Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương và vận dụng với lạm phát ở Việt Nam - 4 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.94 KB, 9 trang )

những lúc người gởi tiền đến đòi rút tiền quá nhiều, ngân hàng dễ tơi vào tình trạng kẹt
vốn. Những trường hợp ào ạt đòi rút tiền thường xảy ea trong chu kỳ kinh tế. Nhiều
ngân hàng, dầu rất thận trọng trong việc cho vay, cũng khó tránh khỏi tình trạng thiếu
khả năng chi trả. Chính vào những lúc "ngàn cân treo sợi tóc" đó. NHTM tìm đến
những sự giúp đỡ của NHTƯ, người cho vay cuối cùng có khả năng vô biên, không
bao giờ bị phá sản.
NHTƯ cấp tín dụng cho ngân hàng trung gian qua nhiều hình thức. Hình thức thông
dụng và cổ điển là chiết khấu các thương phiếu của ngân hàng trung gian (hoặc tái
chiết khấu nếu ngân hàng trung gian đã chiết khấu thương phiếu trước đó). Hình thức
thứ hai là thế chấp hay ứng trước. Khi nhận chiết khấu (hay tái chiết khấu), NHTƯ làm
tăng khối tiền tệ. Đó là hình thức phát hành tiền được các nhà kinh tế xem là lành
mạnh, vì nó có khả năng tự thanh toán do chỗ thương phiếu tượng trưng cho một món
nợ về thương mại xuất phát từ việc lưu thông phân phối và nhờ lưu thông phân phối,
công cuộc sản xuất trở nên thuận lợi.
Với việc nâng cao hoặc giảm mức lãi suất tái chiết khấu, NHTƯ có thể khuyến khích
giảm hoặc tăng mức cung ứng tín dụng của NHTM đối với nền kinh tế, đồng thời
thông qua đó cũng giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền tệ. Chúng ta hãy xem xét vấn đề
này chi tiết hơn. Bằng nghiệp vụ chiết khấu, NHTƯ muốn bành trướng hay bó hẹp
khối tiền tệ qua việc vận dụng lãi suất chiết khấu, để khuyến khích hay làm nản lòng
ngân hàng trung gian trong việc đi vay ở NHTƯ. Nếu chính sách là khuyến khích,
NHTƯ hạ thấp lãi suất chiết khấu. Ngân hàng trung gian trong trường hợp này đi vay
rẻ, nên có khuynh hướng cũng giảm bớt lãi suất cho vay, miễn là còn hưởng được lãi
suất sai biệt giữa hai lãi suất đó. Ngược lại, khi muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối
lượng tiền tệ, NHTƯ nâng lãi suất chiết khấu áp dụng cho những cuộc vay mượn của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
ngân hàng trung gian, gián tiếp áp lực ngân hàng này nâng lãi suất cho vay hoặc hạn
chế bớt những cơ hội cho vay.
Chính sách chiết khấu, tái chiết khấu còn là công cụ định hướng tín dụng. Nếu NHTƯ
muốn kích thích xuất khẩu, sẽ cho tái chiết khấu trước hết các thương phiếu đó. Trong
nhiều trường hợp, NHTƯ có thể đặt ra những điều kiện thuận lợi hay chặt chẽ cho
từng loại tín dụng của ngân hàng trung gian để được chiết khấu hay tái chiết khấu ở


NHTƯ như: chiết khấu để giúp ngân hàng trung gian điều chỉnh dự trữ bắt buộc bị
thiếu hụt vì có sự rút tiền gởi đột ngột và quá lớn; chiết khấu đề giúp ngân hàng trung
gian thực hiện tín dụng từng mùa, nhất là những ngân hàng ở vùng trọng điểm nông
nghiệp; chiết khấu nhằm giúp ngân hàng nào thiếu hụt thanh khoản vì những nghiệp
vụ cho vay tương đối dài hạn để khuyến khích phát triển.
