Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế xuất nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.15 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
Trong cấu trúc hệ thống thuế của mỗi quốc gia, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có vai trò, ý
nghĩa thiết thực, không chỉ trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước (NSNN) hàng năm
mà quan trong hơn, nó còn là công cụ hữu hiệu trong tay Nhà nước để kiểm soát hoạt động nhập
khẩu hàng hóa với nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước và thực hiện các mục tiêu đối ngoại
của Chính phủ trong từng thời kỳ, đối với từng quốc gia hoặc từng nhóm quốc gia cụ thể. Tuy
vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu của tất cả các quốc gia nói chung cũng như của Việt nam nói riêng luôn chịu những tác
động không nhỏ, nhiều chiều ảnh hưởng tới việc thực thi luật này. Do đó đòi hỏi trước hết phải
có các biện pháp pháp lý hữu hiệu để nâng cao hiệu quả việc thực thi pháp luật thuế xuất nhập
khẩu.
NỘI DUNG
I.Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu
1.Khái niệm, vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.1.Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Theo quan niệm chung, thuế là khản tiền do các tổ chức, cá nhân nộp cho Nhà nước để góp
phần chia sẻ gánh nặng chi tiêu với Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Mặc dù xuất hiện muộn hơn so với một số sắc thuế nội địa nhưng thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu đã nhanh chóng khẳng định được vai trò, tác dụng to lớn của mình đối với nền kinh tế
quốc gia, đặc biệt là vai trò kiểm soát hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa với bên ngoài và bảo
hộ nền sản xuất trong nước.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tùy
thuôc vào giác độ tiếp cận.
Xét về phương diện kinh tế, thuế xuất nhập khẩu được quan niệm là khoản đóng góp bằng
tiền của các tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật khi có hành vi
xuất, nhập hàng hóa, dịch vụ qua biên giới một nước. Với cách tiếp cận này, thuế xuất nhập khẩu
được hiểu là một quan hệ phân phối các nguồn lực tài chính phát sinh giữa các chủ thể là tổ
chức, các nhân nộp thuế với người thu thuế là Nhà nước. Mặt khác, thuế xuất nhập khẩu còn có


thể được hiểu như là biện pháp kinh tế để Nhà nước điều tiết trực tiếp đối với quá trình sản xuất
tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia và chi phối một cách gián tiếp đối với hoạt động kinh tế
trên phạm vi khu vực và toàn cầu.
Xét về phương diện pháp lý, thuế xuất nhập khẩu có thể hình dung như là quan hệ pháp
luật phát sinh giữa người thu thuế là Nhà nước với người nộp thuế là tổ chức, cá nhân về việc tạo
lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý cho các bên trong quá trình thu thuế xuất, nhập
2
khẩu. Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lý là đạo luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu do Quốc hội ban hành làm phát sinh quyền thu thuế cho Nhà nước và nghĩa vụ đóng thuế
cho các cá nhân, tổ chức là người nộp thuế. Việc tiệp cận theo góc độ này có nhiều ý nghĩa thiết
thực, trước hết là giúp chúng ta nhận diện rõ hơn về bản chất của thuế xuất nhập khẩu, thực chất
là một quyết định hành chính đơn phương của quốc gia đối với người nộp thuế hay là một “thỏa
thuận” song phương giữa người thu thuế với người nộp thuế. Trên cơ sở đó, giúp cho Nhà nước
hoạch định và thực thi thuế xuất nhập khẩu phù hợp hơn với quyền lợi của quốc gia và người nộp
thuế.
1.2.Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Giống như bất kỳ loại thuế nào, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng thể hiện ba vai trò cơ
bản: Một là, tạo nguồn thu cho NSNN; hai là điều tiết hoạt đông kinh tế; ba là hướng dẫn tiêu
dùng trong xã hội.
Tuy nhiên xuất phát từ đặc trưng cơ bản của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là đánh vào
các hàng hóa xuất, nhập khẩu và sau đó được cầu thành trong giá cả của hàng hóa xuất, nhập
khẩu nên loại thuế này còn có một vai trò khá đặc thù, đó là bảo hộ nền sản xuất trong nước và
chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa ngoại
nhập.
2. Khái niệm, nội dung pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
2.1.Khái niệm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là danh từ pháp lý dùng để chỉ tập hợp các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình đăng lý, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lý
các vi phạm, tranh chấp về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, phát sinh giữa Nhà nước với người

nộp thuế.
