Mở bài
Trong nền kinh tế, hệ thống ngân hàng của một đất nước đóng vai trò hết sức quan trọng,
như kiểm soát và điều tiết mức cung tiền cũng như các vấn đề liên quan đến tiền tệ, quản
lý hoạt động của các ngân hàng trung gian, thực hiện nhiều nhiệm vụ của chính phủ, và để
thực hiện được vai trò này, ngân hàng trung ương vận dụng các công cụ của chính sách
tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là một chính sách vĩ mô. Nó tạo ra những tác động nhằm định hướng và
điều tiết nền kinh tế. Vì vậy để có một nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao và ổn định thì
ngân hàng trung ương cần phải xem xét vận dụng những công cụ gì của chính sách tiền tệ
cho thích hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, sau chiến tranh nền kinh tế bị suy sụp nghiêm trọng và từ những năm 1987
nền kinh tế đất nước rơi vào lạm phát cao ba con số làm cho lòng tin của nhân dân vào
chính phủ ngày càng giảm sút. Nhưng do sự vận dụng đúng đắn của chính sách tiền tệ, đã
làm cho lạm phát giảm thấp từng bước ổn định và đưa nền kinh tế đến tăng trưởng.
Cũng chính vì tầm quan trọng này mà trong đề tài này em xin đề cập đến những chính
sách tiền tệ của ngân hàng trung ương và sự vận vụng của nó ở Việt Nam. Nhưng do sự
hiểu biết của em còn hạn hẹp nên mong được sự góp ý chỉ bảo thêm từ thầy cô.
PHẦN A
CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
I. KHÁI NIỆM VÀ MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TÊ:
1. Chính sách tiền tệ là gì?
Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước. Nó là công
cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ do ngân hàng trung ương khởi thảo
và thực hiện với mục tiêu cao nhất là ổn định giá trị đồng tiền để từ đó ổn định và tăng
trưởng kinh tế.
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
Bất cứ chính sách nào đều có mục tiêu của nó. Vì chính sách tiền tệ là hoạt động có ý thức
của NHTƯ, cho nên những tác động của nó đến nền kinh tế phải được hiểu là nằm trong hệ
thống các mục đích mà NHTƯ cần đạt được. Tất cả các NHTƯ của các nước trên thế giới
hiện nay đều có những mục tiêu khá giống nhau trong việc xây dựng chính sách tiền tệ và
điều tiết cung ứng tiền. Trên đại thể, mục tiêu của chính sách tiền tệ có thể quy về hai
nhóm sau: Mục tiêu tiền tệ và mục tiêu kinh tế.
a. Mục tiêu tiền tệ:
Về phương diện tiền tệ, có 4 mục tiêu mà chính sách tiền tệ mong muốn đạt tới: điều hoà
khối tiền tệ, kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền, bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền
bằng cách ổn định vật giá và ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền.
a.1. Điều hoà khối tiền tệ:
Đó là nhằm duy trì mối tương quan tiền - hàng được ổn định bằng cách giữ nguyên, tăng
hay giảm khối tiền tệ. Có một nguyên tắc tổng quát: nếu mỗi năm kinh tế đều tăng trưởng,
thì phải tăng khối tiền tệ bằng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Nguyên tắc này khắc chế xu hướng
ấn định khối tiền tệ cứng nhắc một lần cho khoảng thời gian dài. Một khối tiền tệ ấn định
trước một cách chặt chẽ sẽ có tác dụng làm cho giá cả và lương bổng giảm nếu sản xuất
tăng lên. Nhưng làm như vậy sẽ tạo ra nhiều căng thẳng trong các hoạt động sản xuất, lưu
thông phân phối, làm nguy hại đến mức tăng trưởng kinh tế.
Khối tiền tệ ở Việt Nam hiện nay bao gồm phần lớn là tiền giấy do ngân hàng Nhà nước
phát hành. Hầu như tiền mặt vẫn là công cụ thanh toán duy nhất. Đôi khi cũng có thanh
toán bằng séc hay chuyển khoản, song séc thì định mức, còn chuyển khoản thì rườm rà,
khó khăn. Chính vì thành phần đơn nhất của khối tiền tệ (hầu như chỉ duy nhất là tiền giấy
của NHTƯ), mà việc điều hoà khối tiền tệ trước đây chỉ chăm chú vào quản lý tiền mặt,
lãng quên tiền chuyển khoản, tiền bút tệ. Việc điều hoà khối tiền tệ kiểu đó không thừa
nhận tiền trên các tài khoản tiền gởi thanh toán (tài khoản có thể rút séc) có thể chuyển hoá
thành tiền mặt; là thành phần đương nhiên của khối tiền tệ, thậm chí còn tìm cách ngăn
chặn sự chuyển hoá của tiền tệ, ngăn cản nguồn phát sinh tiền mặt từ các tài khoản tiền gởi
thanh toán. Đó là cách làm nghịch lý, dẫn tới việc các doanh nghiệp găm giữ tiền mặt, gây
ra phản ứng dây chuyền thiếu tiền mặt thường xuyên trong hệ thống ngân hàng và trong
nền kinh tế. Hạn chế tiền mặt sẽ kích thích tâm lý thông tin vào hệ thống ngân hàng, không
ai muốn gởi tiền vào ngân hàng và sẽ tự động chuỷen ra đô la hoặc ra vàng gây nên bất
động hoá về vốn.
Điều hoà khối tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo tiền và sử dụng tiền trong hệ
thống ngân hàng hai cấp. Một khả năng kỳ bí của hệ thống ngân hàng hai cấp là tạo tiền,
điều chỉnh mức cung tiền để ổn định tiền tệ. Do việc phân chia hệ thống ngân hàng thành
hai cấp, nên có việc phân chia hai loại tiền: tiền ngân hàng trung ương và tiền ngân hàng.
Tiền trung ương là tiền cho NHTƯ độc quyền phát hành. Tiền ngân hàng (tiền tín dụng) là
tiền do các NHTM tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặc biệt là tiền các
tài khoản thanh toán séc. Nó được tạo ra như là sự mở rộng gấp nhiều lần quỹ dự trữ
ngân hàng (thông qua hệ số tạo tiền) .
Hệ thống NHTM không thể tạo tiền tín dụng từ hư không mà phải dựa vào tiền trung ương.
Mức tạo tiền tín dụng do hệ số tạo tiền hay tỉ lệ dự trữ bắt buộc quyết định. Một đồng tiền
ngân hàng trung ương mà NHTM huy động được tạo khả năng cho NHTM cung ứng cho
nền kinh tế số tiền tín dụng gấp nhiều lần; ngược lại mức cung tiền tín dụng của NHTM
cũng giảm gấp nhiều lần khi tiền trung ương trong tay họ giảm đi một. Cơ chế tạo ra tiền
của NHTM xuất phát từ 2 nguồn: a) tiền gởi của công chúng; b) sự cho vay của ngân hàng.
Chính vì khả năng tạo ra bút tệ (tiền tín dụng) của các NHTM trong việc điều hoà khối tiền
tệ, ngân hàng trung ương thường kiểm soát khối dự trữ của NHTM và theo dõi tỷ số giữa
các dự trữ của ngân hàng này với tổng số tiền gởi.
Để điều hoà khối tiền tệ, NHTƯ sử dụng các phương tiện trực tiếp và gián tiếp.
Những phương tiện trực tiếp có ảnh hưởng thẳng đối với khối tiền tệ lưu hành, những
phương tiện trực tiếp bao gồm: 1) kiểm soát các NGTM; 2) sự bất động hoá vàng nhập
khẩu; 3) hạn chế nhập nội các ngoại tệ...
Những phương tiện gián tiếp có ảnh hưởng không chắc chắn, ảnh hưởng có xảy ra hay
không là tuỳ ở phản ứng của các đối tượng, bao gồm: 1) tăng hay giảm lãi suất chiết khấu;
2) chính sách thị trường mở. Những phương tiện gián tiếp chủ yếu thực hiện thông qua cơ
chế thị trường, mà công cụ chủ yếu trong cơ chế thị trường là lãi suất.
