cả các loại bệnh tật.
Tần suất và độ trầm trọng của chúng có xu hướng ngày càng tăng, nhất là
trong 30 năm trở lại đây [6].
1.2.1. Phân loại quá mẫn
Gell và Coombs đã đề nghị phân loại phản ứng quá mẫn dựa trên cơ
chế miễn dịch hiệu lực của nó. Quá mẫn type I tập hợp các phản ứng liên
quan đến các kháng thể IgE. Quá mẫn Type II tương ứng với những phá hủy
tế bào và tổn thương tổ chức do tác động của kháng thể. Phản ứng quá mẫn

Type III tương ứng với các thương tổn mô gây nên bởi tác động của kháng
thể và bổ thể, đặc biệt thương tổn do lắng đọng phức hợp miễn dịch lên thành
mạch.
Các phản ứng Type I, II và III có thể truyền được cho người nhận bằng
KT của người cho đã mẫn cảm [2] Phản ứng quá mẫn Type IV (quá mẫn

7
muộn) chỉ có thể truyền được bởi tế bào Lympho T của người cho đã được
mẫn cảm và sự thu được chỉ dương tính nếu cơ thể cho và nhận có chung một
hoặc nhiều phân tử của MHC có khả năng trình diện peptide đối với các tế
bào lymphop T đặc hiệu KN. Sự truyền này được bảo đảm bởi lympho TCD4
tương tác với peptide phối hợp các phân tử lớp II của MHC. Chỉ những
lympho Th1 sản xuất IFN( là có liên quan. Viêm da tiếp xúc với xi măng là
một phản ứng quá mẫn muộn tiếp xúc thuộc quá mẫn Type IV.
1.2.2. Định nghĩa quá mẫn muộn
Quá mẫn muộn hay quá mẫn Type IV là do sự sản xuất các cytokine
bởi lympho T đặc hiệu kháng nguyên mà gây nên sự di trú, hoạt hóa và gia
tăng tại chỗ các bạch cầu đơn nhân.
1.2.3. Quá mẫn muộn tiếp xúc
Dạng quá mẫn tiếp xúc được định nghĩa về mặt lâm sàng bởi một phản
ứng chàm ở vị trí tiếp xúc với kháng nguyên, rất thường xảy ra trong dân
chúng. Dạng quá mẫn này thường do các hapten như các kim loại nặng
(chrome, nikel ) và các chất hóa học tự nhiên (cao su) hoặc các chất tổng hợp.
Hapten xâm nhập qua da dưới dạng liên kết ổn định protein của màng
tế bào, đặc biệt ngay ở những tế bào langerhans của biểu bì. Thường nhất
phân tử cảm ứng này là một tiền hapten chuyển hóa thành hapten trong những
tế bào biểu bì. Trong thời kỳ mẫn cảm này những tế bào langerhans di trú đến
da, rồi đến hạch lympho và cuối cùng trở thành tế bào liên ngón trình diện
kháng nguyên để kích ứng sự bành trứng dòng của những tế bào T nhận diện
phức hợp hapten- peptide(đó là một peptide nội sinh hoặc những phân tử của

MHC của bản thân bị thay đổi bởi sự cố định của hapten).
Quá trình kích ứng diễn ra khoảng một đến hai tuần đối với người, sáu
ngày đối với súc vật, thời gian đủ để các tế bào lympho đặc hiệu đi vào tuần
hoàn bạch huyết và máu.
- Biểu hiện và cơ chế của tổn thương:

8
Sau khi đưa một hapten như thế vào một vùng da chỗ khác của cơ thể
đã được mẫn cảm, các tế bào đơn nhân gia tăng quanh các tuyến mồ hôi,
tuyến bã, các nang lông và bắt đầu thâm nhiễm vào biểu bì. Phản ứng này đạt
tốc độ tối đa khoảng 48 đến 72 giờ. Đại thể nó được đặc trưng bởi ban đỏ,
phù, bọng nước (vesiculation) có thể dẫn đến rỉ dịch. Xét nghiệm miễn dịch tổ
chức cho thấy sự gia tăng các tế bào đơn nhân với ngự trị chủ yếu tế bào
TCD4+, một số ít lympho TCD8+ và những tế bào langerhans CD1+. Những
tế bào T được hoạt hóa tại chỗ bởi kháng nguyên được trình diện bởi các tế
bào langerhans sẽ chế tiết IL2, IL3, GM-CSF và nhất là IFN( và TNF(. Hai
cytokine này sẽ gây nên sự bộc lộ các phân tử kết dính liên tế bào và các phân
tử HLA-DR bởi keratinocytes. Những keratinocytes hoạt hóa cũng bài tiết
IL1, IL6, GM-CSF góp phần vào sự hoạt hóa tế bào lympho T. Các tế bào nội
mô của da cũng có thể bộc lộ các phân tử kết dính và cổ vũ sự di trú và hoạt
hóa của tế bào lympho T.
1.3. Các thể lâm sàng của viêm da tiếp xúc
1.3.1. Viêm da tiếp xúc kích ứng (Irritant Contact Dermatitis)
Không phải mọi trường hợp nổi ban ngoài da do tiếp xúc với một loại
hoá chất nào đó đều là các phản ứng dị ứng. Trên thực tế, 90% các phản ứng
do da tiếp xúc trực tiếp đều không có tính miễn dịch mà do các phản ứng kích
thích, và vì thế chúng đáng được quan tâm. Không giống với các phản ứng dị
ứng trong đó chỉ những cá nhân đã bị gây mẫn cảm trước đây mới mắc phải,
các phản ứng kích thích có thể xảy ra cho bất kỳ người nào chạm phải chất
kích thích. Nói khác đi, bất kỳ ai tiếp xúc trực tiếp với acid sulfuric đậm đặc

nhất định sẽ bị bỏng, chứ không thể một người nào đó lại không bị được.
1.3.2. Viêm da tiếp xúc dị ứng (Allergic Contact Dermatitis)
Mặc dù ít xảy ra hơn với viêm da tiếp xúc kích ứng, song viêm da tiếp
xúc dị ứng vẫn là nguyên nhân quan trọng gây rắc rối cho nhiều người. Tuỳ

9
tính chất nghề nghiệp mà con người phải chịu đựng trực tiếp hoặc gián tiếp
tiếp xúc với các tác nhân dị ứng khác nhau. Những nghiên cứu gần đây người
ta nhận thấy rằng các dị nguyên thường gặp nhất ở những công nhân xây
dựng là: potassium dichromate (57%), carba-mix (34.9%), cobalt chloride
(30.2%) và thiuram-mix (27.9%) [18].
Chàm xi măng dị ứng chủ yếu tập trung ở bàn tay và ngón tay, đôi khi
ở bàn chân, cẳng tay, thân hình. Nắng và ấm làm nặng thêm bệnh chàm xi
măng dị ứng. Hiện tượng này đã được cắt nghĩa bởi sự ra mồ hôi nhiều và có
thể dẫn đến làm tăng sự lọc của crom qua da.

10
Bệnh chàm xi măng là bệnh da phổ biến thường gặp và điển hình trong
ngành xây dựng. Mối liên quan giữa chàm xi măng và sự quá mẫn của crom
đã được biết từ năm 1950. Sự nhạy cảm phụ thuộc vào nồng độ crom hóa trị 6
hòa tan trong xi măng, trên 2p.p.m muối crom hòa tan có thể gây mẫn cảm.
Hầu hết người mẫn cảm với crom bị chàm ở tay do dây dính tiếp xúc
với hợp chất của crom và do ảnh hưởng của những kích thích ban đầu như
chất kiềm, chất ăn mòn, xây xước trong quá trình lao động.
Dị ứng crom ở những bệnh nhân chàm xi măng xuất hiện một phản ứng
quá mẫn tiếp xúc thể muộn, hợp chất crom 6 có tính cảm thụ mạnh nhưng bản
thân crom kim loại lại không gây quá mẫn.
Nồng độ của crom trong bê tông và vữa thấp hơn trong xi măng khô 4-
5 lần, bởi vì ở đó có sự khác biệt lớn trong cấu trúc thành phẩm, nồng độ
crom trong xi măng khô nguyên thủy được dùng ở đây như yếu tố phụ gia với

