Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Luận văn : Công tác quản lý tài tính Bảo hiểm Xã hội Việt Nam - ĐH Kinh tế Quốc dân - 6 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.36 KB, 10 trang )

Theo quy chế tài chính hiện nay có quy định chi quản lí hoạt động của hệ thống
BHXH Việt Nam được chia làm hai phần chính là chi thường xuyên và kinh phí
mua sắm tài sản có định, xây dựng cơ sở vật chất. Chi thường xuyên là khoản chi
bao gồm cả chi phí nghiên cứu khoa học, đào tạo và đào tạo lại. Khoản chi này
được trích từ tiền sinh lời do thực hiện các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ,
mức trích bằng 4% trên số thực thu của BHXH và BHYT được áp dụng đến năm
2005. Chi xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định là khoản chi được
trích từ tiền sinh lời do thực hiện các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ.
Chi phí quản lí của hệ thống BHXH Việt Nam do Hội đồng quản lí quyết định trên
cơ sở định mức, tiêu chuẩn hiện hành của Nhà nước Việt Nam và hoạt động đặc
thu của ngàn, đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm có hiệu quả. BHXH Việt Nam có trách
nhiệm phân bổ chi phí quản lí cho BHXH các cấp phù hợp với nhiệm vụ được
giao, đảm bảo kinh phí phân bổ cho BHXH các cấp không được vượt quá so với
tổng mức.
Nội dung quản lí chi hoạt động thường xuyên tập chung vào các nội dung cụ thể
sau:
+ Quản lí lao động và quỹ lương đối với các đơn vị, cơ quan BHXH.
+ Quản lí chi cho công tác tuyên truyền về chính sách BHXH.
+ Quản lí chi hoạt động nghiệp vụ: chi cho công tác thu, chi BHXH; chi tiếp
khách.
+ Quản lí kinh phí cấp cho đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân viên.
+ Quản lí chi cho các chuyến công tác.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
+ Ngoài ra BHXH Việt Nam còn thực hiện quản lí chi hỗ trợ đời sống cho cán bộ,
chi hỏi thăm các đối tượng được hưởng các chế độ.
Chi hoạt động được BHXH Việt Nam cân đối góp phần ổn định cuộc sống của đội
ngũ nhân viên trong ngành, cải thiện trang thiết bị làm việc giúp cho việc quản lí
các đối tượng, lưu trữ thông tin, tốt hơn. Đặc biệt là việc nâng cấp hệ thống cơ
sở hạ tầng của BHXH như trụ sở BHXH Việt Nam, trụ sở BHXH ở cả các tỉnh và
huyện đã được nâng cấp, xây mới và đang dần hoàn thiện đồng bộ. Các khoản chi
là đúng với quy định của Nhà nước. Sau đây là những số liệu về chi quản lí trong


một vài năm qua:
Bảng 4: Tình hình chi quản lí BHXH Việt Nam giai đoạn 2001-2004.
Năm 2001 2002 2003 2004
Tổng chi (triệu đồng) 238.092
Tốc độ tăng chi (%) 17,28 104,97
(Nguồn BHXH Việt Nam)
Qua bảng 4 ta có thể nhận thấy số chi quản lí của BHXH Việt Nam ngày càng tăng
đặc biệt là số chi của năm 2003 tăng gần gấp đôi số chi của năm 2002. Song số chi
của năm 2004 đã giảm so với năm 2004, như vậy là BHXH đã có những điều
chỉnh kịp thời tránh được tình trạng bội chi quá lớn.
3. Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
Hiện nay BHXH Việt Nam có quản lí quỹ dựa trên các tài khoản mở tại ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và tại Kho bạc Nhà nước. Theo
quy định hiện nay thì số dư trong quỹ BHXH được dùng để đầu tư tăng trưởng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nhằm mục đích bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Đây cũng là một hoạt động hữu hiệu
để đảm bảo chi mà không phải tăng thu, hơn nữa đây cũng là một nguồn thu rất
lớn của BHXH Việt Nam. Đối với hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ phải đảm bảo
được yêu cầu an toàn, bảo tồn được giá trị và có hiệu quả về kinh tế- xã hội. Năm
1996 hoạt động đầu tư mới chỉ dừng lại ở việc nhận lãi suất 0,3% theo quy định
hưởng lãi suất không kì hạn thì đến năm 1997 các biện pháp bảo toàn và tăng
trưởng quỹ đã được mở rộng, hiện nay hoạt động này gồm có:
+ Mua trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước và các ngân
hàng thương mại của Nhà nước.