Như vậy, thông qua việc cung ứng tiền trung ương và các phương tiện trực tiếp hoặc gián
tiếp, NHTƯ hoàn toàn làm chủ khả năng điều hoà khối tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế và
đó là lẽ sống còn của NHTƯ.
a.2. Kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền:
Việc kiểm soát khối tiền tệ đơn thuần có nhược điểm là không lưu ý tới tốc độ lưu hành
tiền tệ. Cái gì ảnh hưởng mạnh mẽ đến vật giá, không phải chỉ có khối tiền tệ M, mà còn
có tốc độ lưu hành tiền tệ V nữa. Vậy kiểm soát khối lượng M chưa đủ, mà phải lưu ý tới
V, hay đúng hơn, kiểm soát M. V. mà người ta gọi là trào lượng tiền tệ, tức là tổng số
lượng tiền tệ dùng để chi trả trong khoảng thời gian nhất định với tốc độ V.
Tốc độ V có tác dụng khuyếch đại nhiều hay ít khối lượng tiền tệ M. Trào lượng tiền tệ
tăng hay giảm chưa nói lên được tác dụng của nó làm giảm hay tăng giá trị tiền tệ. Cần
phải xem nó có tác dụng như thế nào đối với T. Mà T bao gồm trong bản thân nó hai thành
phần: một là số lượng hàng hoá và dịch vụ do sản xuất trong nước cung ứng và một là số
lượng hàng hoá dịch vụ xuất phát từ nhập khẩu.
Nếu đứng trên phương diện cả nước nói chung, số lượng tiền tệ M được lưu thông từ tay
người này sang tay người khác với một tốc độ nào đó, ta gọi là V. Với V, M biến thành
một trào lượng tiền tệ M. V tức là tổng số giá trị chi trả để trao đổi với T (hàng hoá và dịch
vụ), tổng số hàng hoá và dịch vụ được dùng trao đổi với M qua V lần sử dụng.
Nhưng việc kiểm oast M. V. rất khó, bởi vì tuỳ thuộc vào cách hành động của các chủ thể
kinh tế riêng biệt trong sử dụng tiền tệ. Nó tuỳ thuộc vào niềm tin của những người nầy đối
với giá trị tiền tệ, sự tiên liệu của họ về thời cơ kinh tế, những cơ hội làm ăn sinh lời,
khuynh hướng tiêu xài của dân chúng, lòng tin vào chính sách kinh tế của Nhà nước. Ngoài
ra, nó còn tuỳ thuộc vào khả năng thanh toán của ngân hàng, trình độ kỹ thuật ngân hàng,
mức độ tin tưởng của dân chúng đối với ngân hàng.
Ở những nước công nghiệp phát triển, các tiện ích ngân hàng được sử dụng rộng rãi, các
chủ thể kinh tế quen dùng séc trong thanh toán. Tổng số thanh toán các cuộc giao dịch
bằng phương tiện này lên đến 70 - 80% trên tổng số thanh toán của dân cư. Vì vậy, NHTƯ
kiểm soát số chi trả của toàn xã hội qua hệ thống ngân hàng bằng cách tính tổng giá trị séc
đưa đi giao hoán tại NHTƯ và theo dõi biến chuyển của nó.
Ở nước ta, việc dùng séc trong dân cư ít thông dụng, dùng tiền mặt để chi trả là phổ biến,
cho nên một khối tiền mặt rất lớn lưu thông bên ngoài hệ thống ngân hàng, vượt ra ngoài
tầm kiểm soát của NHTƯ. Đó là đầu mối gây bất ổn cho nền kinh tế một cách đột biến. Đó
cũng là lý do cần phải thu hút lượng tiền trong tay dân cư vào hệ thống ngân hàng dưới
hình thức tiền gởi không kỳ hạn và dùng sẽ để thanh toán, một yếu tố cần thiết để cho việc
thực thi chính sách tiền tệ được hữu hiệu.
a.3. Bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền bằng cách ổn định vật giá:
Giá trị quốc nội của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hoá và dịch vụ trong nước.
Sức mua của đồng tiền biến đổi ngược chiều với vật giá. Khi mức vật giá chung gia tăng,
sức mua của đồng tiền giảm. Ngược lại, khi mức vật giá chung giảm, sức mua của đồng
tiền tăng. Tuy nhiên, nếu vế thứ nhất không có điều gì phải tranh cãi, vế thứ hai cần xác
định rõ hơn.
Sức mua đồng tiền tăng khi mức vật giá chung giảm chỉ là điều đáng mừng khi nào do
năng suất chung tăng lên. Thật vậy, trong trường hợp này, nhfa sản xuất tuy bán lẻ với giá
hạ hơn nhưng vẫn có lời vì nhờ năng suất tăng, giá thành mỗi đơn vị sản phẩm vẫn thấp
hơn giá bán. Nhà sản xuất có lời, họ vẫn tiếp tục sản xuất, nhân công chẳng những duy trì
được việc làm mà còn có thể tăng thu nhập đó là do năng suất lao động tăng.
Trái lại, nếu vật giá chung giảm, không do năng suất mà do mức cầu trên thị trường giảm,
thì là một biểu hiện đáng lo. Vật giá giảm, sức mua đồng tiền tuy có tăng, nhưng đó chỉ là
tăng nhất thời, vì người sản xuất có thể rơi vào tình trạng lỗ lã. Họ có thể xét lại kế hoạch
sản xuất, có thể sẽ bớt nhân công, bớt số lượng sản xuất, nếu tình trạng hạ giá, hàng hoá
tồn đọng kéo dài. Tình hình đó mà lan rộng, thất nghiệp sẽ trầm trọng, làm giảm số cầu của
thị trường, làm cho kinh tế suy thoái thêm.
Do đó chính sách tiền tệ phải nhằm đảm bảo mức vật giá chung ổn định. Sự ổn định của
vật giá là điều cần thiết để mọi người được an tâm, tin tưởng trong việc tính toán công việc
đầu tư, vì đầu tư là cuộc tính toán lâu dài. Vậy cần có sự ổn định lâu dài mới khuyến khích
sức đầu tư.
Trong trường hợp không duy trì được sự ổn định, một mức vật giá tăng hàng năm ở mức 2
hay 3% là mức gia tăng thuận lợi cho sự phát triển mà chính sách tiền tệ có thể chấp nhận
được. Lẽ tất nhiên, một chính sách tiền tệ có thể tác động tới sự gia tăng năng suất trong
hoạt động sản xuất của các chủ thể kinh tế vẫn là điều mỏng mỏi.
a.4. Ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền:
Giá trị quốc ngoại của đồng tiền được đo lường bởi tỷ giá hối đoái thả nổi. Một sơ biến
động của tỷ giá hối đoái ít hay nhiều ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế trong nươc tuỳ theo
mức độ hướng ngoại của nền kinh tế. Trái lại, mọi biến chuyển về tiền tệ cũng tác động tới
mối tương quan giữa tiền tệ trong nước với tiền tệ nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của khối dự trữ ngoại hối, thị trường và chính sách
hối đoái, tình hình giá cả trong nước. Do đó, một chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế
trong nước cần phải đi đôi với những biện pháp nhằm ổn định tỷ giá hối đoái.
Về phương tiện tiền tệ, khối dự trữ ngoại hối, thị trường và chính sách hối đoái, tỷ giá hối
đoái là những yếu tố tác động mạnh tới khối tiền tệ. Chúng ta sẽ xem xét chi tiết những yếu
tố này ở phần dưới đây.
Dự trữ ngoại hối: Mỗi nước đều có khối dự trữ ngoại hối , lớn hay nhỏ tùy theo khả năng
của nền kinh tế nước đó có thể tạo lập được nhiều hay ít. Nó là kết quả của tổng số thu và
chi ngoại tệ (kể cả vàng) của một nước trong thời hạn nhất định, thường là một năm. Dự
trữ ngoại hối tăng khi thu lớn hơn chi, bất kể thu, chi ngoại hối vì lý do gì. Điều đó có
được khi Ngân hàng trung ương mua bán ngoại hối. Ngân hàng trung ương mua ngoại hối,
khối tiền tệ tăng thêm; ngược lại khi ngân hàng trung ương bán ngoại hối, khối tiền tệ
giảm, nếu những yếu tố khác không thay đổi.
Khối dữ trữ ngoại hối nước ta hiện nay còn khiêm nhường, vì vậy tác động của sự biến
chuyển trong dự trữ ngoại hối không lớn lắm đối với khối tiền tệ. Tuy nhiên, trong tương
lai thì dự trữ ngoại hối trở nên quan trọng hơn, tác động của nó trên khối tiền tệ cũng lớn
hơn. Nói chung, một sự gia tăng dự trữ ngoại hối kéo theo sự gia tăng trong khối tiền tệ.