lượng cromat hòa tan trong xi măng khô chưa vượt quá 2p.p.m nguy cơ gây ra
quá mẫn với người tiếp xúc. Trong một nghiên cứu ở San Francisco (Hoa Kỳ)
nhận thấy khi tiếp xúc với xi măng chứa crom hòa tan không quá 0,1p.p.m
vẫn có thể trở nên mẫn cảm với crom và 1/3 người tiếp xúc có thể dẫn đến
chàm nhẹ. Ở Đức, nồng độ hòa tan của cromat trong xi măng cần thiết để làm
tăng mẫn cảm được xác định từ 0,4 p.p.m.
Hợp chất của crom 6 có thể xâm nhập qua da, điều đó cho thấy khả năng và
cơ chế đặc biệt của crom 6 ở nồng độ thấp. Khi hợp chất crom hóa trị 3 không hòa
tan trong hỗn hợp xi măng kiềm và nước thì khả năng gây mẫn cảm của chúng bị
hạn chế. Sự chuyển crom 6 thành crom 3 ở da làm giảm tính kích ứng VDTX.
Các trường hợp công nhân tiếp xúc trực tiếp với xi măng ướt thì nồng
độ cromat hòa tan trong xi măng thấp hơn ngưỡng của cơ thể gây nên mẫn
cảm, việc hoạt hóa lympho T và kháng nguyên đặc hiệu để tạo nên miễn dịch
đặc hiệu khu trú sau vài tháng, điều này có thể giải thích được trong các
trường hợp chàm xi măng mạn tính, do tiếp xúc với cromat và xi măng kiềm

11
mạn tính gây nên viêm nhiễm kéo dài, crom được tập trung tại thượng bì.
Bệnh chàm mạn có thể tồn tại cùng những dị ứng tiếp xúc khác như sự
mẫn cảm đồng thời với cobalt và hóa chất cao su. Cobalt xuất hiện trong xi
măng khi oxyd không hòa tan những thể phức hợp với axit amin trong bệnh
chàm tạo thành crom hóa trị 6. Niken là một tạp chất lẫn trong xi măng trong
thể oxyd không hòa tan ít gây nên dị ứng. Những nghiên cứu gần đây đã xác
nhận không có sự kết hợp thúc đẩy giữa dị ứng nikelt và chàm xi măng.
1.4. Chẩn đoán
1.4.1. Yếu tố tiếp xúc
Có tiếp xúc trực tiếp với xi măng và những sản phẩm của xi măng.
1.4.2. Dấu hiệu lâm sàng
- Các thương tổn do kích thích: Thương tổn loét hoặc những di chứng
loét (thủng vách ngăn mũi ) [9].

- Các thương tổn dị ứng: Thương tổn cơ bản là các sẩn, mụn nước,
ngứa xuất tiết trên nền đỏ của viêm da, chàm tiếp xúc.
1.4.3. Về cận lâm sàng
- Test da: Viêm da tiếp xúc sẽ được thăm dò bằng cách sử dụng hapten hoặc
KN dưới dạng miếng vá (Patch test) để tìm ban đỏ, ngạnh cứng da, nốt phồng
- Nghiên cứu tế bào và miễn dịch.
- Các test in vitro: Nuôi cấy in vitro tế bào lympho của người quá mẫn
muộn có hiện diện KN để quan sát sự chuyển lymphoblast và sự tăng sinh của
nó. Test ức chế sự di trú bạch cầu để thấy sự hoạt hóa của tế bào T bởi KN
đặc hiệu trình diện bởi các monocyte và sự chế tiết các cytokine ức chế sự di
trú bạch cầu (LIF) [29], [30].

12
CHƢƠNG 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng
Gồm 229 công nhân xây dựng đang lao động tại một số công trường
xây dựng thuộc hai huyện Phú Vang và Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Các đối tượng này được chọn ngẫu nhiên, không phân biệt về giới, có
tuổi đời lớn hơn hoặc bằng 17, có thời gian làm trong nghề xây dựng ít nhất là
3 tuần, có tiếp xúc trực tiếp với xi măng và những sản phẩm từ xi măng để
điều tra và nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn
Đối tượng được chọn vào nhóm nghiên cứu phải là những công nhân có
tuổi đời lớn hơn hoặc bằng 17, đang lao động tại một số công trường xây
dựng thuộc hai huyện Phú Vang và Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế, có
thời gian lao động trong nghề xây dựng ít nhất là ba tuần trở lên.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu: Theo thiết kế mô tả cắt ngang khảo sát tỷ lệ
viêm da tiếp xúc với xi măng và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến viêm da
tiếp xúc với xi măng. Từ đó rút ra được đặc điểm dịch tễ học lâm sàng của
qúa mẫn tiếp xúc với xi măng ở công nhân xây dựng thuộc hai huyện Phú
Vang và Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế để có biện pháp điều trị và dự
phòng nhằm bảo vệ sức khoẻ cho người lao động.
Cỡ mẫu nghiên cứu:
n  16 . p. ( 1 - p )  
2