Xét từ phương diện hình thức, pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm các
văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội, nghị định của Chính
phủ, Còn xét trên phương diện nội dung, pháp luật về thuế xuất nhập khẩu bao hàm các vấn đề
chủ yếu như phạm vi áp dụng (được thể hiện qua các quy định về chủ thể nộp thuế và đối tượng
chịu thuế, đối tượng không chịu thuế nhập khẩu); căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
trình tự, thủ tục thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; chế độ miễn giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu và hoàn thuế; xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp vê thuế nhập khẩu
Ngày nay, trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập quốc tế đang trở thành xu
hương mang tính toàn cầu thì việc hình thành, thực hiện các điều ước quốc tế có liên quan đến
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là điều tất yếu. Vì lẽ đó, hiện nay, nội hàm của khái niệm “pháp
luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu” phải hiểu theo nghĩa rộng , bao gồm các quy định trong
pháp luật quốc gia cũng như các quy định trong pháp luật quốc tế về thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu.
3
2.2.Nội dung pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Theo quy định tại Điều 4 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005, người nộp thuế là
cá nhân, tổ chức có hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế nhập khẩu theo quy định của
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Một cá nhân, tổ chức chỉ được xem là người nộp thuế nhập
khẩu khi chủ thể đó thỏa mãn 2 điều kiện: là người trực tiếp đứng tên làm thủ tục nhập khẩu
hàng hóa với nước ngoài; hàng hóa do chủ thể đó nhập khẩu với nước ngoài thuộc đối tượng
chịu thuế nhập khẩu theo quy định của pháp luật về nhập khẩu.
Chủ thể có thẩm quyền thu thuế nhập khẩu là nhà nước nhưng trên thực tế, thẩm quyền này
thường được thực hiện bởi nhiều cơ quan nhà nước khác nhau. Cơ quan có thẩm quyền tổ chức
việc thu thuế nhập khẩu là Tổng cục hải quan. Các cơ quan khác có trách nhiệm cùng phối hợp
với Tổng cục hải quan trong việc hành thu thuế nhập khẩu: Bộ tài chính, Kho bạc nhà nước,
Tổng cục thuế, Ủy ban nhân dân các cấp.
Các căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật về thuế nhập khẩu: Các quy phạm pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu; Các sự kiện pháp lý. Căn cứ tính thuế nhập
khẩu bao gồm: Trị giá hải quan; Thuế suất. Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam,

trình tự thủ tục hành thu thuế nhập khẩu bao gồm các bước sau: Kê khai thuế nhập khẩu; Kiểm
hóa, giám định hàng hóa, tính thuế và thông báo thuế; Nộp thuế và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế nhập khẩu.
Các hàng nhập khẩu qua lãnh thổ Việt Nam được xét miễn giảm thuế, hoàn thuế và truy thu
thuế nhập khẩu trong các trường hợp được quy định tại Điều 16, 17, 18 và Điều 19 Luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
II.Những yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu
1.Chủ trương, chính sách thương mại của Nhà nước:
Pháp luật thuế nhập khẩu nằm trong hệ thống các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế của
quốc gia nên khi hệ thống này có sự thay đổi thì bản thân pháp luật thuế nhập khẩu cũng có sự
thay đổi để phù hợp với toàn bộ hệ thống. Điều này thể hiện rõ nhất khi có sự thay đổi trong
chính sách kinh tế đối ngoại.
Xuất phát từ nhu cầu đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích chung của quốc gia và lợi ích riêng
của từng doanh nghiệp, từng cá nhân và từng hộ gia đình, chính sách thuế nhập khẩu trong từng
thời kỳ có thể sẽ được xây dựng và thực hiện theo hướng thiên về mục tiêu bảo hộ, mục tiêu tăng
thu ngân sách và mục tiêu hóa thương mại.
Chính sách thương mại gồm hai dạng điển hình là chính sách tự do hóa thương mại và
chính sánh bảo hộ mậu dịch. Hai xu hướng này tuy về mặt lý thuyết chúng trái ngược nhau
nhưng trên thực tế chúng lại tồn tại song song với nhau. Chính sách tự do hóa thương mại nhằm
thúc đẩy khả năng cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hóa trong nước và hàng hóa ngoại nhập thông
qua việc cắt giảm thuế nhập khẩu hoặc các biện pháp khuyến khích khác để thúc đẩy xuất khẩu;
xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế nhập khẩu để hàng hóa nước ngoài tràn vào nhằm mở rộng thị trường
nội địa, đặc biệt là hàng hóa nước mình sản xuất chi phí cao. Đây là quá trình giảm bớt sự can
4
thiệp mang tính chất bảo hộ của Nhà nước vào hoạt động thương mại, theo đó, vai trò của Nhà
nước chỉ nên giới hạn ở việc tạo ra môi trường phù hợp cho các quan hệ thương mại. Chính sách
bảo hộ mậu dịch lại bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài
bằng cách áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu. Pháp luật
thuế nhập khẩu có chức năng đặc thù là bảo hộ nền sản xuất trong nước, chống lại xu hướng
cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước với hàng hoa nước ngoài. Nhưng trong điều

kiện hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng trở thành xu hướng tất
yếu trên thế giới thì pháp luật thuế nhập khẩu cũng phải theo xu hướng giảm dần mức thuế suất.