Ngược lại, một sự giảm thiểu trong dự trữ đó đưa đến hậu quả tất yếu là giảm thiểu khối
tiền tệ.
Sự biến chuyển trong dự trữ ngoại hối tuỳ thuộc vào thị trường và chính sách hối đoái.
Thị trường hối đoái: là nơi mua, bán ngoại tệ. Trong một nước mà thị trường hối đoái tổ
chức quá đơn sơ, thị trường hối đoái không tổ chức sẽ bành trướng mạnh mẽ, khiến cho
NHTƯ chẳng những không thể tích luỹ được dự trữ ngoại hối, mà cũng không chủ động
được nguồn cung ứng tiền tệ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các đơn vị này khi có
nhu cầu ngoại tệ lại đi mua ngoại tệ trôi nổi trên thị trường không tổ chức bằng lượng tiền
đồng Việt Nam mà hậu quả cuối cùng là số lượng tiền đồng lớn luân lưu ngoài hệ thống
ngân hàng: một yếu tố làm tăng áp lực vay tiền ngân hàng để bổ sung nguồn vốn lưu động
mà ngân hàng thương mại lại thiếu tiền. Từ đó áp lực trên nhu cầu phát hành tiền sẽ gia
tăng.
Thị trường hối đoái ở nước ta còn đang ở dạng là những điểm mua, bán ngoại tệ (mua
nhiều hơn bán), thật ra thì là điểm mua ngoại tệ thì đúng hơn. Cần phải tổ chức thị trường
hối đoái với quy mô lớn hơn, hoàn chỉnh hơn. Ở đây mới nêu lên với tính cách đặt vấn đề,
chưa đề cập đến cách tổ chức một thị trường hối đoái hoàn chỉnh.
Thị trường hối đoái có tổ chức hoàn hảo hay không còn phụ thuộc vào chính sách hối đoái
(đáp ứng chính sách kinh tế mở cửa đất nước tới mức độ nào...)
Chính sách hối đoái: Trên nguyên tắc, nước ta áp dụng chính sách ngoại hối có quản lý
chặt. Điều 51 pháp lệnh NHNN nêu rõ: Tất cả các tổ chức, cá nhân có ngoại tệ đều phải
bán cho ngân hàng được phép kinh doanh ngoại hối, khi có nhu cầu thì mua ngoại tệ tại
ngân hàng. Các tổ chức thì có thể mua ngoại tệ tại thị trường hối đoái trong nước.
Nhưng trong thực tế, các tổ chức, cá nhân lại có thể mua bán ngoại tệ trôi nổi ngoài những
nơi chỉ định trên, mặc dầu bị cấm đoán. Chính vì vậy một lượng lớn ngoại tệ đang luân lưu
bên ngoài hệ thống ngân hàng.
Lại nữa, chúng ta đang tổ chức thị trường mua bán ngoại tệ với tỷ giá dựa trên cơ sở cung
cầu thị trường, đồng thời vẫn duy trì một cơ chế tiền gởi bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân
hàng để rồi nhận lấy hết những rủi ro không đáng có. Xin kể ra đây một nghịch lý: trong
khi chúng ta đang khuyến khích thu hút ngoại tệ vào trong nước để đầu tư phát triển kinh
tế, nhưng với cơ chế và cách làm của ta, chúng ta phải mang ngoại tệ ra gởi ở nước ngoài,
vô tình dã làm lợi cho những nước có ngoại tệ đó.
Từ những ví dụ trên, tuỳ theo góc độ đánh giá, có thể có nhiều cách phân tách, lý giải.
Chúng ta hãy nghe những lý giải xung quanh ví dụ 1.
Nhìn theo một khía cạnh nào đó, thì đây là một điều hại, vì ngân hàng Nhà nước, qua hệ
thống ngân hàng trung gian, không mua được nhiều ngoại tệ cho nhu cầu của mình. Và
như vậy, khả năng điều hoà lưu lượng tiền tệ cũng bị hạn chế. Một lượng tiền tệ và một
lượng ngoại tệ đang nằm bên ngoài thẩm quyền điều tiết của hệ thóng ngân hàng. Trái lại,
nhìn ở khía cạnh khác, điều đó cũng có mặt thuận lợi là giảm bớt căng thẳng về nhu cầu
ngoại tệ của đơn vị sản xuất kinh doanh. Một chính sách độc quyền hối đoái quá cứng nhắc
sẽ không tránh khỏi những căng thẳng nói trên. Đó là điểm cần lưu ý khi thiết lập một thị
trường hối đoái có tổ chức trong tương lai với những quy định sao cho uyển chuyển thích
hợp với tình hình thực tế trong nước mà không cản trở sản xuất kinh doanh.
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, cũng là đòn bẩy
kinh tế tác động mạnh đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh. xuất khẩu, nhập khẩu trong
nước.
Một tỷ giá hối đoái quá thấp (tức là đồngbản tệ có giá trị tăng lên so với ngoại tệ) có tác
dụng khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xuất khẩu tương đối đắt,
khó bán ra nước ngoài, tức là gây trở ngại cho ngành sản xuất trong nước hướng về xuất
khẩu, bất lợi cho cuộc chuyển dịch ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước; khối lượng dự
trữ ngoại hối dễ bị xói mòn. Ngược lại, một tỷ giá hối đoái cao (nghĩa là đồng bản tệ có giá
trị thấp so với ngoại tệ), có tác động bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu vì làm
cho hàng xuất khẩu đắt hơn, hàng xuất khẩu rẻ hơn để cạnh tranh trên thị trường quốc tế,
dễ tìm được thị trường hơn. Do đó, những ngành sản xuất có nguyên liệu nhập khẩu hay
thay thế hàng nhập khẩu gặp trở ngại, trong khi ngành sản xuất hàng cho thị trường nước
ngoài thuận lợi hơn, lượng ngoại tệ có khuynh hướng chuyển vào trong nước khá hơn, khối
dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng.
Mức tỷ giá quá cao hay thấp là so với tỷ giá thực tế được quyết định bởi cung cầu ngoại tệ
trên thị trường hối đoái hay thị trường đen (nơi nào không có thị trường hối đoái tự do). Tỷ
giá hối đoái cao hay thấp là tỷ giá do NHTƯ ấn định, cố định (fixed exchange rates), còn
tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do hoàn toàn không có sự can thiệp của NHTƯ là tỷ giá
thả nổi do cung cầu ngoại tệ trên thị trường quyết định (floating rates). Thế giới đã trải qua
một thời kỳ khá lâu áp dụng tỷ giá hối đoái ấn định, cố định từ thập niên 1930 đến giữa
thập niên 1970. Từ năm 1973, nhiều nước công nghiệp hàng đầu đã thử nguyệm tỷ giá hối
đoái thả nổi và sau đó áp dụng tỷ giá hối đoái thả nổi có "quản lý". Đến năm 1976 các
nước phương tây đã đạt được một thoả hiệp tạm thời gọi là Thoả hiệp Jamaica, công khai
chấp nhận hệ thốgn tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý (system of managed floating rates), vì
cả hai tỷ giá cố định cứng nhắc và tỷ giá thả nổi hoàn toàn đều có điều bất tiện tác động
trên nền kinh tế trong nước và trên sự chuyển dịch tài nguyên ngoại tệ trên bình diện quốc
tế.
Theo hệ thống NHTƯ can thiệp để giữ cho tỷ giá hối đoái không thăng trầm quá đáng, làm
dịu bớt tình trạng bất ổn định của nền kinh tế trong nước. NHTƯ can thiệp trên thị trường
hối đoái bằng cách tham gia mua hay bán ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái biến đổi trong
một biên vực không quá lớn, nhờ đó chế ngự bớt tác động đối với nền kinh tế trong nước,
khi giá ngoại tệ lên cao, NHTƯ đưa ngoại tệ ra bán để làm chậm bớt nhịp tăng giá ngoại
tệ. Dĩ nhiên, chỉ làm được điều đó khi dự trữ ngoại hối còn ở mức độ tương đối khả quan.
Ngược lại, khi giá ngoại tệ xuống quá thấp, NHTƯ dùng tiền trong nước mua ngoại tệ vào
để duy trì một biên vực biến đổi ít tác động mạnh đối với sinh hoạt kinh tế trong nước,
nhất là để tái tạo khối dự trữ ngoại tệ đã bị thiếu hụt.