p  15%
  10 %

13
 n  204
Vậy cỡ mẫu nghiên cứu được ước lượng trong đề tài nghiên cứu của
chúng tôi phải trên 204 công nhân xây dựng.
Đối tượng nghiên cứu được điều tra và khám theo biểu mẫu nghiên cứu
tại một số công trình xây dựng thuộc hai huyện Phú Vang và Hương Thuỷ
trong thời gian từ 15 tháng 3 đến 15 tháng 6 năm 2007.
2.2.1. Khám thực thể
- Việc khám thực thể công nhân tại công trường
+ Xác định thương tổn ngoài da:
Được khám ở nơi có đủ ánh sáng tự nhiên và bảo đảm vệ sinh sạch sẽ
an toàn lao động.
Nếu điều kiện ánh sáng tự nhiên không cho phép thì sẽ được thực hiện
dưới điều kiện ánh sáng đèn mạnh với độ gần thích hợp.
Ghi nhận lại hình ảnh thương tổn bằng máy ảnh kỹ thuật số Sony 3,3
Megapixel.
- Đánh giá trọng lượng:

+ Cân đánh giá trọng lượng: Bằng cân đo lường có độ chính xác cao,
được cân chỉnh, so sánh với nhiều cân khám sức khoẻ ở nhiều trung tâm chăm
sóc sức khoẻ khác nhau để chọn lựa.
+ Phương pháp cân: Đặt cân ở vị trí cân bằng, đối tượng được cân
không mang bất cứ vật gì như đồng hồ, giầy dép, mũ nón, không mặc áo
khoát Bước lên bàn cân nhẹ nhàng ngay giữa bàn cân. Kết quả được đọc khi
kim báo trọng lượng đã hoàn toàn đứng yên.
+ Đơn vị trọng lượng được tính bằng kg.
2.2.2. Phỏng vấn:
Được thực hiện ngay khi khám và điều tra tại các công trình xây dựng theo
biểu mẫu nghiên cứu. Thời gian phỏng vấn mỗi người khoảng 10 đến 15 phút.
Những mẫu nghiên cứu nào không bảo đảm đầy đủ các thông tin trong biểu

14
mẫu nghiên cứu thì sẽ không được chọn vào nhóm nghiên cứu.
2.2.3. Chẩn đoán
Dựa vào các yếu tố:
- Yếu tố tiếp xúc: Có tiếp xúc trực tiếp với xi măng và những sản phẩm
của xi măng.
- Dựa vào lâm sàng:
( Các thương tổn do kích thích: Có cảm giác ngứa ngáy, bỏng rát hoặc
đau nhức. Thương tổn loét hoặc để lại những di chứng loét (thủng vách ngăn
mũi ) [9].
( Các thương tổn dị ứng: Thương tổn cơ bản là các sẩn, mụn nước,
ngứa xuất tiết trên nền đỏ của viêm da. Nứt rạn da hoặc sừng hóa, thậm chí
có bội nhiễm và lỡ loét.
2.3. Xử lý số liệu
Xử lý số liệu bằng toán học thống kê của phần mềm EPI-INFO phiên bản
6.04 của Trung tâm kiểm soát bệnh tật CDC, Alanta, Hoa Kỳ và EXCEL 7.0.
Tiến hành:

- Lập mẫu thống kê từ EPED
- Nhập số liệu qua ENTER DATA
- Phân tích số liệu trên ANALYSIS
Phân tích kết quả qua tần suất, tỉ lệ, trị trung bình, trị tối đa, tối thiểu và
mối tương quan giữa các dự kiện:
+ Độ lệch chuẩn (SD) tính theo công thức:
2
SS 
maì
 











n
i
i
xx
n
S
1
2
2

1
1

+ Phương pháp so sánh 2 tỷ lệ bằng Z test:
 
