Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương và vận dụng với lạm phát ở Việt Nam - 6 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.71 KB, 9 trang )

Nếu kiểm soát được lạm phát, thâm hụt ngân sách không đáng kể, thì khối lượng cung
ứng tiền tệ phụ thuộc vào tổng cầu tiền tệ (mức đầu tư), mức tiết kiệm quốc nội.
NHTƯ phải xác định được khối lượng tiền phải cung ứng cho mỗi thời kỳ để từ đó sử
dụng công cụ như lãi suất chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết khối lượng
tiền tệ lưu thông.
Vậy trong trường hợp chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát, chính sách tài chính
nhằm duy trì ngân sách cân bằng có thể tác dụng ngược với chính sách tiền tệ qua việc
có thể làm vật giá. Trái lại, trong trường hợp chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái,
chính sách tài chính nhằm duy trì ngân sách cân bằng có thể có tác dụng chống suy
thoái một phần nào qua việc làm tăng sức tiêu thụ.
Dẫu sao tác dụng của một ngân sách cân bằng không mạnh mẽ lắm so với tác dụng của
một ngân sách không cân bằng.
Ngân sách không cân bằng có thể là ngân sách thiếu hụt, có thể là ngân sách thặng dư.
2. Trường hợp ngân sách thiếu hụt.
Đây là trường hợp thu của ngân sách không đủ bù chi. Sai biệt giữa chi và thu tác động
khác nhau đến nền kinh tế, tuỳ theo cách tài trợ số sai biệt đó. Các nước trên thế giới
đã dùng 4 cách sau đây để tài trợ thiếu hụt ngân sách: vay ở dân cư, vay ở hệ thống tín
dụng và thị trường trong nước, vay ở NHTƯ và vay ở nước ngoài.
Theo phúc trình về phát triển kinh tế thế giới năm 1989 của ngân hàng thế giới, cuộc
nghiên cứu hai nhóm nước (nhóm 24 nước đang phát triển và nhóm 11 nước có thu
nhập cao) từ năm 1975 đến năm 1985, cho thấy sự khác biệt rất lớn giữa các cách tài
trợ sai biệt chi - thu ngân sách: ở nhóm nước đang phát triển: 46,7% số sai biệt đó
được tài trợ bằng cách vay ở NHTƯ, 38,3% vay của nước ngoài, 8,3% vay của dân cư
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
và 6,7% vay ở NHTƯ, 9,7% vay của nước ngoài, 56% vay của dân cư và 22,7% vay
của ngân hàng.
Về phương diện tác động trên khối tiền tệ, vay của NHTƯ và vay của nước ngoài (nếu
vay bằng ngoại tệ) có tác dụng làm tăng khối tiền tệ mạnh hơn vay của dân cư và vay
của ngân hàng trong nước. Đó là một trong những lý do làm áp lực lạm phát tại các
nước đang phát triển tăng mạnh hơn so với áp lực tại các nước có thu nhập cao. Tỷ lệ
lạm phát trung bình ở nhóm nước đang phát triển đã tăng từ 10% một năm trung bình