Tái chiết khấu cho phép NHTƯ giữ vai trò chủ động trong hành động của nó vì mục
tiêu phát hành. Nhưng không phải lúc nào NHTƯ cũng chủ động được có nhiều
trường hợp cho vay chiết khấu của nó là thụ động vì phải "chữa cháy" những khó khăn
khẩn cấp cho các NHTG.
Tóm lại, biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu là những điều kiện mà NHTƯ mua các
thương phiếu của các ngân hàng trung gian nhằm điều chỉnh mức cung ứng tín dụng
của ngân hàng trung gian đối với nền kinh tế, đồng thời thông qua đó điều chỉnh mức
cung ứng tiền tệ.
So với việc phát hành tiền cho chính phủ, việc phát hành dựa trên thương phiếu tương
đối đảm bảo cho số tiền phát hành có tính thanh khiết cao, vì nó giúp lưu động hoá
một khối lượng hàng hoá và dịch vụ, đổi phần khả dĩ làm cơ sở cho sức mua của tiền
tệ được vững chắc.
c. Chính sách thị trường mở:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trước kia, các nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHTƯ chiếm một vị trí quan
trọng đặc biệt trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Về sau, người ta thấy rõ mặt hạn
chế của nghiệp vụ tái chiết khấu. Mặt hạn chế đó là NHTƯ muốn mở rộng khối tiền tệ
phải đợi ngân hàng trung gian cảm thấy nhu cầu đi vay lại ở NHTƯ. Mà ngân hàng
trung gian về sau này, một là không muốn đến vay ở NHTƯ vì những điều kiện và thủ
tục của nó, hai là có thể họ không cảm thấy nhu cầu đi vay.
Với thị trường mở, ngân hàng trung gian có thể tìm cho mình nguồn tài trợ cần thiết,
với những thủ tục nhanh, gọn. Cho nên hoạt động của thị trường mở ngày càng quan
trọng hơn, làm giảm bớt hoạt động tái chiết khấu. Qua thị trường này, NHTƯ có thể
tác động đến việc tăng, giảm khối tiền tệ một cách trực tiếp đối với ngân hàng.
Trên thị trường mở, NHTƯ chủ yếu mua, bán trái phiếu của chính phủ. Bằng cách

mua trái phiếu (bất cứ của ai), NHTƯ tăng khối dự trữ của ngân hàng trung gian, vì
ngân hàng này cần dự trữ nên đem bán trái phiếu hoặc bán trái phiếu với lãi suất thấp
để cho vay sinh lợi nhiều hơn (vì NHTƯ với dụng tâm mua cho được trái phiếu thì
mua với giá cao hơn nên lãi suất trái phiếu trở nên thấp hơn). Khi dự trữ của ngân
hàng thặng dư, thí dụ tăng thêm một, ngân hàng trung gian có thể mở rộng khả năng
cho vay gấp 4 hoặc 5 lần, tuỳ theo mức dự trữ bắt buộc (xem chi tiết ở mục 1 "thay đổi
mức dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng trung gian"), vì phần dự trữ tăng lên có tác
dụng như phần tiền gởi ở ngân hàng này.
Thêm vào đó, còn có tác dụng của việc NHTƯ mua trái phiếu của chính phủ với giá
cao hơn và lãi suất hạ xuống kích thích giới doanh nghiệp đi vay, tức là một cách tăng
thêm khối tiền tệ.
Ngược lại, khi muốn giảm bớt khối tiền tệ, NHTƯ bán trái phiếu chính phủ trên thị
trường mở cho bất cứ ai muốn mua: người, doanh nghiệp hay cá nhân (doanh nghiệp
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hay cá nhân mua hay bán đều thông qua tài khoản của ngân hàng). Hậu quả là dự trữ
của ngân hàng trung gian tại NHTƯ giảm xuống, khả năng cho vay của ngân hàng
trung gian bị thu hẹp, nhất là khi tiền mua trái phiếu chính phủ do cá nhân hay doanh
nghiệp mua và trả bằng chi phiếu: tiền gởi không kỳ hạn giảm, làm giảm thiểu khối
tiền tệ.