 











21
0
21
11
1
nn
pp
pp
Z
o

n: cỡ mẫu


15
p0 = số lượng 1 + số lượng 2 / n1 + n2;
p1 = số lượng 1 / n1;
p2 = số lượng 2 / n2.
Nếu Z < 1.96 : Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0.05.
1.96 < Z < 2.58: Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0.05.
Z > 2.58 : Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0.01.





CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Qua ba tháng thực hiện đề tài từ 15/3 đến 15/6/2007 nghiên cứu trên
229 công nhân xây dựng tại một số công trường thuộc hai huyện Phú Vang và
Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chúng tôi có những kết quả như sau:
3.1. Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng
3.1.1. Về tuổi, giới và nơi ở
Bảng 3.1. Tuổi, giới và nơi ở
Số
CN
Tuổi
TB
Nam
Nữ
Nơi ở
SLượng
Tỉ lệ

SLượng
Tỉ lệ
H.Thuỷ
P.Vang
Khác
229
35,4
202
88,21
27
11,79
54
102
73
Nhận xét: Hầu hết công nhân xây dựng tại các công trường thuộc hai huyện
Phú Vang và Hương Thuỷ là nam giới, có độ tuổi trung bình là 35,4 tuổi, lớn
nhất là 56 tuổi, nhỏ nhất là 17 tuổi. Gần 50% công nhân sống ở Phú Vang,
25% sống ở Hương Thuỷ và còn lại sống ven thành phố Huế.

16
3.1.2. Tỉ lệ mắc bệnh chung và theo giới
Bảng 3.2. Tỉ lệ mắc bệnh chung và theo giới
Số CN điều tra
CN nam
CN nữ
SL
VDTX
Tỉ lệ%
SL
VDTX

Tỉ lệ
SL
VDTX
Tỉ lệ
229
44
19,21
202
36
17,82
27
8
29,63


17
Nhận xét: Tỉ lệ VDTX với xi măng trong nhóm nghiên cứu là 19,21 %. Trong đó
nam là 17,8% và nữ 29,6%. Sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p( 0,05).

Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ mắc quá mẫn tiếp xúc với xi măng

Biểu đồ 3.2: Tỉ lệ mắc bệnh theo giới
3.1.3. Thời gian đã làm trong nghề xây dựng và nghề nghiệp trước đó
Bảng 3.3. Thời gian đã làm trong nghề xây dựng và nghề nghiệp trước đó
Số CN
Thời gian TB
đã làm CNXD
Nghề nghiệp trước lúc vào làm CNXD
Nông dân
Làm thuê

Khác
229
10,86
60
50
119
Nhận xét: Thời gian lao động trung bình trong lĩnh vực xây dựng của nhóm
nghiên cứu là 10,86 năm. Trong đó nghề nông, nghề làm thuê và học sinh là
ba nghề chính trước khi họ bước vào làm nghề xây dựng.
3.1.4. Tỉ lệ mắc bệnh theo tuổi
Bảng 3.4. Tỉ lệ mắc bệnh theo tuổi

18
Độ tuổi (năm)
Số lượng
Tỉ lệ %
Viêm da tiếp xúc
Số lượng
Tỉ lệ %
17-35
108
47,2
23
21,30
36-45
83
36,2
11
13,25
46-56

38
16,6
10
26,32
Tổng cộng
229
100
44
19,21
Nhận xét: Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là thanh và trung niên, chiếm tỉ lệ
83,4%. Độ tuổi mắc bệnh cao nhất là từ 46 đến 56, chiếm tỉ lệ 26,32%.
3.1.5. Thời gian trung bình đã làm trong ngành xây dựng và trọng lượng cơ
thể
Bảng 3.5. Thời gian trung bình đã làm CNXD và trọng lượng cơ thể
Đối tượng NC
Thời gian trung
bình đã làm XD
Trọng lượng cơ thể (kg)
Trước lúc vào nghề
Hiện tại
VDTX (n 44)
10,86
52,43
53,84
Không VDTX (n(185)
9,13
52,80
55,08
Nhận xét: Thời gian trung bình đã làm trong ngành xây dựng giữa hai nhóm
có VDTX và không VDTX khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Trọng lượng