của những năm 1965 - 1973 lên 26% trung bình những năm 1974 - 1982 và 51% trung
bình những năm 1983 - 1985. Tỷ lệ lạm phát trung bình ở nhóm nước có thu nhập cao
cũng tăng trong thập niên 1970 nhưng đã được duy trì ở mức độ thấp hơn 5% một năm
trong thập niên 1980.
Những nước đang phát triển với mức độ lạm phát hai con số và ba con số đã tăng lên
nhiều từ năm 1983 đến 198 Ở đó con số thống kê cho thấy rõ sự liên hệ hỗ trợ giữa
thiếu nợ nước ngoài, thiếu hụt ngân sách và lạm phát. Nhiều biện pháp tài trợ thiếu hụt
ngân sách là cách tác động mạnh nhất trên áp lực lạm phát.
Ở nước ta tuy không có thống kê chính xác, nhưng biện pháp tài trợ thiếu hụt ngân
sách chủ yếu dựa vào việc vay của ngân hàng Nhà nước (NHTƯ) và vay của nước
ngoài. Trong những năm gần đây, số lượng vay của nước ngoài có chiều hướng giảm,
nhưng số lượng vay của ngân hàng Nhà nước vẫn còn tăng.
Chính sách tài chính lành mạnh đòi hỏi phải chuyển đổi việc tài trợ thâm hụt ngân sách
bằng cách phát hành tiền (vay của ngân hàng Nhà nước) qua việc phát hành trái phiếu
(vay của nhân dân hoặc của ngân hàng thương mại)
3. Trường hợp ngân sách thặng dư:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trường hợp này được nêu ra để cho đầy đủ mà không phân tách, vì trường hợp thặng
dư là rất hi hữu.
Chánh sách tiền tệ và phương thức vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ có liên
quan đến niều chính sách kinh tế và có những hạn chế nhất định của nó. Muốn đạt
được các mục tiêu mong muốn của chính sách tiền tệ, cần phải phối hợp nhiều chính
sách kinh tế, đặc biệt là với chính sách tài chính quốc gia.
3.Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương thông qua chính sách tiền tệ
Ở mỗi quốc gia, NHTW là cơ quan đầu não của toàn bộ hệ thống ngân hàng trung
ương được sinh ra để phục vụ cho công cuộc củng cố và phát triển hệ thống kinh tế xã
hội của đất nước, các chính sách của nó đều hướng về việc điều tiết kinh tế để đạt các
mục tiêu đã định. Ngân hàng Trung ương nắm trong tay quyền quyết định về cung ứng
tiền, dự trữ, lãi xuất chiết khấu, và ở nhiều nước còn nắm cả việc áp đătû lãi suất tại
các ngân hàng trung gian, tỷ giá hối đoái và kiểm soát tín dụng. Quyền hạn này rất

rộng, và do vậy mọi hoạt động của Ngân hàng trung ương đều ảnh hưởng mật thiết
đến mức "Cung ứng tiền " (money supply) trong nền kinh tế, ảnh hưởng sâu sắc đến
nền kinh tế quốc gia. Từ đó , có thể thấy rằng, bất cứ hành vi nào về thay đổi cung ứng
tiền của Ngân hàng Trung ương đều có mục tiêu của nó. Định lượng được cung ứng
tiền là đã xác định được phương hướng chính sach của Ngân hàng Trung ương.
Logic quan hệ trên đã làm co ngân hàng Trung ương từ sau Thế chiến thứ II và đặc
biệt là từ cuối thạp niên 60 trở đi biến thành một thiết chế rất quan trọng trong việc tạo
ra những tác động có chủ đích nhằm định hướngvà điều tiết nền kinh tế. Nhưng mãi
đến những năm 80 điều này mới được nhìn nhận chính thưc ở hầu hết các nước trên
thế giới. Ngân hàng trung ương được xácđịnh là một định chế công cộng trong quản lý
và điều hành lưu thông tiền tệ với nhiệm vụ chủ yếu về mặt ngắn hạn là ổn định giá cả
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
và tổng cầu, về mặt trung gian là góp phần ảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng thực tế
với giá cả, lạm phát thấp một cách ổn định và bền vững. Ngày ny người ta gọi đó
là"vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô " của ngân hàng Trung ương. Đối với Ngân hàng
Trung ương, điều tiết kinh tế có nghĩa là "điều tiết cung ứng tiền " (money supply
regulation). Bởi vì khối lượng cung ứng tiền vào mỗi thời kỳ tác động mộtcách cực kỳ
quan trọngm, toàn diện đến sản xuất, trao ổi và thu nhập trong nền kinh tế.
Để điều tiết cung ứng tiền, tác độgn đến lãi suất, dự trữ và tỷ giá Ngân hàng Trung
ương thiết kế chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ được thiết kế và khởi động từ Ngân
hàng Trung ương lan ra đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động dây
chuyền của hệ thống ngân hàng trung gian và các tổ chức tài chính trong nước. Tất cả
các Ngân hàng Trung ương của các quốc giá trên thế giới đều có những mục tiêu khá
giống nhau trong việc thiết kế chính sách tiền tệ và điều tiết cung ứng tiền. Trên đại
thể. Mục tiêu của chích sách tiền tệ và điều tiết của Ngân hàng Trung ương có thể qui
về các nhóm sau đây:
a. Phục vụ cho mục đích bảo đảm nền kinh tế có tăng trưởng thực tế.
Tăng trưởng kinh tế thực tế (real economic growth) là phần tăng trưởng có được lớn
hơn không (>0) sau khí lấy phần tăng trưởng danh nghĩa trừ đi phần tăng giá trogn
tăng trưởng, đồng nghĩa với việc giải quyết các mục tiêu kinh tế khác với các chính