Ví dụ: khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có những cam kết cụ thể vê thuế quan: Việt Nam
đồng ý ràng buộc mức thuế trần cho toàn bộ biểu thuế quan (gồm 10.600 dòng thuế). Trong đó,
Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chủ yếu là các dòng có thuế suất trên
20%), ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng và ràng buộc mức thuế trần (cao
hơn mức thuế suất hiện hành) với khoảng 3.700 dòng thuế. Mức thuế quan bình quân toàn bộ
biểu thuế được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống 13,4%, thực hiện dần trong vòng 5 - 7 năm
(trong đó, hàng nông sản giảm từ 23,5% xuống 20,9% và hàng công nghiệp giảm từ 16,8%
xuống 12,6%).
1
Như vậy, việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu luôn bị ảnh hưởng của chủ trương, chính
sách thương mại quốc tế của Nhà nước trong quá trình hội nhập. Khi chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước thay đổi thì pháp luật quy định về vấn đề này cũng sẽ thay đổi từ đó tác động
đến việc thực thi pháp luật về thuế nhập khẩu trên thực tế. Ngược lại, việc thực thi pháp luật thuế
nhập khẩu hiệu quả sẽ đảm bảo thực hiện đúng chính sách chủ trương của nhà nước đề ra.
2.Tình hình kinh tế, chính trị trong và ngoài nước:
Mỗi quốc gia cần phải nghiên cứu đánh giá những lợi thế so sánh trong từng ngành hàng cụ
thể để xác định những ngành hàng sản xuất nào cần được bảo hộ, mức độ bảo hộ và thời hạn bảo
hộ. Đối với hàng hóa có uy tín trên trường quốc tế có khả năng cạnh tranh cao thì không cần sự
bảo hộ mà lấy đó làm cơ sở cho việc đàm phán về thuế quan với các quốc gia khác Qua đó có
những cơ sở cho việc đàm phán thương mại là quy định mức thuế đối với từng nhóm hàng hóa
nhập khẩu trong pháp luật thuế nhập khẩu của mình.
Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người dân trong nước, thu nhập của người dân
trong nước càng cao, thì nhu cầu của hàng đối với hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu càng cao. Mặt
khác, mức độ khan hiếm của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cũng là một yếu tố đáng kể ảnh
hưởng tới hoạt động nhập khẩu.
Ví dụ: mặt hàng Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, đây là những mặt hàng công
nghệ cao, trong nước phần lớn chưa sản xuất được trong khi nhu cầu sử dụng những sản phẩm
này của người dân ngày càng nhiều do vậy kim ngạch nhập khẩu ngày càng tăng, cụ thể: Trong

tháng 1-2013, kim ngạch nhập khẩu đạt 1,47 tỷ USD, tăng 21,9% so với tháng trước. Khối các
1 Ngô Khánh Phương, Luận văn thạc sĩ ngành Luật Kinh tế: Pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt
Nam thực thi cam kết WTO
5
doanh nghiệp FDI nhập khẩu gần 1,31 tỷ USD, tăng 25,4% và khối các doanh nghiệp trong nước
nhập khẩu 167 triệu USD, tăng 0,6% so với tháng 12/2012.
2
3.Nhu cầu thu ngân sách của Nhà nước:
Thuế xuất, nhập khẩu là một khoản thu quan trọng của NSNN, mỗi năm, thuế này đóng
góp vào NSNN một khoản đáng kể. Mục tiêu chung của các quốc gia là sử dụng thuế nhập khẩu
để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Hiện nay, thuế nhập khẩu được sử dụng chủ yếu với ý nghĩa bảo vệ ngành sản xuất cụ thể
trong cạnh tranh với nhập khẩu. Tuy nhiên, đối với một số nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam thì thuế nhập khẩu vẫn là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Với các quốc gia
này, cắt thuế quan có thể ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn thu ngân sách và các vấn đề kinh tế vĩ
mô khác của Nhà nước. Do vậy, đây là lý do đòi hỏi các quốc gia phải nghiên cứu, đánh giá tác
động và thực hiện các biện pháp cần thiết để giảm tới mức tố đa những tác động không mong
muốn của xu hướng tư do hóa thương mại.
Đối với Nhà nước việc cắt giảm thuế quan nói chung, cắt giảm thuế nhập khẩu nói riêng
khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã gây ra những tác động đan xen, ngược chiều
nhau.