Nước ta đang áp dụng tỷ giá hối đoái ấn định nhưng không quá cứng nhắc, có thể thay đổi
theo tình hình ngoại hối trong nước. Một phần nào có hiệu quả, nhất là trong tình hình
ngoại hối chậm biến đổi. Trái lại, khi tình hình ngoại hối biến đổi thường xuyên, một sự
chậm trễ trong việc thay đổi tỷ giá ấn định thường gây thiệt hại cho các ngành hoạt động
kinh tế trong nước.
Đối với nước ta hiện nay, khả năng ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền còn rất hạn
chế. Vì vậy, cần có kế hoạch mở rộng đầu tư các thành phần kinh tế trong và ngoài nước,
làm sao cho nước ta trở thành điểm thu hút đầu tư quốc tế mạnh hơn nữa để tăng nhanh
khả năng ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền Việt Nam.
b. Mục tiêu kinh tế:
Chính sách tiền tệ còn nhằm đến mục đích xa hơn: đó là mục tiêu kinh tế, gồm hai điểm
chính dưới đây:
+ Tăng trưởng kinh tế, trong đó có mục tiêu đạt đến mức nhân dụng cao.
+ Giảm thiểu những thăng trầm chu chuyển kinh tế.
b.1. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế:
Hiện nay còn có quan điểm khác nhau về vai trò tác đông của tiền tệ đối với tăng trưởng
kinh tế. Còn nhiều ý kiến khác nhau về chi tiết, những xác định được quan điểm chung về
tác động của lãi suất và số cầu tổng hợp của khối tiền tệ trên mức tăng trưởng đó. Tác
động đó thông qua hai ngõ:
Khi khối tiền tệ M tăng, nói chung nó có tác dụng làm giảm lãi suất (vì NHTƯ khi chủ
trương bành trướng khối tiền tệ thì cũng muốn như vậy), lãi suất giảm sẽ khuyến khích
việc đầu tư. Đầu tư gia tăng, tổng sản phẩm xã hội cũng tăng. Nếu tỷ lệ gia tăng tổng sản
phẩm xã hội lớn hơn nhịp gia tăng dân số sẽ có tăng trưởng kinh tế.
Mặt khác, sự gia tăng khối tiền tệ đưa đến tác dụng làm tăng số cầu tổng hợp: các thành
phần dân cư có tiền nhiều hơn, sẽ tiêu thụ nhiều hơn và mãi lực trên thị trường tăng giúp
giải quyết hàng tồn đọng, làm cho các doanh nghiệp tăng gia sản xuất, hàng hoá lưu thông,
phân phối với nhịp điệu rộn rịp hơn. Đến một lúc nào đó, doanh nghiệp cũng phải tăng
thêm việc mua sắm máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng... Cả hai sức cầu về sản phẩm tiêu
dùng và sản phẩm đầu tư đều tăng, từ đó tổng sản phẩm xã hội cũng tăng. Nếu mức gia
tăng đó lớn hơn nhịp gia tăng dân số, sẽ có tăng trưởng kinh tế.
Trong cả hai trường hợp, đều có sự gia tăng nhân dụng, vì nhân công, tư bản (máy móc),
kỹ thuật công nghệ (technology) là 3 yếu tố quan trọng quyết định số lướng, trong đó yếu
tố nhân công được tăng lên trước khi xí nghiệp gia tăng sản xuất. Đối với xí nghiệp quản lý
có hiệu quả, việc tuyển dụng thêm nhân công chỉ xảy ra khi số nhân lực hiện hữu được tận
dụng.
Như vậy, muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ngoài việc gia tăng khối tiền tệ
trong chính sách tiền tệ, cần có những biện pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất để thâm dụng
nhân công.
b.2. Giảm thiểu những thăng trầm chu chuyển kinh tế:
Sự tăng trưởng kinh tế bất cứ nước nào không thể kéo dài mãi với thời gian. Lý do cơ bản
là số cầu dù tiếp tục gia tăng nhưng số cung không thể đáp ứng mãi mãi được. Nó bị hạn
chế bởi nhiều yếu tố, đáng kể trước tiên là nhân công. Khi nền kinh tế tăng trưởng liên tục,
đến một lúc nào đó, nhân công khan hiếm, hạn chế mức gia tăng sản xuất . Đó là chưa kể
nguyên liệu có thể cũng khan hiếm. Sự khan hiếm của yếu tố nhân công, nguyên liệu làm
tăng phí tổn sản xuất, nâng cao giá thành và giá bán trên thị trường.
Vào thời điểm này, nếu khối lượng tiền tệ tiếp tục gia tăng mà không kềm chế, số cầu tăng
mạnh, hậu quả tất yếu làm tăng vật giá, tình trạng lạm phát ngày càng trầm trọng hơn. Tình
hình đó buộc phải giảm bớt khối tiền tệ, từ đó làm giảm số cầu, làm giảm khuynh hướng
tiêu thụ của dân cư. Hoạt động kinh tế rơi vào tình trạng ngưng trệ.
Trước tình hình này, các đơn vị sản xuất hàng hoá bán chậm lại, hàng tồn kho tích luỹ ngày
càng nhiều, tất sẽ có phản ứng là giảm bớt sản xuất. Trong trường hợp tiên đoán tình hình
tiêu thụ trên thị trường xấu nhiều hơn nữa và có tính cách lâu dài, họ phải sa thải bớt nhân
công, sau một thời gian nghỉ giảm lương. Nhân công thất nghiệp, giảm thu nhập, giảm tiêu
pha, kéo theo suy giảm trong khối lượng sản xuất. Không ai chịu đầu tư trong tình huống
như thế: tình trạng: suy thoái kinh tế lan rộng.
Để chặn đứng đà suy thoái, NHTƯ sẽ phải thi hành chính sách bành trướng khối tiền tệ,
khuyến khích các ngân hàng cho vay để nâng số cầu lên, giúp các nhà sản xuất có một cái
nhìn lạc quan trên thị trường. Nhân công thất nghiệp nhiều và lâu ngày, nên giá nhân công
rẻ, hàng tồn kho giảm dần, nhu cầu tái sản xuất theo một nhịp độ lớn dần, khiến cho nhu
cầu đầu tư tăng lên. Những sự kiện đó đưa nền kinh tế từ giai đoạn suy thoái sang giai
đoạn phục hưng. Lúc này, tiền được rót thêm vào guồng máu kinh tế kích thích tiêu thụ
tăng mạnh kéo theo sức gia tăng trong số lượng đầu tư, trước tiên là thay thế máy móc hư
hỏng, rồi dần dần đổi mới guồng máu sản xuất. Từ đó có khả năng nền kinh tế chuyển từ
giai đoạn phục hưng sang giai đoạn tăng trưởng mạnh.
Trước đây, có một nhận thức cho rằng, một chu kỳ kinh tế là một chuỗi các trạng huống
kinh tế, nhìn chung được phân ra làm bốn giai đoạn:
- Mở rộng (giai đoạn thăng hoa). Bối cảnh thuận.
- Phồn vinh (đỉnh cao). Bối cảnh tốt.
- Suy thoái (giai đoạn xuống dốc). Bối cảnh bất thuận.
- Suy sụp (giai đoạn lõm). Bối cảnh xấu.
Nhưng ngày nay, phác đồ này đã bị biến đổi do: a) các doanh nghiệp đã quản lý tốt sản
xuất; b) các NHTƯ can thiệp cho trượt lạm phát để tránh bất kỳ căng thẳng nào.