sách tiền tệ như giảm thất nghiệp, gia tăng thu nhập quốc dân và mở rộng tiềm năng
sản xuất, chống suy thoái
b. Hướng về ổn định giá cả
Giá cả có tỷ lệ lạm phát thấp là mục tiêu của mọi nền kinh tế. Giá cả có tỷ lệ lạm phát
thấp sẽ đồng thời làm cho lãi xuất thực tế dương và và lãi suất danh nghĩa (nominal
interest rates) sẽ thấp hơn. Sản xuất sẽ có vốn với chi phí hạ về mặt dài hạn và do ó
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nền kinh tế sẽ có sức bật đầu tư về lâu dài. Khi giá cả có tỷ lệ lạm phát thấp, hiện
tượng đầu cơ sẽ biến mất, giá trị đồng tiền nội địa sẽ được ổn định. Tăng trưởng nhanh
với giá cả ổn định(hight economic growth with stable prices) luôn luôn là phương tiện
của mọi chính sách tiền tệ, của việc cung ứng tiền. Ôøn định giá cả, vì thế là một trong
những mục tiêu quan trọng nhất của chính sách tiền tệ.
c. Tạo cho nền kinh tế có một nền tảng tài chính ổn định:
Để hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng có thể hoạt động có hiệu quả và hỗ trợ một
cách tốt nhất cho tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp, cũng như hạn chế những
khuyết tật của hệ thống tài chính, điều hoà hoạt động của hoạt động tài chính trong
nước một cách gián tiếp phù hợp với các mục tiêu kinh tế của nền kinh tế. Bản thân hệ
thống tài chính có những mục tiêu riêng, và nhiều khi mục tiêu này đối nghịch với
mục tiêu chung của nền kinh tế. Vai trò của chính sách tiền tệ là làm hài hoà một cách
tối ưu giữa các mục tiêu nói trên.
d. Góp phần liên tục mở rộng sản lượng tiềm năng. Của nền kinh tế quốc gia, nghĩa là
góp phần khai thác và phát triển các nguồn lực (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nguồn
nhân lực, tiềm năng khoa học kỹ thuật và vốn) một cách hiệu quả nhất.
PHẦN B SỰ VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
Xem xét hoạt động của NHTƯ và sự chỉ đạo chính sách tiền tệ của nó tác động đến
việc tăng giảm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, các biến chuyển của lượng tiền
cung ứng tác động đến biến chuyển của nền kinh tế. Và do đó ảnh hưởng đến đời sống
của mỗi chúng ta. Điều đó nói lên tầm quan trọng của chính sách tiền tệ.
Ngân hàng thương mại đề ra sáu mục tiêu cơ bản cho chính sách tiền tệ của mình:

Việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
tài chính và ổn định thị trường ngoại hối. Như vậy chính sách tiền tệ là một chính sách
điều khiển vĩ mô của nền kinh tế. Căn cứ vào những mục tiêu này ngân hàng trung
ương lựa chọn các công cụ can thiệp cần thiết tuỳ từng giai đoạn mà lựa chọn mục tiêu
chính cho mình.
Từ năm 1986 - 1988 trong giai đoạn này nền kinh tế đang ở trạng thái bất ổn định, lạm
phát đạt kỷ lục 3 con số: (siêu lạm phát) làm cho giá trị của đồng tiền giảm sút nghiêm
trọng vì vậy mục tiêu trực tiếp là đem lại giá trị thực của đồng tiền Việt Nam.
Từ năm 1989 - 1991 : trong giai đoạn này tình trạng lạm phát của nền kinh tế đã giảm
nhưng vẫn còn ở mức cao vì vậy mục tiêu chung là giảm thất lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô.
Giai đoạn 1992 - 1995: nền kinh tế đã đi vào chế độ ổn định, lạm phát giảm còn 66%,
vì vậy mục tiêu của nền kinh tế là ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm đến chính sách tiền
tệ và giữ lạm phát ở mức thấp.
Giai đoạn 1996 - 2000: chính sách kinh tế của đất nước chuyển sang mục tiêu tăng
trưởng kinh tế cao. Do đó mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định kinh tế vĩ mô và
đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế.
Giai đoạn 2001 - 2004 để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao là rất quan trọng
song ổn định tiền tệ lại là mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.