- Việc giảm thuế quan sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước. Do thuế nhập khẩu
giảm, mức cung hàng hóa nhập khẩu tăng sẽ tác động đến khả năng cạnh tranh của hàng cùng
một chủng loại trong nước. Mức cung của một số mặt hàng trong nước có thể sẽ vì thế mà phải
giảm đi do chi phí sản xuất cao hơn. Điều này dẫn tới quy mô và phạm vi kinh doanh của các
doanh nghiệp trong nước sẽ bị thu hẹp. Kết quả là khả năng thu thuế từ các doanh nghiệp này
cũng sẽ giảm đi tương ứng.
Việc cắt giảm thuế nhập khẩu cũng làm giảm đi một số các loại thuế khác có liên quan đến
nhập khẩu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt từ khâu nhập khẩu. Dựa vào công thức
tính thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt ta có thể thấy, khi thuế suất thuế nhập khẩu

giảm sẽ kéo theo thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt giảm khi các yếu tố khác thay đổi
không đáng kể hay không thay đổi. Như vậy, việc giảm thuế nhập khẩu vừa làm giảm nguồn thu
ngân sách nhà nước từ hàng hóa nhập khẩu nhưng đồng thời lại làm tăng nguồn thu tương ứng
cho ngân sách nhà nước từ các loại thuế khác.
-Khi hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ký kết và thực hiện các cam kết về thương mại
quốc tế trong đó có những cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu. Khi thuế nhập khẩu bị cắt giảm, giá
cả một số mặt hàng như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu nhập khẩu từ nước ngoài cũng tăng
theo. Từ đó, những sản phẩm sản xuất trong nước cũng tăng lên về sản lượng và giảm giá thành
sản phẩm. Việc hàng hóa trong nước tăng lên về số lượng và giảm giá thành sẽ thúc đẩy nhu cầu
mua sắm, tiêu dùng trong nước và làm tăng thu ngân sách nhà nước ở một số sắc thuế khác nhau
như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp. Đó là tác động căn bản và lợi ích trong dài
hạn. Mặt khác, khi Việt Nam thực hiện các cam kết thương mại quốc tế thì những nước thành
2 />6
viên khác cũng phải cắt giảm thuế quan. Điều này sẽ kích thích các doanh nghiệp trong nước
tăng lượng hàng xuất khẩu và từ đó sẽ tăng thu ngân sách từ các hoạt động xuất khẩu đó. Như
vậy, việc cát giảm thuế nhập khẩu sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xút kinh doanh trong nước và tăng
nguồn thu ngân sách Nhà nước.
- Hiện nay, Việt Nam đã kí kết và tham gia vào khoảng gần 90 Hiệp định thương mại song
phương và điều ước quốc tế đa phương với các nước, trong đó quan trọng nhất là Hiệp định
thương mại hàng hóa ASEAN (gọi tắt là ATIGA) có hiệu lực từ ngày 17 tháng 05 năm 2010 và
Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ. Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới thì việc thực
hiện các cam kết giảm thế và hướng tới “xóa bỏ” thuế nhập khẩu sẽ làm giảm khả năng thu ngân
sách nhà nước trong ngắn hạn nhưng trong dài hạn sẽ làm thay đổi cơ cấu nguồn thu ngân sách
nhà nước và tổng số thu thay đổi không đáng kể.
4 Các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật liên quan đến pháp
luật thuế nhập khẩu.
Các văn bản pháp luật chính là cơ sở để Nhà nước quản lý và điều chỉnh việc thực thi pháp
luật nói chung và pháp luật thuế nhập khẩu nói riêng. Pháp luật thuế nhập khẩu là những chuẩn
mực, thước đo, làm cơ sở cho các chủ thể có liên quan căn cứ vào đó để xử sự đúng yêu cầu của
Nhà nước và có lợi nhất. Hệ thống pháp luật về thuế càng đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng và có

chế tài công khai, tương xứng thì việc áp dụng luật thuế đó vào thực tế càng hiệu quả. Hệ thống
pháp luật thuế muốn đảm bảo nguyên tắc minh bạch yêu cầu các qui phạm pháp luật thuế phải rõ
ràng, giảm thiểu những qui định dẫn chiếu từ văn bản pháp luật này sang văn bản pháp luật khác
hoặc hạn chế dẫn chiếu những qui định chung. Yêu cầu về sự rõ ràng, đầy đủ được đặt ra ngay từ
quá trình soạn thảo, ban hành Luật thuế cho đến khi luật thuế đó đi vào đời sống.
Cùng với sự phát triển ngày càng lớn của các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thuế nhập
khẩu, các chủ thể có thẩm quyền đã ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ năm 1991,
được sửa đổi bổ sung năm 1993, năm 1998. Và mới đây nhất, có Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu năm 2005 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày
08/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Thông
tư số 59/2007/TT-BTC Hướng dẫn thi hành thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, quản lý thuế đối với
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu;…Các văn bản này chính là cơ sở vững chắc nhất để thực thi tốt
pháp luật thuế nhập khẩu. đồng thời là công cụ để Nhà nước quản lý hoạt động xuất nhập khẩu
của nước mình.