Trong mỗi giai đoạn kinh tế, chính sách tiền tệ đóng một vait rò quan trọng, góp phần rút
ngắn thời gian ngưng trệ và suy thoái kinh tế để chuyển sang giai đoạn tăng trưởng kinh tế,
nhất là làm sao duy trì một mức độ tăng trưởng với lạm phát ở tỷ lệ chấp nhận được, có thể
là tỷ lệ lạm phát một con số, hay tổng quát hơn, một tỷ lệ lạm phát thấp với tỷ lệ thất
nghiệp thấp.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ đã từng thay đổi, kế tiếp nhau trong thời gian, phù hợp với
trình độ hiểu biết ngày càng cao hơn về mối tương quan giữa tiền tệ và nền kinh tế. Trước
đây, người ta áp dụng luận điểm của kinh tế học cổ điển cho rằng những thay đổi về tiền tệ
chỉ tác động đến giá cả và tiền công, chứkhông ảnh hưởng đến công ăn việc làm và chu kỳ
phát triển kinh tế vào việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Loại chính sách tiền tệ
này chưa được coi là công cụ quan trọng để ổn định kinh tế và không có tác động đến quá
trình tăng trưởng, có cơ chế vận hành bao gồm các yếu tố chủ yếu: mức lãi suất thực âm
cao triền miên và có độ bất định lớn. Nó có khuynh hướng làm xói mòn nguồn vốn, trong
thực tế, kết quả thu được đi ngược lại ý đồ ban đầu được dành cho nó: thay vì mức tiết
kiệm và năng lực đầu tư nội địa được nâng lên là tình trạng thâm hụt ngân sách, khối lượng
nợ nước ngoài và phần của cải đất nước sản xuất ra nhưng phải dành cho trả nợ và lãi nợ
ngày càng lớn; hậu quả không tránh khỏi sau đó là lạm phát cao, bất ổn định và trì trệ, suy
thoái.
Kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, chính sách tiền tệ mới trở thành khái niệm
trung tâm trong hoạt động quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô, được coi là công cụ quan
trọng để ổn định kinh tế và tác động đến quá trình tăng trưởng, hướng tới mục tiêu phát
triển môi trường tài chính, kích thích tối đa sự vận động của các nguồn lực khác của đất
nước. Chính sách tiền tệ kiểu này được gọi là chính sách tiền tệ mở rộng nguồn vốn, có cơ
chế vận hành bao gồm các yếu tố chính: duy trì mức lãi suất thực dương, quy định dự trữ
bắt buộc thấp đối với các ngân hàng thương mại.
Ngày nay do những đối nghịch của các mục tiêu, các NHTƯ khó có thể thực hiện được
ngay mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Thông thường, trong một thời kỳ xác định,
việc thực hiện mục tiêu này sẽ cản trở việc đạt thành tích cao ở mục tiêu khác trong hệ mục
tiêu đã nêu. Muốn có lạm phát thấp thì khó lòng tăng trưởng cao. Duy trì tỷ giá hối đoái cố
định thfi dễ rơi vào tình trạng "nhập khẩu lạm phát". Do đó, NHTƯ phải xác định những
mục tiêu đặc thù hay trung gian, từ đó phải có nghệ thuật phối hợp các mục tiêu ngắn hạn
và dài hạn trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ trên thực tế.
Với tư cách là một công cụ trong tay Nhà nước, chích sách tiền tệ có hai đặc điểm nổi bật
vềmặt chức năng của nó là:
1) Phù hợp với chức năng can thiệp chung của Nhà nước đối với mọi hoạt động của nền
kinh tế. Đó là điều chỉnh lại sự phân bổ các nguồn lực, điều chỉnh lại sự phân phối thu
nhập và của cải trong xã hội và ổn định lại tình hình kinh tế vĩ mô.
2) Chính sách tiền tệ là loại công cụ của chính sách can thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản
thân cơ chế thị trường và các quy luật vận động của nó.
Có thể xem các chức năng chung có tính chất nguyên lý của chính sách tiền tệ như một mô
hình chính sách cơ bản, còn những biến thể của nó thì như những mô hình chính sách đặc
thù. Tuy dựa trên nền tảng của kinh tế thị trường nên đương nhiên nguyên tắc chung về
điều chỉnh kinh tế của các nhà nước pháp quyền thống nhất ở chỗ được thể chế hoá bằng
hệ thống pháp luật chặt chẽ, song các mô hình chính sách đặc thù luôn mang đậm dấu ấn
của những điều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống văn hoá và bản sắc dân tộc cũng như
thiết chế và năng lực thực tiễn của Nhà nước ở mỗi quốc gia, đồng thời nó phản ánh rõ
những mâu thuẫn, những vấn đề nổi lên cần được tập trung giải quyết của mỗi nền kinh tế
trong mỗi thời kỳ nhất định. Phạm vi và thứ tự ưu tiên của các mục tiêu cụ thể cần đạt tới
của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ được xác định một cách không giống nhau. Thành ra một
điều rất tự nhiên là mỗi nước trong lịch sử có một chính sách tiền tệ riêng của mình. Các
mô hình chính sách cụ thể cho thấy sự phong phú của các sắc thái riêng biệt trong cơ chế
vận hành của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
Vì mỗi giai đoạn phát triển ở mỗi quốc gia có những mục tiêu kinh tế - xã hội không giống
nhau, nên các chính sách tiền tệ luôn bao hàm trong đó những nét đặc thù và do vậy chúng
được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với mỗi một mô hình
điều chỉnh kinh tế đặc thù. Điều này góp phần làm phong phú thêm lý luận kinh tế học
hiện đại và cung cấp ngày càng nhiều hơn những bài học kinh nghiệm từ thực tế cho việc
nghiên cứu, học hỏi và lựa chọn để xây dựng chính sách tiền tệ phù hợp với những điều
kiện cụ thể của mỗi quốc gia.
Từ nhiều thập kỷ nay và nhất là từ cuộc thế chiến lần thứ hai, chính sách tiền tệ của nhiều
nước có nền kinh tế phát triển luôn luôn nhằm mục tiêu chủ yếu là đấu tranh chống lạm
phát, nhưng đồng thời không được làm ảnh hưởng đến sản xuất quốc dân và việc tạo đầy
đủ côgn ăn việc làm. Căn cứ vào những mục tiêu cơ bản này, các nước đó lựa chọn các
công cụ can thiệp cần thiết, các công cụ này chủ yếu tác động vào nguồn đối ứng của khối
lượng tiền tệ, vì đó là nguồn tạo ra tiền, nhưng chúng còn có thể có tác dụng phụ là nhằm
định hướng việc sử dụng đồng tiền đã được tạo ra cho các chủ thể kinh tế.
II. PHƯƠNG THỨC VẬN HÀNH CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:
Ngân hàng trung ương nói chung không giao dịch trực tiếp với công chúng, mà chỉ quan hệ
với bốn đầu mối chính sau đây:
- Giao dịch với chính phủ (Bộ Tài chính, kho bạc...)
- Giao dịch với ngân hàng trung gian.
- Giao dịch với các thị trường tiền tệ.
- Giao dụch với các khu vực tài chính, tiền tệ đối ngoại.
Bốn đầu mối quan hệ của NHTƯ là bốn con kênh qua đó NHTƯ thực thi chính sách tiền
tệ; bằng cách xử lý tổng hợp bốn đầu mối quan hệ đó, NHTƯ tăng hay giảm khối tiền tệ
tuỳ theo tình hình nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định.
Dưới đây sẽ tập trung trình bày phương thức vận hành những công cụ tác động đến hai đầu
mối là ngân hàng trung gian và thị trường tiền tệ. Hai đầu mối quan hệ còn lại không phải
là đối tượng chính và sẽ được đề cập ở một chừng mực cần thiết. Điều này cho thấy tính
giới hạn của chính sách tiền tệ và sự cần thiết phải tiến hành song song những chính sách
khác nhằm xử lý hai đầu mối quan hệ còn lại: quan hệ với chính phủ và quan hệ với khu
vực tài chính tiền tệ đối ngoại.
1. Phương thức vận hành các công cụ chính sách tiền tệ của NHTƯ đối với các ngân hàng
trung gian và thị trường tiền tệ.