cơ thể trung bình trước lúc vào nghề giữa hai nhóm có VDTX và không
VDTX khá tương đương nhau nhưng sau một thời gian lao động trung bình
khoảng 10 năm trong lĩnh vực xây dựng trọng lượng cơ thể trung bình của
nhóm VDTX kém hơn nhóm không VDTX khoảng 1,3 kg.
3.1.6. Tỉ lệ VDTX theo thời gian kích ứng và tình trạng xây xước
Bảng 3.6. Tỉ lệ VDTX theo thời gian kích ứng và tình trạng xây xước
Th.g khởi phát VDTX
Số BN
Tỉ lệ %
Số BN có xây
xước
Tỉ lệ %
( 3 tuần
26
59,09
24
92,30
3 tuần - 1 năm
15
34,09
10
66,70

19
( 1 năm
3
6,82
1
33,30
Tổng cộng

44
100
35
79,50
Nhận xét:
Khoảng 93% công nhân xây dựng bị viêm da tiếp xúc với xi măng có
thời gian khởi phát bệnh kể từ lúc vào nghề xây dựng dưới một năm. Trong
đó 59% bệnh nhân có thời gian kích ứng dưới 3 tuần và 34% bệnh nhân có
thời gian kích ứng từ 3 tuần đến 1 năm. Tỉ lệ xây xước càng cao thì thời gian
kích ứng viêm da tiếp xúc với xi măng càng ngắn. Nhóm có thời gian kích
ứng viêm da tiếp xúc với xi măng dưới 3 tuần có tỉ lệ xây xước 92%, nhóm có
thời gian kích ứng viêm da tiếp xúc muộn hơn từ 3 tuần đến 1 năm có tỉ lệ xây
xước 66,7% và nhóm trên 1 năm có tỉ lệ xây xước 33,3%.
3.1.7. Mối liên hệ giữa VDTX và tình trạng xây xước
Bảng 3.7. Mối liên hệ giữa VDTX và tình trạng xây xước
Mức độ xây xước
Số CN
VDTX
Số lượng
Tỉ lệ %
Nhiều
18
7
38,89
Ít
108
28
25,93
Không
103

9
8,74
Tổng cộng
229
44
19,21
Nhận xét: Tình trạng xây xước càng nhiều thì tỉ lệ VDTX càng cao. Xây xước
nhiều tỉ lệ VDTX khoảng 39%, xây xước ít tỉ lệ VDTX khoảng 26%. Tuy
nhiên không xây xước tỉ lệ VDTX vẫn còn khoảng 9%.
3.1.8. Tỉ lệ VDTX và nghề nhiệp trước đó
Bảng 3.8. Tỉ lệ VDTX và nghề nghiệp trước đó
Nghề trước đây
Viêm da tiếp xúc
Số lượng
Tỉ lệ %
Nông (n(60)
17
28,30

20
Khác (n(169)
27
15,98
Nhận xét:
28,3% bệnh nhân VDTX có nghề trước khi vào làm công nhân xây
dựng là làm nông và khoảng 16% bệnh nhân VDTX là làm thuê, lái xe ôm,
học sinh
3.1.9. Mối liên hệ giữa VDTX và bảo hộ lao động bằng găng tay
Bảng 3.9. Mối liên hệ giữa VDTX và bảo hộ lao động bằng găng tay
VDTX

Có dùng găng
Không dùng găng
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
44
17
38,60
27
61,40
3.1.10. VDTX và yếu tố rượu, thuốc lá
Bảng 3.10. VDTX và yếu tố rượu, thuốc lá
VDTX
Uống rượu
Thuốc lá
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
44
31
70,45
30
68,20
Nhận xét: Khoảng 70% bệnh nhân VDTX với xi măng có uống rượu thường
xuyên và hút thuốc lá.
3.2. Mối liên quan giữa VDTX và tiền sử gia đình, tiền sử bản thân
3.2.1. VDTX và tiền sử gia đình có mắc bệnh quá mẫn type I
Bảng 3.11. VDTX và tiền sử gia đình có mắc các bệnh quá mẫn type I