5. Xu hướng và trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế có ảnh hưởng quan trọng đến nội
dung chính sách thuế nhập khẩu của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn cụ thể.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Luật
thuế nhập khẩu là một trong hệ thống pháp luật quốc gia, nó là loại thuế phản ánh rõ nhất tiến
trình hội nhập của quốc gia đó nên khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu thì mỗi quốc
gia phải “nội luật hóa” các cam kết quốc tế về thuế nhập khẩu băng cách bổ sung, ban hành các
7
quy định mới về thuế nhập khẩu hoặc sửa đổi những quy định cũ về thuế nhập khẩu để phù hợp
với cam kết đó.
Năm 1998 Việt Nam đã có những thay đổi lớn trong chính sách thuế nhập khẩu (để thực
hiện cam kết giảm thuế quy định của AFTA); sau đó năm 2001 Việt Nam đã có những thay đổi
trong chính sách thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu đến từ Hoa Kỳ; và gần đây nhất là
những thay đổi trong chích sách thuế nhập khẩu nhằm thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan
theo Hiệp định WTO. Nhìn chung, hầu hết những thay đổi này đều được thể chế hóa thành các
quy định của pháp luật về thuế nhập khẩu nhằm đảm bảo tính khả thi và tính hiện thực cho các
chính sách đó trong thực tiễn.

Ví dụ: Để thực thi cam kết WTO, ngày 20/12/2007, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định
số 106/2007/QĐ-BTC kèm theo Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi (căn cứ Nghị
quyết số 295/2007/NQ-UBTVQH12 ngày 28 tháng 09 năm 2007) đã bãi bỏ Quyết định số
39/2006/QĐ-BTC (căn cứ Nghị quyết 977/2005). Biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu
đãi này được sửa đổi khá lớn so với Biểu thuế trước đây:
* Về mặt danh mục: Danh mục biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đã được thay đổi hoàn toàn theo
Danh mục hài hoà và mô tả hàng hoá của ASEAN (AHTN 2007) đến cấp độ 8 chữ số và được
chi tiết đến cấp độ 10 chữ số và tổng số dòng thuế trong Danh mục đã được thu gọn so với Danh
mục trước đây.
* Về mặt thuế suất: Hơn 1.700 dòng thuế đã được cắt giảm mức thuế. Các mức thuế nhập
khẩu ưu đãi tại các Quyết định sửa đổi đơn lẻ đã được cập nhật thống nhất. Riêng nhóm mặt
hàng thuộc diện giảm thuế suất để thực hiện bình ổn giá tiếp tục áp dụng mức thuế suất tạm thời
quy định tại Phụ lục I. Đồng thời, mặt hàng xe ô tô đã qua sử dụng, mã hàng và thuế suất thuế
nhập khẩu ưu đãi được quy định theo từng mức đối với từng loại xe (xe ô tô chở người từ 15 chỗ
ngồi trở xuống và từ 16 chỗ ngồi trở lên; các loại xe ô tô khác).
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải pham gia vào một số cam kết song
phương hoặc đa phương với các quốc gia khác liên quan tới vấn đề cắt giảm thuế quan và từng
bước dỡ bỏ các rào cản phi thuế quan đối với thương mại quốc tế. Trong những năm gần đây,
bằng cố gắng và nỗ lực của mình, Việt Nam đã tiến hành kí kết và tham gia hơn 80 hiệp định
thương mại song phương và điều ước quốc tế đa phương với các nước, trong đó quan trọng nhất
phải kể đến Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) và Hiệp định thương mại Việt
Nam- Hoa Kỳ. Những cam kết trong các điều ước quốc tế này rất có lợi cho các nước tham gia vì
các nước sẽ thống nhất cắt giảm thuế quan khi xuất khẩu hay nhập khẩu các loại hàng hóa nhất
định, khiến hàng hóa đó được bán với giá rẻ hơn trên thị trường.
Như vậy, những yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế và việc thực hiện các cam kết thương
mại quốc tế đã ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật thuế nhập khẩu.
6. Sự hiểu biết pháp luật và ý thức của chủ thể nộp thuế nhập khẩu
Nếu chỉ có hệ thống văn bản pháp luật đúng đắn, nhưng các đối tượng không tuân thủ hay
không tìm hiểu thì cũng dễ dàng dẫn đến việc pháp luật đó không thể thực thi hiệu quả trên thực
8

tế được. Do vậy, sự hiểu biết pháp luật và ý thức của chủ thể nộp thuế nhập khẩu là một yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến việc thực thi Luật thuế nhập khẩu. Bởi chỉ khi các đối tượng này hiểu
và nghiêm túc tuân thủ các quy định của pháp luật thuế nhập khẩu thì việc thực thi pháp luật thuế
nhập khẩu mới đạt hiệu quả cao nhất.