Có tất cả 7 công cụ nằm trong tay NHTƯ: dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường tiền tệ
mở, kiểm soát tín dụng chọn lọc, lãi suất tiền gởi, kiểm soát tín dụng tài trợ thị trường
chứng khoán, kiểm soát tín dụng tiêu thụ. Các công cụ này là những thao tác hoạt động
hàng ngày của cá NHTƯ. Vì thế, có thể nói rằng, mọi hoạt động của NHTƯ đều tác động
đến nền kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ đã vạch ra. Sự điều tiết tiền
tệ (bao gồm chính sách tiền tệ và các công cụ của nó) có thể điều tiết gián tiếp và vô cùng
hiệu quả đến những hoạt động của nền kinh tế quốc gia từ vĩ mô đến vi mô.
a. Thay đổi dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng trung gian:
Ngân hàng trung gian gồm nhiều loại ngân hàng mà quan trọng hàng đầu là ngân hàng
thương mại. Ngân hàng thương mại là ngân hàng thực hiện nhiều loại nghiệp vụ ngân hàng
hơn hết trong số ngân hàng trung gian. Chính vì vai trò quan trọng của ngân hàng thương
mại nên NHTƯ của hầu hết các nước được luật pháp cho phép có rất nhiều thẩm quyền đối
với NHTM. Điều đó nhằm mục đích thực thi chính sách tiền tệ, giữ vững hệ thống ngân
hàng hoạt động lành mạnh, đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp và công chúng, đồng
thời tạo thuận lợi cho NHTM hoạt động hữu hiệu góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Ngân hàng trung ương được giao quyền bắt buộc các ngân hàng trung gian phải ký gởi tại
NHTƯ một phần của tổng số tiền gởi mà họ nhận được từ dân cư và các thành phần kinh
tế theo một tỷ lệ nhất định. Phần bắt buộc ký gởi đó gọi là dự trữ bắt buộc. NHTƯ ấn định
tỷ lệ đó khi tăng khi giảm tuỳ theo tình hình. Mục đích của việc bắt buộc dự trữ như vậy là
để giới hạn khả năng cho vay của NHTM, tránh trường hợp ngân hàng này ham kiếm lợi
nhuận bằng cách cho vay quá mức, có thể phương hại tới quyền lợi của người ký gởi tiền ở
ngân hàng. Hơn nữa, việc tập trung dự trữ của NHTM ở NHTƯ còn là một phương tiện để
ngân hàng này có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ thuộc của
NHTM đối với NHTƯ. Khả năng cho vay của NHTM bị hạn chế do tỷ lệ dự trữ bắt buộc
nêu trên sẽ buộc họ phải đi vay lại ở NHTƯ, NHTƯ là người cho vay sau cùng của mọi
ngân hàng và là cứu tinh của họ trong những trường hợp khẩn cấp như trường hợp xảy ra
tình trạng đồng loạt rút tiền gởi của công chúng.
Số nhân mức cung tiền n =
NHTM sử dụng công cụ này với nội dung mức cung tiền tệ để tăng V, giảm lượng tiền cơ
sở ngoài lưu thông.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ khối lượng quan trọng nhất của NHTƯ. Việc quy định dự
trữ bắt buộc này làm tăng khả năng điều tiết của NHTƯ đối với các NHTM.
Các công cụ lãi suất của NHTƯ càng phát triển bao nhiêu thì công cụ dự trữ bắt buộc càng
ít quan trọng bấy nhiêu. Ngược lại, chừng nào trong nền kinh tế chưa có thị trường chứng
khoán, nghiệp vụ hối phiếu cũng như các công cụ kỹ thuật tài chính, tức là những công cụ
có thể phản ứng nhanh trước sự biến động của lãi suất, thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc vẫn còn là
công cụ quan trọng của NHTƯ.
Đối với NHTM hiện đại, tức là tạo ra những công cụ thanh toán qua ngân hàng thay tiền
trung ương hoặc cơ số tiền tệ mà NHTƯ không sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc thì không
thể khống chế được khối tín dụng bằng biện pháp kinh tế.
Về nguyên tắc, khi ấn định một mức dự trữ bất buộc ở mức thấp NHTƯ muốn khuyến
khích các ngân hàng trung gian mở rộng mức cho vay của họ, tức là muốn bành trướng
khối tiền tệ. Ngược lại, khi nâng cao mức dự trữ bắt buộc, NHTƯ giới hạn khả năng cho
vay của ngân hàng trung gian, báo hiệu một chính sách tiền tệ "thắtc hặt" hay giảm thiểu
khối tiền tệ, từ đó tác động tới khả năng thu doanh lợi của ngân hàng. Chính vì vậy, một sự
gia tăng dự trữ bắt buộc đòi hỏi phải nghiên cứu trước sức chịu đựng của ngân hàng trung
gian đối với mức dự trữ mới sẽ ban hành. Để cho ngân hàng này không bị lỗ và cộng tác
trong việc thực thi chính sách tiền tệ, NHTƯ có thể trả lãi cho mức dự trữ thặng dư nào
đócủa ngân hàng trung gian, kèm theo một chính sách lãi suất thích hợp. NHTƯ có thể vận
dụng mức dự trữ bắt buộc, chẳng hạn một mức dự trữ bắt buộc cho loại tiền gởi không kỳ
hạn và một mức dự trữ thấp hơn cho loại tiền gởi tiết kiệm và tiền gởi có kỳ hạn. Cũng có
thể áp dụng một tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp hơn cho ngân hàng hoạt động ở nông thôn...
Biện pháp thay đổi dự trữ bắt buộc cần thực hiện một cách thận trọng và muốn có hiệu
quả, cần phải đi kèm những biện pháp khác.
Theo Điều 44 và 45 của Pháp lệnh và Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước có
quyền bắtb uộc các tổ chức tín dụng duy trì:
- Các quỹ dự trữ pháp định.
- Các nguồn tiền khách sẵn sàng thanh toán các khoản tiền gởi và nợ theo quy định của
ngân hàng Nhà nước.
- Tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc và các tỷ lệ an toàn khác.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền gởi ở
tổ chức tín dụng. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng quản trị NHNN quyết định tăng tỷ
lệ dự trữ trên mức 35% và NHNN trả lãi cho mức tăng đó, NHNN quy định mức phạt đối
với tổ chức tín dụng vi phạm.
Để thi hành hai điều khoản này, các tổ chức tín dụng mở tài khoản tại NHNN và gởi vào
đó một số tiền gồm hai phần:
- Phần tối thiểu để thoả mãn quy định của NHNN về mức dự trữ bắt buộc.
- Phần thặng dư dùng để giao hoán séc và thanh toán nợ giữa các tổ chức tín dụng theo thể
lệ do NHNN ấn định. Phần thặng dư này nhiều hay ít tuỳ theo tình hình do tổ chức tín dụng
quyết định sao cho việc quản lý được tối ưu, nghĩa là đừng để mức dự trữ bắt buộc bị thiếu
hụt mà bị phạt, hoặc thặng dư quá nhiều thì không sinh lợi.
Khi quyết định gia tăng tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc, NHNN sẽ cho các tổ chức tín dụng
một thời gian đủ để tăng khoảng dự trữ lên ngạch số bắt buộc.
Có một vấn đề rất nhạy cảm và được thường xuyên chú ý là mối liên hệ giữa dự trữ bắt
buộc và vấn đề lời lỗ của các tổ chức tín dụng. Như đã trình bày, một trong những công
dụng của dự trữ bắt buộc là để thực thi chính sách tiền tệ, mà cụ thể là vận dụng khối tiền
tệ theo ý muốn của NHNN. Ở nước ta hiện nay, đại bộ phận của khối tiền tệ là tiền phát
hành, trong khi ở các nước có hệ thống ngân hàng theo nền kinh tế thị trường, tỷ lệ tiền
phát hành chỉ chiếm một phần nhỏ trong khối tiền tệ, còn phần lớn là tiền gởi không kỳ
hạn ở ngân hàng trung gian (nước ta gọi là cơ quan tín dụng). Với một quá trình tiền tệ hoá
cao hơn, một phương tiện ngân hàng khác ra đời và ngày càng trở nên quan trọng: đó là
tiền gởi có kỳ hạn. Về mặt pháp lý, tiền gởi có kỳ hạn tại ngân hàng không thể chuyển
nhượng bất cứ lúc nào như tiền gởi không kỳ hạn, nó chỉ được chuyển nhượng sau một
thời hạn nhất định. Nhờ tính cách này, ngân hàng yên tâm hơn trong việc sử dụng số tiền
gởi đó để cho vay và vì vậy ngân hàng trả lãi cho người gởi theo lối này. Đối với tiền gởi
không kỳ hạn tại ngân hàng, hầu hết các nước cấm trả lãi cho loại tiền gởi này. Cả hai loại
tiền gởi (không kỳ hạn và có kỳ hạn) được gọi chung là động sản tài chính. Khác với các
loại tài sản "phi tài chính" như đất đai, nhà cửa, máy móc... động sản tài chính có thể nhanh
chóng chuyển sang dạng tiền. Và tiền là dạng động nhất trong tất cả các dạng tài sản. tiền
gởi không kỳ hạn cũng có tính cách động không kém, vì vậy nó được xếp vào thành phần
khối tiền tệ. Còn tiền gởi có kỳ hạn cũng có tính cách động nhưng kém hơn, cho nên các
nhà kinh tế nước ta trước kia đã không xếp nó vào thành phần khối tiền tệ, mà xem nó là
"chuẩn tiền". Tuy nhiên, từ đầu thập niên 80 trở đi nhiều nhà kinh tế bắt đầu coi những
"chuẩn tiền" là một thành phần của khối tiền tệ, mặc dầu không phải tất cả các nhà kinh tế
đều đồng ý với quan điểm này. Để dung hoà các quan điểm và với sự thận trọng cần thiết,
người ta phân biệt nhiều dạng thành phần khối tiền tệ dưới những ký hiệu khác nhau.