VDTX
TSgđ có bệnh QM type I
TSgđ không có bệnh QM type I

Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %

4
9,10
40
90,90
44
Không
5
2,70
180
97,30
185

9

220

229
Nhận xét: Chưa thấy có mối liên quan giữa VDTX với tiền sử gia đình có mắc
các bệnh quá mẫn type I với p ( 0,01.

21

3.2.2. VDTX và tiền sử bản thân có mắc bệnh quá mẫn type I
Bảng 3.12. VDTX và tiền sử bản thân có mắc các bệnh quá mẫn type I
VDTX
TSBT có bệnh QM type I
TSBT không có bệnh QM type I

Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %

5
11,40
39
88,60
44
Không
2
1,10
183
98,90
185

7

222

229
Nhận xét: Chưa thấy có mối liên quan giữa VDTX với tiền sử bản thân có
mắc bệnh quá mẫn type I với p ( 0,01.

3.3. Vị trí và các triệu chứng thƣờng gặp của VDTX với xi măng
3.3.1. Vị trí thường gặp của VDTX với xi măng

Bảng 3.13. Vị trí thường gặp của VDTX với xi măng
Vị trí
Số lượng BN(n(44)
Tỉ lệ %
Đầu các ngón tay và gan tay
44
100
Mu tay
16
36,40
Cẳng tay
8
18,20
Bàn chân
6
13,60

Nhận xét:
VDTX tập trung ở đầu các ngón tay và gan tay là chủ yếu, chiếm 100 %
các trường hợp. Tiếp đến là sự phối hợp giữa đầu các ngón tay, gan tay và mu
tay chiếm 36,4%. Ít hơn là sự phối hợp với cẳng tay hoặc bàn chân, chiếm tỉ
lệ từ 13,6 đến 18,2%.


22

Biểu đồ 3.3: Các vị trí thường gặp của VDTX xi măng


23
3.3.2. Các triệu chứng thường gặp
Bảng 3.14. Triệu chứng thường gặp
Triệu chứng
Số lượng BN(n(44)
Tỉ lệ %
Ngứa
44
100
Khô da, bong vảy
44
100
Mụn nước
41
93,20
Sẩn đỏ
40
90,90
Nứt rạn da hoặc sừng hóa
30
68,20
Bội nhiễm, lở loét
2
4,50
Nhận xét:
Ngứa, khô da và bong vảy là những triệu chứng thường gặp trong
100% các trường hợp. Tiếp đến là sẩn đỏ và mụn nước từ 91 đến 93% các
trường hợp. Nứt rạn da hoặc sừng hóa 68% các trường hợp. Bội nhiễm, lở loét
chiếm 4,5% các trường hợp.

3.4. VDTX và yếu tố làm dễ, yếu tố kích ứng
3.4.1. VDTX và yếu tố làm dễ
Bảng 3.15. VDTX và yếu tố làm dễ
VDTX
Ánh nắng
Xây xước
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
44
12
27,30
35
79,50
Nhận xét: Khoảng 27% bệnh nhân VDTX có sự kích ứng của ánh sáng và
80% bệnh nhân có xây xước trong quá trình lao động.

24
3.4.2. VDTX và yếu tố kích ứng
Bảng 3.16. Loại xi măng đã tiếp xúc và cảm thấy kích ứng VDTX với xi măng
Loại xi măng
Số CN VDDƯ đã tiếp xúc
Số CN VDDƯ nhận thấy rõ
loại xi măng kích ứng VDTX
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Kim Đỉnh

44
100
35
79,5
Bỉm Sơn
44
100
5
11,4
Long Thọ
44
100
4
9,1

Nhận xét: 100% công nhân bị VDTX đều có tiếp xúc trực tiếp với tất cả các
loại xi măng Kim Đỉnh, Bỉm Sơn và Long Thọ nhưng có đến 79,5% công
nhân bị VDTX nhận thấy rằng sau tiếp xúc với xi măng Kim Đỉnh là dễ bị
viêm da tiếp xúc hơn so với xi măng Bỉm Sơn hoặc Long Thọ chỉ chung
quanh 10%.


Biểu đồ 3.4: Tỉ lệ xi măng kích ứng VDTX

×