Hiện nay, các chủ thể nộp thuế cũng có những hành vi gian lận khi nộp thuế như: trốn thuế
(còn gọi là tình trạng buôn lậu qua biên giới); khai báo không trung thực giá tính thuế nhập khẩu
(các chủ thể nộp thuế thường không khai báo chính xác mà khai giá nhập khẩu thấp hơn); Khai
thấp về chất lượng hàng (thường khai chất lượng hàng thấp hơn so với thực tế nhằm trốn thuế
nhập khẩu); khai báo hàng không thanh toán, hàng hỗ trợ tiếp thị quảng cáo; đánh đồng tên hàng
nhưng chất lượng và phẩm cấp cao hơn; gian lận giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, khai sai
nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt
Nam cam kết giảm thuế; khai báo gian dối về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng
thuế suất thấp hơn; không kê khai trung thực thuế nhập khẩu…
Việc chủ thể nộp thuê có những hành vi trên nhằm trốn thuế hoặc giảm số thuế phải nộp sẽ
gây ảnh hưởng rất lớn đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu. Nguồn hàng hóa nhập khẩu
vào trong nước sẽ rất khó để kiểm soát được một cách chính xác, làm thất thu một khoản tiền
thuế lớn vào ngân sách nhà nước, phá vỡ thế cân bằng tiêu dùng trong nước, hàng hóa nội địa bị
chèn ép là những nguy cơ xảy ra do ý thức của chủ thể nộp thuế.
Ngoài những yếu tố trên, pháp luật thuế nhập khẩu còn phụ thuộc váo nhiều yếu tố khác
như ý chí chủ quan của nhà lập pháp, trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu.
III.Thực trạng thực thi pháp luật thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam và đề xuất ý kiến
pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế xuất, nhập khẩu
1.Thực trạng thực thi thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam
1.1.Thành tựu:
Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, Luật thuế xuát khẩu, thuế nhập khẩu đã và đang phát huy
được hiệu quả tích cực. Về tổng thể, những quy định của luật mới đã tạo ra một cơ sở pháp luật
thống nhất về thu thuế xuất nhập khẩu. Trên tinh thần hội nhập và hoàn thiện quy định của luật,
Luật thuế xuất khẩu. thuế nhập khẩu hiện hành tỏ ra minh bạch và hiệu quả hơn những luật thuế
trước đây. Đồng thời, thể hiện được đúng vai trò trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà

nước, điều tiết hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu và hướng dẫn tiêu dùng trong xã hội:
Thứ nhất, pháp luật thuế xuất nhập khẩu đã có những quy định phù hợp với luật hải quan,
kiểm tra hải quan. Và phù hợp với các nguyên tắc, góp phần hình thành nền tảng pháp lí quan
trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Luật thuế xuất, nhập khẩu đã tạo
nguồn thu quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước, tác động tích cực trong việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành sản xuất trong nước.
Thứ hai, việc thi hành pháp luật thuế xuất, nhập khẩu cho thấy, kết quả của việc mở rộng
hơn về đối tượng không chịu thuế và miễn thuế, phát huy tinh thần tích cực và chủ động của các
9
chủ thể nộp thuế, tạo môi trường bình đẳng cho các loại hàng nhập khẩu vào nước ta. Đặc biệt,
thuế nhập khẩu đã phát huy vai trò của mình trong việc bảo hộ một cách hiệu quả những mặt
hàng có thế mạnh sản xuất trong nền sản xuất nội địa như các sản phẩm từ sản xuất nông nghiệp
hay các ngành sản xuất còn non trẻ khác xét điều kiện trong nước còn chưa thể đáp ứng các tiêu
chuẩn kỹ thuật cũng như chất lượng so với các quốc gia khác trên thế giới như ngành sản xuất ô
tô…
Thứ ba, luật thuế xuất nhập khẩu đã thể hiện được đúng với ý chí của Nhà nước, là công cụ
hữu hiệu để Nhà nước quản lý hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia. Đồng thời Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thể có liên quan áp dụng để
thực thi pháp luật thuế xuất nhập khẩu hiệu quả.