Nếu không có sự tham gia mua, bán của NHTƯ trên thị trường này, mà chỉ có việc
mua, bán trái phiếu giữa các ngân hàng trung gian với nhau, thì khối tiền tệ nói chung
không thay đổi. Đó là vì một ngân hàng thương mại khác bán và một ngân hàng
thương mại khác mua, thì đối với toàn cục, chỉ có sự di chuyển trái phiếu từ ngân hàng
thương mại này sang ngân hàng thương mại khác và một sự di chuyển ngược lại từ
một phần dự trữ thặng dư của ngân hàng thừa vào dự trữ của ngân hàng đang thiếu.
Chính sách thị trường mở là việc NHTƯ mua bán giấy tờ có giá với mục đích tác động
tới thị trường tiền tệ, điều hoà cung và cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối
dự trữ của các NHTM tại NHTƯ, từ đó tác động đến khả năng cung cấp tín dụng của
các ngân hàng này.
Thuật ngữ "chính sách thị trường mở" lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào những năm 20

khi chính sách này bắt đầu được thi hành. Các nghiệp vụ của NHTƯ Mỹ về thị trường
mở so với các nước khác có phạm vi rộng nhất, bởi vì ở nước này có thị trường giấy tờ
có giá lớn nhất.
Thị trường mở là một trong những cửa ngõ của NHTƯ phát hành tiền vào guồng máy
kinh tế hoặc rút bớt khối tiền lưu thông trong đó, bằng cách mua hay bán những trái
phiếu, bằng những nghiệp vụ gọi là "những nghiệp vụ thị trường mở". Nếu như chính
sách chiết khấu có tác động tổng hợp và có những hạn chế tạm thời, thì chính sách thị
trường mở là công cụ tác động nhanh và linh hoạt. khi mua bán giấy tờ có giá với việc
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
quy định mức giá có lợi, NHTƯ muốn tác động tới nguồn vốn của các NHTM ở
NHTƯ và do đó tác động tới mức cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế và dân
cư.
Ở nước ta, việc thiết lập và điều khiển các thị trường tiền tệ thuộc thẩm quyền của
NHNN Việt Nam theo như quy định tại Điều 48 của Pháp lệnh về NHNN. Vừa qua,
chúng ta mới thành lập thị trường tiền tệ ở hình thức thị trường liên ngân hàng mua
bán bằng lãi suất chớ chưa sử dụng thị trường mở. Khi thị trường tiền tệ phát triển đến
trình độ cao, thì nó sẽ thực hiện nghiệp vụ của thị trường mở, nghiệp vụ của thị trường
mở có liên quan đến thị trường chứng khoán. Thị trường tiền tệ rất quan trọng, nhưng
nó mới chỉ sử dụng chính sách lãi suất, vì nơi đây người ta đi vay và cho vay qua việc
bán và mua những phiếu nợ ngắn hạn. Các trái phiếu ngắn hạn bao gồm nhiều loại
như: công khố phiếu, chứng chỉ ngân khố, thương phiếu bao gồm hối phiếu, lịnh
phiếu, ký hoá phiếu, chứng chỉ ký thác định kỳ Tương lai sau này, thị trường tiền tệ
phải kết hợp với thị trường tài chính để giải quyết các vấn đề tài chính tiền tệ hỗn hợp.
Thị trường tài chính là thị trường chứng khoán, là thị trường của cổ phiếu, phiếu nợ,
công trái Còn thị trường tiền tệ thì thiên về vốn đi vay, ràng buộc mật thiết với lãi
suất ngân hàng. Ở thị trường tiền tệ thường tập trung mọi thành phần tiền có trong lưu
thông; trên thị trường tiền tệ, tiền cũng có giá của nó. Tiền tệ có giá khi tín dụng và
tiền tệ hoà nhập vào làm một và giá của tiền tệ cũng bị chi phối bởi quan hệ cung cầu.