Trước hết, gọi khối tiền tệ gồm tiền phát hành và ký thác không kỳ hạn là M1. Sau khi
cộng thêm vào đó các khoản tiền gởi tiết kiệm và tiền gởi có kỳ hạn tại ngân hàng thương
mại, ta có M2. Nếu cộng thêm vào khối tiền tệ M2, tất cả các loại tiền gởi ở các định chế
tài chính khác, ta có khối tiền tệ M3 gọi chung là động sản tài chính hay là tiêu sản động.
Ở các nước, ngân hàng thương mại nhận tiền gởi không kỳ hạn rất có lợi vì không phải trả
lãi, vì vậy khi họ bị bắt buộc phải duy trì mức dự trữ tối thiểu tại NHTƯ từ 10 đến 35%
tổng số tiền gởi của họ thì không bị lỗ. Trái lại, NHTM ở nước ta vì chưa được phép mở
"tài khoản tiền gởi không kỳ hạn rút bằng séc" rộng rãi trong các thành phần dân cư, nên
khoản tiền gởi này tương đối ít hơn tiền gởi tiết kiệm và tiền gởi định kỳ. Nói cách khác,
đa số tiền gởi ở NHTM nước ta hiện nay đều phải trả lãi. Do đó, khi NHNN bắt buộc họ
phải duy trì mức dự trữ tối thiểu dù là 10% trên tổng số tiền gởi thì NHTM sẽ bị lỗ vì phải
trả lãi cho số tiền gởi đó của khách hàng. Đó là chưa kể đến việc còn phải bất động hoá
một số thanh khoản tại ngân quỹ của mình mfa không sinh lời để sẵn sàng thanh toán các
khoản tiền gởi và Nợ.
Vậy, để thi hành điều khoản dự trữ bắt buộc, mà không gây ra lỗ lãi cho các tổ chức tín
dụng, thếit nghĩ NHNN có thể chọn lựa một trong hai cách sau đây:
- Một là, hoàn lại số tiền lãi mà các tổ chức tín dụng phải trả lãi cho khách hàng có tiền
gởi.
- Hai là, đợi tới khi nào NHNN cho phép sử dụng tài khoản tiền gởi không kỳ hạn (còn gọi
là tài khoản séc) một cách rộng rãi trong mọi tầng lớp dân cư.
Cả hai biện pháp tránh cho NHTM không bị lỗ và tự giác cộng tác với NHNN.
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là tác dụng bội số của sự vận dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với mức tăng, giảm của khối tiền tệ. NHNN nước ta thường xuyên gặp phải tình trạng
thiếu tiền mặt là vì dân cư chưa được phép sử dụng rộng rãi tài khoản tiền gởi không kỳ
hạn dùng séc. Về phương tiện kỹ thuật ngân hàng, nếu tiền gởi không kỳ hạn tại một ngân
hàng thương mại gia tăng thêm là 1.000 đồng, tổng số tiền gởi không kỳ hạn trong toàn bộ
hệ thống ngân hàng tăng lên gấp bội, có thể từ bốn năm lần đến mười lần số tiền gởi tăng
thêm ban đầu, tuỳ theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHNN ấn định. Chính vì lẽ đó, khi NHNN
bơm một lượng tiền là 1.000 đồng vào hệ thống ngân hàng thì khối tiền tệ có thể tăng thêm
một số tiền bằng gấp bội số tiền đó. Ngược lại, nếu NHNN rút bớt một số tiền 1.000 đồng
ra khỏi hệ thống ngân hàng, khối tiền tệ có thể giảm bớt một số tiền cũng gấp bội. Như
vậy, hệ thống NHTM không thể tạo lập tiền từ hư không, nếu không có tiền trung ương
(tiền do NHNN phát hành). Mức tạo tiền do tỷ lệ dự trữ bắt buộc quyết định. Từ đó, có thể
thấy rằng, thông qua việc cung ứng tiền trung ương và tỷ lệ dự trữ bắt buộc NHTƯ có thể
tăng hay giảm khối tiền tệ, hay nói cách khác, NHTƯ hoàn toàn làm chủ khả năng kiểm
soát lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế.
Muốn tạo ra tiền, phải sử dụng cả hệ thống ngân hàng. Một ngân hàng đơn độc không có
khả năng tạo ra tiền. Để minh hoạ, có thể xem thí dụ sau đây: giả sử tỷ lệ dự trữ bắt buộc là
10%, nghĩa là ngân hàng kinh doanh cứ 100 đồng thì phải có 10 đồng ở trạng thái dự trữ.
Giả sử NH A có 1.000 đồng do ai đó gởi, nó có thể cho vay 900 đồng, còn 100 đồng để dự
trữ . Giả sử ai đó vay được 900 đồng của Ngân hàng A và sau đó nộp vào ngân hàng B.
Lúc này, NH B lại có thể cho vay 810 đồng và để dự trữ 90 đồng. Bằng cách nào đó NH C
lại có được khoản 810 đồng mà NHB đã cho vay và đến lượt mình, NH C lại có thể vay
729 đồng và bắt buộc phải để 81 đồng dự trữ theo quy định.... Như vậy, số tiền được cho
vay có thể lớn hơn số tiền 1.000 đồng ban đầu rất nhiều. Theo thí dụ vừa nêu, số gia tăng
tiền gởi ban đầu là 1.000 dồng và qua cơ chế cho vay và ký thác tiếp theo, số ký thác ứng
lập gia tăng ở mỗi ngân hàng, nhưng ngạch số giảm dần. Ta có thể tiếp tục theo dõi hoạt
động cho vay của hệ thống ngân hàng từ số tiền gởi gia tăng ban đầu cho đến khi, vì lý do
phải dự trữ tại ngân hàng Nhà nước nên lần lần bị triệt tiêu. Tổng cộng lại, ta sẽ có số gia
tăng tiền gởi không kỳ hạn từ đầu cho đến cuối như sau: 1.00 + 900 + 729 + 656, L + ... =
10.000 đ. Như vậy, với số tiền 1.000 đồng ban đầu ở một ngân hàng đơn độc, tỷ lệ dự trữ
bắt buộc là 10% thì cả hệ thống ngân hàng đã tạo thêm được 9.000 đồng tiền gởi. Sự thay
đổi tiềm tàng trong tiền gởi có thể được tính bằng công thức tổng quát sau:
Số tiền ban đầu x 1 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Số nhân viên tiền tệ hay thừa số tiền tệ tạo ra từ việc lấy 1 chia cho tỷ lệ dự trữ tại các
NHTM = với tỷ lệ dự trữ 10%, số nhân = 1 : 10 100 10 lần.
Điều đáng chú ý là với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%, thì tiền trung ương sẽ có bội số 10 (hệ
số tạo tiền) khi nó đi qua các NHTM để trở thành tiền tín dụng và ngược lại, mức cung tiền
tệ sẽ giảm đi 10 lần khi tiền trung ương giảm đi 1. Nếu ngân hàng giữ cả 100% làm dự trữ
thì ngân hàng không tạo ra tiền. Do đó, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho hợp lý là một
nghệ thuật.
Qua cách trình bày trên, có thể hình dung được rằng, bằng việc vận dụng tỷ lệ dự trữ tối
thiểu bắt buộc, NHTƯ có thể tăng hay giảm khối tiền tệ.
Tuy nhiên, tiến trình gia tăng bội số trên đây đặt trong một bối cảnh lý tưởng, cho nên tác
dụng đó tối đa. Trong thực tế, có nhiều phản ứng không hoàn toàn thuận lợi như vậy, cho
nên tác dụng của nó có thể sẽ ít hơn.