1.2.Hạn chế:
Bên cạnh các thành tựu đạt được, luật thuế nhập khẩu cũng còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế
trong quá trình thực thi:
Một là, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chưa đồng bộ, nội dung chưa bao quát hết các
đối tượng và nguồn thu. Biểu thuế suất của Việt Nam phức tạp, bao gồm hàng chục nghìn dòng
thuế, nhiều nhóm hàng, mặt hàng có nhiều mức thuế suất khác nhau, giữa các mức thuế lại có sự
chênh lệch rất lớn vừa không phù hợp với xu thế hội nhập, vừa tạo kẽ hở để đối tượng nộp thuế
lợi dụng trốn thuế. Chẳng hạn, cùng một loại hàng hóa nhưng lúc nhập khẩu chỉ cần khai báo sai
lệch đặc tính của chúng là có thể được hưởng mức thuế suất có lợi hơn hoặc chỉ cần khai đặc tính
của loại hàng hóa có thuế suất thấp, nhưng sau khi nhập khẩu sẽ cải tạo, thay đổi kết cấu thành
loại hàng hóa có trị giá thương mại cao hơn.

Hai là, hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ, còn nhiều qui định chồng chéo chưa thống
nhất, gây nhiều khó khăn trong việc áp dụng. Chẳng hạn như: Theo qui định tại điều 15 Luật
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu về thời hạn nộp thuế đã qui định rõ thời hạn nộp thuế. Tuy nhiên
theo điều 28 khoản 1 Luật Hải quan sửa đổi bổ sung thì qui định về kiểm tra, đăng kí hồ sơ lại
lấy tiêu chuẩn chấp hành tốt pháp luật hải quan. Ngoài ra không có sự thống nhất giữa qui định
của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và luật quản lí thuế về tỉ lệ số tiền nộp phạt đối với
trường hợp nộp chậm tiền thuế. Cụ thể theo điều 23 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì tỉ lệ
này là 0.1% còn theo điều 106 Luật Quản lí thuế là 0.05%.
Ba là, trong thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam chịu rất nhiều thiệt thòi trong các vụ
kiện chống bán phá giá ở nước ngoài và cũng chịu những bất lợi lớn khi các doanh nghiệp nước
ngoài bán phá giá trên thị trường Việt Nam. Để đối phó với tình trạng này, pháp luật về thuế
nhập khẩu đã có những qui định về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân
biệt đối xử. Mặc dù chúng ta đã có 2 pháp lệnh về chống trợ cấp và pháp lệnh về chống bán phá
giá nhưng những qui định này vẫn chưa phát huy tác dụng trên thực tế, hầu như không được áp
dụng. Lí do những văn bản chưa qui định cụ thể, một số qui định còn chưa phù hợp và Việt Nam
vẫn chưa được các thành viên WTO công nhận là một nước có nền kinh tế thị trường. Do vậy
10
quá trình áp dụng những qui định này cũng khá khó khăn nhất là trong quá trình bảo hộ hợp lý
các ngành sản xất trong nước.
Bốn là, với sự ra đời của Luật Quản lí thuế 2006 đã ghi nhận một cách cụ thể trình tự thủ
tục về kê khai thuế nhập khẩu, nộp thuế nhập khẩu, truy thu thuế nhập khẩu, hoàn thuế…Vì vậy
những qui định trong luật thuế nhập khẩu về những thủ tục này trở nên không cần thiết nữa thậm
chí còn gây ra sự chồng chéo, không đồng nhất.
Năm là, áp dụng sai mức thuế nhập khẩu do loại thuế này có nhiều biểu thuế suất khác
nhau và thường xuyên thay đổi, nên cơ quan thuế rất dễ mắc sai lầm và còn có chậm trễ trong
việc thực hiện các ưu đãi thuế nhập khẩu. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp, những hồ sơ đề
nghị miễn thuế, giảm thuế hoặc hoàn thuế nhập khẩu bị cơ quan thuế xử lý một cách chậm trễ.
Đôi khi, công chức quản lý thuế còn đòi hỏi những điều kiện về giấy tờ, hồ sơ, sổ sách vượt ra
ngoài những yêu cầu của pháp luật đã cản trở chủ thể nộp thuế nhập khẩu thực hiện quyền của
mình một cách hợp pháp, làm giảm hiệu ứng, mục đích tốt của chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu

2.Đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật xuất nhập khẩu:
Với những bất cập như trên, pháp luật thuế xuất nhập khẩu cần phải có những thay đổi
nhất định để thực sự có hiệu quả hơn trong quá trình thực hiện. Những thay đổi này một mặt phải
đảm bảo hợp lý, thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu,
mặt khác phải phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Do vậy, để góp phần
thực thi có hiệu quả pháp luật thuế xuất nhập khẩu sau đây em xin đề xuất một số ý kiến pháp lý:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế xuất nhập khẩu một cách đồng
bộ và khoa học ở nước ta:
Tiếp tục hoàn chỉnh dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu
và các văn bản hướng dẫn khác;
Hệ thống hóa pháp luật theo lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu; phân tích, so sánh đối
chiếu với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, loại bỏ những văn bản đã hết hiệu lực,
bãi bỏ các văn bản còn mâu thuẫn, chồng chéo; xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu;
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để nội luật hóa các điều ước quốc tế, thực hiện cam
kết quốc tế của Việt Nam về thuế quan theo lộ trình cam kết của WTO, ATIGA, Mặt khác cần
tăng cường thông tin về chính sách cắt giảm thuế quan theo lộ trình thực hiện cam kết; ban hành
các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ trong các lĩnh vực xác định giá trị hải quan theo các nguyên
tắc của Hiệp định GATT, ATIGA.