+ Cho NSNN, Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, các ngân hàng thương mại của Nhà
nước, ngân hàng chính sách vay.
+ Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Nhìn chung công tác đầu tư tăng trưởng quỹ đã được triển khai thực hiện ở BHXH
Việt Nam, đây cũng là mảng hoạt động quan trọng và bước đầu đã đem lại những
hiệu quả nhất định. Tại BHXH Việt Nam hoạt động này do Ban kế hoạch- tài

chính thưc hiện, theo những đánh giá chung thì số tiền lãi đã có những đóng góp
đáng kể vào chi tiêu xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, tríc lập Quỹ khen thưởng,
phúc lợi . Hoạt động đầu tư được tiến hành quản lí để đảm bảo được hoạt động
theo đúng danh mục, quản lí quá trình xây dựng và thẩm định để đưa ra những
phương án khả thi và có hệu quả nhất. Kết quả hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt
Nam qua những năm vừa qua được thể hiện ở bảng 5.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Từ bảng trên ta có thể thấy được tình hình thực hiện của công tác đầu tư tăng
trưởng quỹ đã có những bước tiến đáng kể. Tuy năm 2001là năm hoạt động có số
lãi tăng lên là nhỏ nhất nhưng những năm gần đây số lãi đầu tư đang tăng dần, đặc
biệt là năm 2004 số lãi đầu tư đã lên tới 2.197.302 triệu đồng. Như vậy, đầu tư
chiếm một vị trí quan trọng trong tổng thu BHXH và đặc biệt trong những năm tới
chắc chắn vai trò của hoạt động đầu tư còn phải lớn hơn nữa. Ba năm gần đây tỉ lệ
tăng trưởng lãi đầu tư của BHXH là tương đối cao, ổn định ở mức tỉ lệ là sấp sỉ
40%. Riêng có năm 2004 vừa qua tỉ lệ lãi đầu tư chưa cao vì tình hình giá cả trong
nước có nhiều biến động. Tỉ lệ lạm phát tăng khá cao, thị trường tài chính biến
động mạnh. Sang đầu năm 2005 Nhà nước ta đã có những biện pháp đối với thì
trường tiền tệ. Hiện nay NHNN đang sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, nâng lãi
suất đầu tư của Việt Nam đồng. Có thể trong năm 2005 này số thu lãi đầu tư của
BHXH Việt Nam sẽ cao hơn.
3. Quản lí hoạt động cân đối quỹ BHXH.
Sau Nghị định 12/CP được thực hiện, quỹ BHXH Việt Nam mới chính thức đi vào
hoạt động và được quản lí thống nhất, hạch toán độc lập với NSNN. BHXH là một
chính sách xã hội, hệ thống BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà hoạt
động vì mục tiêu xã hội, do vậy quỹ BHXH hoạt động và được bằng thu chi hợp lí
(tthu bù chi). Để quản lí tốt việc cân đối thu chi quỹ trước hết ta phải quản lí tốt
các hoạt động thu, chi BHXH và cả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Trên lí
thuyết là như vậy song quá trình thực hiện quả là khó khăn bởi thứ nhất là đặc
trưng của ngành này là thu trước chi sau, các khoản chi ta không thể xác định
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

chính xác ngay khi triển khai để xác định mức thu cho hợp lí. Hơn nữa điều kiện
kinh tế xã hội thì luôn luôn vận động không ngừng, các biến cố có thể xảy ra mà
chúng ta không thể điều kiển được.
Đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay, BHXH được hoạt động theo nguyên tắc tài chính
PAYGO đối với chế độ hưu trí. Tức là các khoản thu trong năm sẽ dùng để chi trả
cho các khoản chi trong năm đó. Nhìn chung hệ thống tài chính BHXH theo cơ
chế PAYGO hầu như không có hoặc có rất ít các khoản tích luỹ cho các giai đoạn
sau, việc quản lí là rất đơn giản. Đối với cơ chế quản lí tài chính này, chu kì thực
hiện được chia làm 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn thanh niên: là giai đoạn khoảng 20 năm sau khi bắt đầu áp dụng
cơ chế nay (ở Việt Nam là khoảng thời gian từ 1995- 2015). Giai đoạn này chưa
có nhiều người về hưu, số người tham gia tăng, như vậy là số người phụ thuộc ít, tỉ
lệ thay thế cao dẫn đến tỉ lệ đóng góp thấp.
- Giai đoạn già hoá: là khoảng 30 năm tiếp theo giai đoạn thanh niên (ở Việt
Nam là khoảng thời gian từ 2015- 2045). Giai đoạn này số người về hưu tăng, tỉ lệ
phụ thuộc tăng, để đảm bảo cân đối thu chi người ta có thể dùng hai cách hoặc
giảm tỉ lệ thay thế hoặc là tăng tỉ lệ đóng góp.
- Giai đoạn già hoá hoàn toàn: là giai đoạn khoảng trên 50 áp dụng chế độ
PAYGO như vậy ở Việt Nam là khoảng từ 2045 trở đi. Giai đoạn này tỉ lệ phụ
thuộc tăng lên rất cao và tỉ lệ đóng góp buộc phải tăng lên.
Theo dự báo thì BHXH Việt Nam đến khoảng năm 20036 là bắt đầu chuyển sang
giai đoạn già hoá (tức là thu không đủ chi, số dư quỹ sẽ âm). Dự tính, quỹ BHXH
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam sẽ phát triển đến tận năm 2022, tại đây số dư quỹ sẽ lớn nhất. Nếu tỉ lệ
tham gia BHXH thực hiện theo xu thế như hiện nay thì đối tượng tham gia BHXH
đến năm 2020 vào khoảng 15 triệu người, đến năm 2030 là 22,4 triệu người và
năm 2040 là khoảng 31 triệu người. Tương đương với đó, số dư dự kiến của
BHXH Việt Nam vào năm 2022 là khoảng 200.000 tỷ đồng, sau đó sẽ giảm dần và
đến năm 2036 dự kiến sẽ âm. Do vậy vấn đề nêu ra hiện nay là quỹ BHXH đang
tồn dư lớn, BHXH Việt Nam ngay từ lúc này nên thực hiện các biện pháp, hoạch

định chính sách cho tương lai thâm hụt quỹ không xa.
Chế độ quản lí tài chính như vậy có ưu điểm là đơn giản song lại cũng có nhiều
nhược điểm cần khắc phục như sự tồn tại quỹ, quyền lợi của người lao động và
ngay cả những tác động không tốt đến nền kinh tế. Tuy nhiên ở nước ta, chúng ta
có thể dễ dàng nhận thấy đây là lựa chọn chuyển cơ chế quản lí tài chính sang cơ
chế quản lí có đầu tư. Thực hiện các hoạt động đầu tư để giảm những hạn chế của
cơ chế quản lí này. Như vậy đầu tư là việc làm rất quan trọng đối với việc cân đối
quỹ BHXH cả hiện nay và trong tương lai. Thu từ đầu tư có thể giúp bảo toàn giá
trị quỹ và giúp chúng tăng trưởng bù đắp được sự mất giá của đồng tiền do lạm
phát. Chúng ta có thể thấy được hoạt động cân đối quỹ BHXH Việt Nam được
thực hiện trong những năm qua:
Bảng cân đối cho ta cái nhìn tổng quan về hoạt động tài chính của BHXH Việt
Nam. Chúng ta có thể nhận thấy số dư quỹ hiện nay của chúng ta đang rất lớn vì
tình hình thu vào nhiều mà chi thì ít do có sự hỗ trợ rất lớn từ NSNN. Qua đó ta
nhận thấy, đối với tình hình như hiện nay hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ cần
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phát huy hơn nữa. Số dư quỹ cuối năm tăng lên đều đặn, số dư tính đến tháng
12/2004 lên tới 66025615 triệu đồng, đây là con số rất lớn so với năm 1995. Tốc
độ tăng tổng thu quỹ lớn hơn tổng chi quỹ, đây là lí do khiến cho số dư quỹ tăng
cao. Hơn nữa như chúng ta biết BHXH Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của cơ
chế PAYGO nên việc số dư quỹ cao là hoàn toàn hợp lí. Điều cần thiết hiện nay là
cần có những biện pháp hợp lí nhằm khắc phục những nhược điểm của chế độ
quản lí tài chính này. Số dư quỹ ngày càng tăng, theo tỉ lệ tăng số dư quỹ như hiện
nay có lẽ chỉ khoảng năm 2030 là số dư quỹ đạt được mức 200.000 tỷ đồng, mức
cao nhất theo dự báo.