Đối tượng của thị trường tiền tệ là hoạt động mua bán tiền tệ, là lãi suất tín dụng - giá
của tín dụng là lãi suất. Thị trường chỉ được gọi là thị trường mở khi có ngân hàng

trung ương tham gia. Thị trường tiền tệ rất linh động, đặc trưng của nó là ngắn hạn,
thời hạn cho vay của nó có thể là một tháng, một tuần, thậm chí một vài ngày.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thị trường tiền tệ ở Việt Nam chưa hoàn chỉnh, đang trong quá trình đi dần vào quỹ
đạo. Một khi thị trường tiền tệ lớn mạnh, nó sẽ góp phần quan trọng vào sự hữu hiệu
của chính sách tiền tệ.
d. Kiểm soát tín dụng chọn lọc:
Ba công cụ vận dụng để thực thi chính sách tiền tệ kể trên có tác dụng tổng quát là
kiểm soát khối lượng cho vay của ngân hàng, mức lãi suất và khối tiền tệ nói chung.
Nhưng ngân hàng trung gian còn thoải mái ở chỗ là muốn cho ai vay tùy sự xét đoán
của mình, điều đó có nghĩa là ba công cụ nêu trên chưa ảnh hưởng đến cơ cấu tín dụng
mà ngân hàng trung gian cấp cho khách hàng. Nếu không áp dụng chính sách kiểm
soát tín dụng "chọn lọc", ngân hàng trung gian sẽ chỉ hướng tín dụng vào những ngành
kinh doanh lớn, cho xí nghiệp nước ngoài vay hoặc cho vay để mua bán chứng
khoáng, ít chú trọng tới những ngành hoạt động có lợi ích xã hội nhiều hơn như xây
dựng nhà cửam doanh nghiệp nhỏ
Một chính sách kiểm soát tín dụng chọn lọc sẽ giới hạn mức tín dụng tối đa cấp cho
những ngành mà Nhà nước không muốn phát triển nữa, ngược lại ưu đãi những ngành
hoạt động nào được xem như ưu tiên, cần yểm trợ tín dụng mạnh hơn, thí dụ như xây
cất nhà, doanh nghiệp nhỏ hay có sự phân biệt để ưu tiên phát triển những vùng lãnh
thổ đặc biệt so với các vùng khác. Việc yểm trợ tín dụng ưu đãi với một lãi suất ưu đãi
là một đòn bẩy giúp thực hiện chính sách kinh tế của Nhà nước.
Chính sách này muốn đạt mục tiêu của nó, cần nâng cao chất lượng kiểm soát và thanh
tra ngân hàng trung gian, chất lượng đó tuỳ thuộc trình độ nghiệp vụ chuyên môn của
đội ngũ cán bộ và đạo đức liêm khiết của họ.
e. Chính sách lãi suất tiền vay và tiền gởi ngân hàng:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thông thường chính sách lãi suất tiền gởi và tiền vay biến đổi cùng chiều, nghĩa là cả
hai mức lãi suất đó đều tăng lên hay giảm xuống: khi lãi suất tiền gởi được nâng lên,
lãi suất cho vay cũng được nâng lên và ngược lại, tuỳ theo chính sách của NHTƯ.

Ở phần lớn các nước công nghiệp phát triển, NHTƯ theo chính sách tác động gián tiếp
tới lãi suất tiền gởi và tiền vay bằng cách áp dụng lãi suất tái chiết khấu. Căn cứ vào
lãi suất này, ngân hàng trung gian áp dụng lãi suất tiền gởi và tiền vay phần lớn tuỳ
theo tình hình thị trường, thường cao hơn lãi suất chiết khấu. Đối với các ngân hàng
trung gian, lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ có tách cách hướng dẫn. Khi NHTƯ tăng
thêm lãi suất tái chiết khấu, điều đó có nghĩa là NHTƯ muốn hạn chế sự tung thêm
tiền ra lưu thông. Các ngân hàng trung gian sẽ theo đúng đường lối đó và sẽ tăng lãi
suất chiết khấu của mình cùng một tỷ lệ. Như vậy, NHTƯ sử dụng công cụ lãi suất
chiết khấu để hướng dẫn các ngân hàng trung gian theo đúng chính tiền tệ của mình. Ít
khi NHTƯ áp dụng biện pháp ấn định lãi suất. Tuy nhiên, trong nhiều trường
hợpNHTƯ cũng ấn định một "trần" lãi suất tối đa áp dụng cho tiền gởi.