2. Các giai đoạn thực hiện :
a/ giai đoạn 1986-1988 :
Đây là giai đoạn đặc trưng của bền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,tổng cầu luôn
vựơt tổng cung .Do đó tình trạng hàng hoá bị khang hiếm đến mức nghiêm trọng .
Đồng thời do thiếu hụt ngân sách nhà nước đã bành trướng phát hành tiền .Vì vậy nền
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
kinh tế luôn ở trạng thái bất ổn định ,lạm phát đạt kỷ lục ba con số ,tức siêu lạm phát
.Trong vòng xoáy bất ổn định ,lạm phát càng gia tăng thì lòng tin vào đồng tiền ngày
càng giảm sút .Xuất phát từ yêu cầu cấp bách của nền kinh tế trong giai đoạn khủng

hoảng này ,việc chống lạm phát được coi là nhiệm vụ trung tâm.Tại thời điểm gay cấn
đó ,hai thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ : đưa tỷ giá hối đoái lên ngang mức giá thị
trường và thi hành chế độ lãi suất thực dương đã tạo thành xung lực mạnh nhất để đảo
ngược tình hình .Với mục tiêu trực tiếp là đêm lại giá trị thực cho đồng tiền Việt Nam
,trên cả hai phương diện tỷ giá hối đoái và lãi suất ,hai mũi neo của nền kinh tế đã góp
phần đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng ,khôi phục lòng tin của nhân dân đối với đồng
tiền .Từ đó quan hệ thị trường được hình thành , đặt ra cơ sở vững chắt để biến tư
tưởng đổi mới thành xu hướng thực tiễn không thể đảo ngược .
b/giai đoạn 1989-1991 :
Các chính sách kinh tế mới đã có ý nghĩa cắt được cơn sốt lạm phát cao.Nhưng
lạm phát cao trên 66% năm 1990-1991 là không thể tránh khỏi vì nguồn lực trong nền
kinh tế đang ở quá trình chuyển đổi thích nghi hướng theo hệ thống kinh tế thị trường
.Thực trạng trong giai đoạn này là lãi suất cho vay ở mức thấp ,lãi suất tiền gởi lại
càng thấp hơn ,mang nặng tính bao cấp vì vậy cần phải điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Đi đôi với các biện pháp thắt chặt chi tiêu tài chính ,tiết kiệm chi và giảm bội
chi ,việc tăng cường động viên tài chính nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng
trưỡng kinh tế cũng được quan tâm thích đáng . Đặc biệt cải cách chính sách thuế đã
tăng tỷ lệ động viên thu nhập quốc dân trong nước .Việc cải cách hệ thống thuế, áp
dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất cả các thành phần kinh tế từ năm 1990 đã
có tác dụng tích cực trong vi ệc mở rộng và tập trung kịp thời các nguồn thu cho ngân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
sách nhà nước .S ố thu trong nước năm 1991 so v ới năm 1990 t ăng 32,4% .Trong giai
đo ạn này áp dụng công cụ lãi suất (theo nghị định 43CP vào th áng 3 năm 1998.)
C/ giai đoạn 1992-1995:
Sự ổn định kinh tế đã đi vào chế độ dừng .chỉ số hàng và dịch vụ đã dao động
xung quanh 12% năm nhưng chưa có khả năng kiểm soát lạm phát theo dự đoán mong
muốn. Nhân tố quyết định trạng thái ổn định này là nhà nước qua kinh nghiệm điều
hành đã nhận thức được rõ nét tác động của cung ứng tiền tệ lên lạm phát .Vì vậy việc
cung ứng tiền cho bội chi ngân sách đã chấm dứt .Cải cách thuế đã thay đổi cơ bản thu
chi ngân sách nhà nước .Các chính sách kinh tế theo hướng thị trường đưa đến nhịp độ