Thứ nhất, người gởi tiền ban đầu và những người gởi tiền kế tiếp để yên số tiền gởi của
mình, không rút ra để chi trả những cuộc giao dịch khác. Nếu yếu tố này nảy sinh, nó sẽ
làm giảm bớt hiệu lực bội số gia tăng trong số tiền gởi về sau.
Thứ hai, những người nhận được những món tiền chi trả có thể ký gởi một phần vào tiền
gởi tiết kiệm hay định kỳ, tức là giảm bớt tác dụng bội số của mức gia tăng nói trên.
Thứ ba, các ngân hàng có thể không kiếm đủ khách hàng để cho vay tới mức tối đa.
Thứ tư, trong rất nhiều trường hợp, hoạt động kinh tế phát triển, nhu cầu tiền mặt trong lưu
thông phải nhiều hơn, do đó có khả năng những cuộc chi trả do khách hàng vay ở ngân
hàng thực hiện sẽ không trở lại ngân hàng ngay, tức là giảm bớt khả năng cho vay và sáng
tạo ký thác ở những ngân hàng kế tiếp (khách hàng rút tiền mặt, còn gọi là "tiêu huỷ bút
tệ")
Dẫu sao tác dụng bội số vẫn có, mặc dù tác dụng đó ở mức thấp hơn mức độ đã chứng
minh qua công thức nói trên. Tác dụng bội số vẫn có, dù ngân hàng sử dụng tiền gởi không
kỳ hạn hay tiền gởi tiết kiệm hoặc tiền gởi định kỳ, cũng theo một diễn trình như trên,
nhưng ở mức độ thấp hơn một chút.
Ngoài tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHNN còn buộc các tổ chức tín dụng dự trữ các nguồn tiền
khác sẵn sàng thanh toán các khoản tiền gởi và Nợ (tỷ lệ thanh khoản tối thiểu). NHTM
phải dự trữ tại chỗ một số thanh khoản tối thiểu do NHNN quy định tuỳ thời kỳ. Thông
thường nguồn tiền sẵn sàng thanh toán gồm có tiền mặt, các trái phiếu kho bạc.
Mục đích của việc duy trì tỷ lệ thanh khoản này là bảo vệ quyền lợi của người gởi tiền,
kiểm soát khối lượng tiền tệ và tín dụng và tiến hành chính sách tiền tệ. NHNN có thể ấn
định cho NHTM một phần suất tối thiểu trái phiếu kho bạc so với tổng số tiền gởi nhận
được.
Các ngân hàng được dự tính trái phiếu kho bạc dưới hình thức tài khoản vãng lai (giao
dịch) mở tại NHNN và do NHNN quản lý. Số dư tài khoản "Trái phiếu kho bạc" này được
tính vào tỷ lệ thanh khoản tối thiểu NHTM phải duy trì. Các trái phiếu kho bạc có lãi do
NHNN quy định.
Nhìn chung, dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất hành chính của NHTƯ nhằm điều
tiết mức cung tiền tệ của NHTM cho nền kinh tế, thông qua hệ số tạo tiền (hệ số nhân tiền
tín dụng) đối với lượng tín dụng của các NHTM cung ứng cho nền kinh tế. Mức dự trữ bắt
buộc do luật pháp quy định. Đó là một tỷ lệ nhất định tiền gởi của khách hàng mà NHTM
thu hút được (ở một số ít nước, là tỷ lệ nhất định các khoản tín dụng đã cấp) phải gởi vào
một tài khoản không lãi ở NHTƯ. Dự trữ bắt buộc là biện pháp kiểm soát cung ứng tiền tệ,
chớ không phải là cách để cho tiền ổn định. Nó có ý nghĩa to lớn để điều hoà cung cầu trên
thị trường tiền tệ, thực hiện yêu cầu của chính sách tiền tệ.
b. Biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu:
Đứng về phương diện nghề nghiệp ngân hàng, NHTƯ là "người của các ngân hàng". Với
vai trò này, có thể nói NHTƯ là người "ơn" là vị cứu tinh của ngân hàng trung gian, nhất là
ngân hàng thương mại. Nếu trong một nước không có NHTƯ, nghề làm ngân hàng sẽ rất
nguy hiểm, vì dễ rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả mà ở sau lưng ngân hàng không có
chỗ dựa, không có người cho vay sau cùng (là NHTƯ với khả năng vô biên).
Chức năng người "cho vay cuối cùng" chỉ phục vụ việc duy trì tính co giãn cần thiết của
việc cung ứng tiền cho toàn bộ hệ thống ngân hàng, chứ không phải là cho từng ngân hàng
riêng lẻ. Điều đó cho thấy rõ một mặt NHTƯ bảo đảm khả năng thanh toán cho toàn hệ
thống ngân hàng và mặt khác phải điều tiết hoạt động kinh doanh của từng ngân hàng
thông qua hoạt động thanh tra tín dụng, sao cho lòng tin của khách hàng vào hệ thống ngân
hàng không bị mất đi. Nếu trong bất cứ trường hợp những khoản nợ phải đòi nào, NHTƯ
cũng phải can thiệp vào với tư cách là người cho vay cuối cùng, thì NHTƯ sẽ mất đi khả
năng duy trì sự khan hiếm của tiền tệ.
Đối với NHTM, lẽ sống còn của họ là nhận tiền gởi của mọi giới và cho vay phần lớn tiền
gởi đó. Ngân hàng nhận tiền gởi tiết kiệm, tiền gởi định kỳ, có trả lãi. Đa số các nước cấm
ngân hàng trả lãi trên tiền gởi không kỳ hạn, ngân hàng phải cho vay tới mức mà NHTƯ
cho phép để tối đa hoá doanh lợi, ngoài việc đài thọ các chi phí, tiền trả lãi... Nhưng không
phải l úc nào hoạt động ngân hàng cũng đều thuận lợi. Có những lúc người gởi tiền đến đòi
rút tiền quá nhiều, ngân hàng dễ tơi vào tình trạng kẹt vốn. Những trường hợp ào ạt đòi rút
tiền thường xảy ea trong chu kỳ kinh tế. Nhiều ngân hàng, dầu rất thận trọng trong việc
cho vay, cũng khó tránh khỏi tình trạng thiếu khả năng chi trả. Chính vào những lúc "ngàn
cân treo sợi tóc" đó. NHTM tìm đến những sự giúp đỡ của NHTƯ, người cho vay cuối
cùng có khả năng vô biên, không bao giờ bị phá sản.
NHTƯ cấp tín dụng cho ngân hàng trung gian qua nhiều hình thức. Hình thức thông dụng
và cổ điển là chiết khấu các thương phiếu của ngân hàng trung gian (hoặc tái chiết khấu
nếu ngân hàng trung gian đã chiết khấu thương phiếu trước đó). Hình thức thứ hai là thế
chấp hay ứng trước. Khi nhận chiết khấu (hay tái chiết khấu), NHTƯ làm tăng khối tiền tệ.
Đó là hình thức phát hành tiền được các nhà kinh tế xem là lành mạnh, vì nó có khả năng
tự thanh toán do chỗ thương phiếu tượng trưng cho một món nợ về thương mại xuất phát
từ việc lưu thông phân phối và nhờ lưu thông phân phối, công cuộc sản xuất trở nên thuận
lợi.
Với việc nâng cao hoặc giảm mức lãi suất tái chiết khấu, NHTƯ có thể khuyến khích giảm
hoặc tăng mức cung ứng tín dụng của NHTM đối với nền kinh tế, đồng thời thông qua đó
cũng giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền tệ. Chúng ta hãy xem xét vấn đề này chi tiết hơn.
Bằng nghiệp vụ chiết khấu, NHTƯ muốn bành trướng hay bó hẹp khối tiền tệ qua việc vận
dụng lãi suất chiết khấu, để khuyến khích hay làm nản lòng ngân hàng trung gian trong
việc đi vay ở NHTƯ. Nếu chính sách là khuyến khích, NHTƯ hạ thấp lãi suất chiết khấu.
Ngân hàng trung gian trong trường hợp này đi vay rẻ, nên có khuynh hướng cũng giảm bớt
lãi suất cho vay, miễn là còn hưởng được lãi suất sai biệt giữa hai lãi suất đó. Ngược lại,
khi muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối lượng tiền tệ, NHTƯ nâng lãi suất chiết khấu áp