III. Đánh giá chung về công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam.
1. Những kết quả đạt được.
1.1. Hình thành hệ thống pháp lí làm cơ sở cho cơ chế quản lí tài chính BHXH:
Từ ngay sau 1995, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các Nghị định về BHXH quy
định và hoàn thiện dần các quy chế quản lí cũng như hoạt động của ngành nói

chung và của tài chính BHXH nói riêng. Đây chính là nền tảng, là định hướng
quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Hơn nữa trong quá trình
hoạt động hệ thống pháp lí của BHXH Việt Nam luôn được sửa đổi bổ xung cho
phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh tế, xã hội. Hệ thống BHXH Việt Nam
ngày càng phát triển với số người tham gia BHXH tăng, năm 1995 mới có
2.275.998 người tham gia BHXH thì tính cho đến cuối năm 2004 số người tham
gia đã lên tới 6.344.508 người (tăng gần 3 lần). Như vậy là chính sách đổi mới là
hoàn toàn phù hợp và phát huy được hiệu quả hoạt động. Điều này thể hiện trong
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
kết quả đạt được trong mọi mặt, song trong khuôn khổ của đề tài chỉ xin đề cập
đến khía cạnh quản lí tài chính của BHXH Việt Nam.
1.2. Hình thành quỹ BHXH được quản lí tập trung và độc lập với NSNN.
Trước đây quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa và hầu như không có thu, nguồn
chi trả cho các chính sách phụ thuộc vào NSNN. Hiện nay BHXH đã hình thành
nên quỹ BHXH, độc lập với NSNN. Thu BHXH từ hai đối tượng là người lao
động và người sử dụng lao động với quy định trích nộp theo % lương của người
lao động và quỹ lương của doanh nghiệp. Hoạt động thu chi được thực hiện tương
đối thuận lợi chi phí thấp mà hiệu quả công việc cao. Việc phân cấp thu chi theo
ba cấp, thu bằng chuyển khoản, thực hiện chi trả thông qua đaị lí là rất phù hợp
với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Mức chi BHXH dựa trên những căn cứ thực
tế, mức lương tối thiểu tính làm căn cứ đảm bảo được mức sống tối thiểu cho
người lao động. Tỉ lệ hưởng BHXH Việt Nam là tương đối cao so với các nước
trên thế giới thể hiện chức năng phân phối lại thu nhập của BHXH. Quỹ BHXH
hiện nay luôn tăng trưởng qua các năm, quỹ đang thay thế dần các khoản chi với tỉ
trọng chi từ quỹ BHXH tăng, giảm tỉ trọng chi từ NSNN. Việc ra đời và phát triển
quỹ BHXH Việt Nam là bước ngoặt lớn trong sự phát triểm của ngành BHXH,
đánh dấu sự chuyển biến về cơ chế quản lí.
1.3 . Công tác thu được phân cấp, tổ chức thu hợp lí an toàn qua hệ thống tài
khoản thu BHXH Việt Nam.