tăng trưởng kinh tế cao đã làm cân bằng tổng cung và tổng cầu về hàng hoá .Việc điều
hành quản lý kinh tế vĩ mô tuy vậy vẫn ở dạng thô .Do vậy nền kinh tế vẫn không
tránh được dao động về lạm phát ,năm 1993 lạm phát dự kiến ở mức 10-13%,thực tế là
5,3%.Bởi vì giữa năm 1993 hàng hoá Trung Quốc tràn sang với giá rẻ . Đồng thời do
bản thân nền kinh tế Việt Nam đang giảm phát đ ến n ă m 1994 th ì t ỷ l ệ l ạm phát
tăng tới 14,4%.
Nói về nguồn thu ngân sách nhà nước,số thu ngân sách tiếp tục tăng , trong
những năm qua mặc dù số thu thuế ngày một tăng nhanh nhưng kinh tế vẫn đạt tốc độ
tăng trưởng tương đối khá ,nguồn thu ngân sách trong những năm qua không những
đáp ứng được yêu cầu chi tiêu thường xuyên mà còn dành ra một phần tích luỹ để chi
đầu tư phát triển và để trả nợ .Kết quả là từ năm 1992-1994 nhà nước không còn phát
hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước .
Trong giai đoạn này có nhiều yếu tố quyết định chiều hướng thuận lợi cho
chính sách tiền tệ .Chính phủ luôn chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô ,quan tâm đến
chính sách tiền tệ , đó là các ngân hàng ngoài quy định của ngân hàng nhà nước cho
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
vay với các doanh nghiệp với lãi suất từ 1,8 đến 2,1%tháng thì còn sử dụng chính sách
cho vay theo lãi suất thoả thuận với lãi suất từ 3 đến 3,5%/tháng và giữ lạm phát ở
mức thấp .Pháp lệnh ngân hàng nhà nước ,pháp lệnh ngân hàng thương mại và hợp tác
xã tín dụng đã quy định cơ sở cho việc thành lập hệ thống ngân hàng hai cấp .Ngân
hàng nhà nước đã tập trung vào điều hành chính sách tiền tệ ,chú ý đến cung tiền tệ và
thực hiện chính sách lãi suất thực dương . Từ đó quản lý và tạo môi trường cho các
ngân hàng thương mại quốc doanh , các ngân hàng thương mại cổ phần ,ngân hàng
liên doanh và các tổ chức tín dụng khác hoạt động có lãi theo cơ chế thị trường .
Bên cạnh đó nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và được sự trợ giúp kỹ
thuật của các tổ chức tài chính .Cán cân thanh toán có chiều hướng thuận lợi .
C/giai đoạn 1996-2002 :
Chính sách tiền tệ luôn là công cụ để đạt được các mục tiêu kinh t ế .Do đó nó
phải hướng chiều hướng phát triển của nền kinh t ế giai đoạn 1996-2000.
Khác với giai đoạn 1991-1995 giai đoạn 1996-2000 nền kinh tế bước sang một

trang mới: chính sách kinh tế của đất nước đã chuyển sang mục tiêu tăng trưởng kinh
tế cao .Do đó mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm sự
tăng trưởng cao của nền kinh tế.
Mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô bao hàm nghĩa rộng hơn nhiều so với mục tiêu
kiểm soát lạm phát . Ổn định kinh tế vĩ mô nghĩa là tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức
đồng đều trong các năm đạt gần tới tiềm năng của nền kinh tế ,tỷ lệ lạm phát không
dao động quá mạnh ,cán cân thanh toán quốc tế cân bằng và không có sự giao động
lớn của các biến số trên qua các năm . Ở giai đoạn này lạm phát cố gắng giữ ở mức
10% năm .
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×