Thứ hai, mở rộng tính có trách nhiệm và chịu trách nhiệm của Nhà nước đối với pháp luật
thuế xuất nhập khẩu. Với cơ chế tự khai, tự nộp thuế, cơ quan quản lý thuế xuất nhập khẩu nói
riêng và nhà nước nói chung sẽ dành nhiều thời gian hơn để thực hiện công tác giám sát thông
qua hoạt động thanh tra và kiểm tra thuế xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, để hoạt động kiểm tra thuế
được thực hiện hiệu quả, cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ chấp hành pháp luật
thuế xuất nhập khẩu của doanh nghiệp để việc kiểm tra được thuận lợi hơn. Hệ thống chỉ tiêu
11
đánh giá sẽ giúp cơ quan quản lý thuế phân loại các chủ thể nộp thuế, từ đó, tập trung nhiều hơn
đối với những chủ thể có mức độ chấp hành pháp luật thấp để giám sát. Với một hệ thống chỉ
tiêu đánh giá hợp lý, chắc chắn công tác kiểm tra, giám sát sẽ được thực hiện hiệu quả hơn.
Thứ ba, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý điều hành công tác thuế xuất khẩu, nhập

khẩu: Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ quản lý nhà nước, trình độ chuyên môn bằng cách:
cập nhật kiến thức pháp luật, hiểu đúng và đầy đủ hệ thống các văn bản quy phạm có liên quan,
nắm vững các thông lệ thương mại quốc tế đặc biệt là cam kết của Việt Nam về thuế xuất nhập
khẩu; Chú trọng khâu tuyển dụng đối với đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực quản lý, điều
hành thuế xuất khẩu, nhập khẩu nhằm mục đích thu hút được những cán bộ có trình độ chuyên
môn, có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt; Tập trung đầu tư hệ thống trang thiết bị, phương
tiện làm việc đáp ứng được với nhu cầu giải quyết công việc, đảm bảo việc cập nhật thông tin,
kiến thức, tin học hóa công tác quản lý nhà nước
Thứ tư, nâng cao ý thức pháp luật cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu. Cụ
thể là: Tăng cường thông tin cho doanh nghiệp về chính sách, pháp luật, đặc biệt trong các lĩnh
vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, lộ trình cắt giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế của
Việt Nam; tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đi
kèm với các biện pháp xử lý nghiêm khắc và kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về xuất
khẩu, nhập khẩu.
Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật thuế cần đa dạng, phù hợp với những đối tượng
khác nhau và tránh hình thức. Có thể sử dụng nhiều kênh thông tin hiệu quả như truyền hình, báo
viết và đặc biệt là internet để thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật thuế. Cơ quan quản lý
thuế xuất nhập khẩu có thể thiết kế đường dây nóng để tư vấn trực tiếp cho chủ thể nộp thuế để
họ thực hiện nghĩa vụ thuế được nhanh chóng, thuận lợi hơn.
KẾT BÀI
Thực tiễn cho thấy không thể phủ nhận vai trò to lớn của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
đối với NSNN, hiện tại và trong tương lai gần, đây vẫn là một trong những nguồn thu tương đối
ổn định và đem lại giá trị lớn. Tuy vậy, do nhiều yếu tố khác nhau, việc thực hiện pháp luật về
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chưa đạt được hiệu quả cao cũng như bộc lỗ những bất cập nhất
định cần cải thiện. Do vậy, trước mắt cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế xuất nhập
khẩu, mặt khác đẩy mạnh công tác quản lý cũng như có các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về vấn đề này để việc thực thi đạt hiệu quả cao, tránh thất
thu cho ngân sách nhà nước.
12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội năm 2010;
2. Kiều Dương, Luận văn Thạc sỹ-Pháp luật Việt Nam về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội năm 2005;
3. Ngô Khánh Phương, Luận văn thạc sĩ ngành Luật Kinh tế: Pháp luật thuế xuất nhập khẩu
trong điều kiện Việt Nam thực thi cam kết WTO;
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội năm 2012;
5. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005
6. Websites:
/>2013.aspx
13
14

×