Cấp Trung ương, cấp khu vực, cấp cơ sở là ba phân cấp quản lí của hệ thống

BHXH Việt Nam dựa trên phân cấp hành chính. Trên cơ sở phân cấp này hoạt
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
động thu, chi của BHXH được triển khai rộng khắp cả nước. Việc thực hiện thu
chủ yếu là thông qua chuyển khoản từ tài khoản của doanh nghiệp vào tài khoản
thu BHXH lập tại Kho bạc Nhà nước, hay ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt nam. Hình thức thu nộp trên vừa đảm bảo tính an toàn, chính xác
lại giúp cho các doanh nghiệp và cơ quan BHXH thực hiện dễ dàng. Kết quả là số
thu của BHXH Việt Nam năm sau luôn tăng hơn năm trước, giảm tình trạng nợ
đóng, trốn đóng, chậm đóng. Từ đó quỹ BHXH được ổn định, thực hiện theo đúng
kế hoạch quản lí, bảo tồn và tăng trưởng quỹ, đảm bảo được khả năng chi trả của
quỹ BHXH.
1.4 . Thực hiện chi trả các chế độ vừa nhanh chóng, kịp thời vừa đảm bảo tính
chính xác.
Hiện nay BHXH Việt Nam cũng như các ban ngành trong cả nước đang thực hiện
tốt công tác đơn giảm hoá thủ tục hành chính. Việc xét duyệt các hồ sơ hưởng các
loại chế độ đã dần được đổi mới, thủ tục nhanh chóng, đơn giảm nhưng vẫn hiệu
quả. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng từ 1/1/2005 theo quy trình xét
duyệt mới, việc xét duyệt hồ sơ được thực hiện ở BHXH tỉnh bằng chương trình
tin học, BHXH Việt Nam chỉ theo dõi, chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực
hiện của BHXH tỉnh. Công tác chi trả được thực hiện chủ yếu thông qua hệ thống
đại lí là chủ sử dụng lao động đối với các chế độ ngắn hạn, cán bộ xã phường với
các chế độ dài hạn. Việc chi trả hiện nay thực hiện kịp thời giúp người lao động
đảm bảo cuộc sống của họ. Quỹ BHXH đang có số chi chiếm tỉ trọng ngày càng
cao, dần thay thế NSNN trong vai trò chi trả các chế độ. Sau khi sát nhập BHYT
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
sang BHXH, công tác thu chi thực hiện đơn giản gọn nhẹ, giảm được chi phí quản
lí vì các đối tượng phải tham gia BHXH thì đồng thời cũng phải tham gia BHYT.
Các khoản chi vào công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí
BHXH đã làm giảm các loại chi phí quản lí khác.
1.5. Quỹ đã có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, giảm được nhược điểm

của cơ chế quản lí PAYGO.
Từ sau 1997 BHXH Việt Nam thực sự có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
Đây là một hoạt động đóng vai trò vị trí thực sự quan trọng không những làm tăng
thu mà còn góp phần bảo toàn khả năng chi trả của quỹ BHXH. Tuy thu từ đầu tư
chưa cao song đảm bảo an toàn, không để xảy ra thất thoát, nó đã thể hiện sự đúng
đắn trong quản lí tài chính BHXH. Đặc biệt như điều kiện nước ta hiện nay chỉ số
giá tiêu dùng tương đối cao (tỉ lệ lạm phát cao) có thể dẫn tới việc Nhà nước phải
quy định lại mức lương tối thiểu. Như vậy nếu không có sự đầu tư bảo toàn và
tăng trưởng quỹ thì sự bù thiếu cho những chênh lệch khi nộp và khi hưởng là
không có. Hơn nữa, hoạt động đầu tư còn mang lại không những lợi ích về mặt
kinh tế mà cả về mặt xã hội. Các dự án đầu tư có thể mang đến việc làm cho nhiều
lao động thất nghiệp giảm gánh nặng cho xã hội . Việc đầu tư đã được thực hiện
theo đúng danh mục đầu tư, đúng hạn mức đầu tư và đảm bảo an toàn, tăng trưởng
quỹ BHXH góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho các chế độ.
2. Những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân.
2.1. Việc số người tham gia còn ít đặc biệt là tình trạng trốn tham gia, trốn đóng,
nợ đọng phí BHXH còn rất phổ biến.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×