Còn ở các nước đang phát triển, chỉ có Xanh-ga-po và Chi-lê để cho thị trường quyết
định mức lãi suất từ năm 1975. Đến năm 1981, Braxin và Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã thử
nghiệm để phần lớn các loại lãi suất thoát khỏi sự kiểm soát của Nhà nước và từ giữa
năm 1983, Inđônêxia cũng đã để cho thị trường quyết định mức lãi suất. Như vậy, tiền
gởi và tiền vay ở mức tối đa và giao cho NHTƯ quyền điều chỉnh các mức lãi suất đó.
Một trong những lý do được giải thích vì sao không để thị trường quyết định mức lãi
suất tiền gởi và tiền vay là vì thị trường tiền tệ trong nước chưa đủ sức cạnh tranh.
Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu của ngân hàng thế giới cho thấy là những trần lãi
suất cứng nhắc đã làm cản trở sự tăng trưởng về tiết kiệm tài chính và giảm thiểu hiệu
năng của đầu tư. Chính phủ ở nhiều nước đang phát triển ngày càng thừa nhận lãi suất
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chịu sự quản lý của Nhà nước có thể có hại; họ có khuynh hướng để cho thị trường có
tiếng nói lớn hơn. Trong điều kiện sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa thiết lập, Nhà nước
có thể tiếp tục quản lý lãi suất.
Cơ cấu lãi suất ở Việt Nam hiện nay đang được cải tiến. Việc hợp lý hoá chính sách lãi
suất sẽ là yếu tố chủ chốt của việc cải cách lãnh vực tài chánh. Trong một nền kinh tế
thị trường cạnh tranh, việc tính lãi suất đối với mỗi loại giao dịch tốt nhất nên để thị
trường tự quyết định với việc chính phủ sử dụng ảnh hưởng của mình thông qua một
vài lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, khi tình hình kinh tế vĩ mô chưa

được ổn định và các ngân hàng thương mại quốc doanh làm chủ thị trường, thì chính
phủ không tránh khỏi việc phải áp dụng chính sách lãi suất tích cực.
Các mức và cơ cấu lãi suất cần hướng dẫn các mục tiêu sau:
- Khuyến khích tích luỹ và sự trung gian tài chính.
- Hướng các nguồn tài chính vào các hoạt động có tỷ suất lợi nhuận cao nhất.
Một sự thay đổi về mức lãi suất chung sẽ có tác động lớn đến nền kinh tế của một đất
nước trên phạm vi tổng thể. Tuy nhiên, rõ ràng không chỉ lãi suất có ảnh hưởng đến
nền kinh tế của một nước mà còn nhiều nhân tố khác phải được xét đến, ví dụ: tỷ giá
hối đoái với đồng tiền khác, giá dầu lửa, giá các loại nguyên liệu và mức sống.
f. Ấn định một biên vực bắt buộc trong việc cho vay hay kiểm soát tín dụng
Ở những nước công nghiệp phát triển, thị trường chứng khoáng hoạt động rất nhộn
nhịp, các Ngân hành Thương mại thường tài trợ các nghiệp vụ mua cổ phiểu và trái
phiếu theo thể thức thiếu chịu: trong đó người mua chỉ trả tiền ngay một phần trị giá
mua (down payment), số còn lại thì nợ người trung gian khá khoán. Người này giữ
chứng khoán làm vật thế chấp và dùng nó vay lại ở Ngân hàng Thương mại. Số tiền trả
ngay gọi là “biên vực” (margin) lớn thì số tiền vay nhỏ, ngược lại biên vực nhỏ, tiền
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
vay lớn. NHTƯ, nếu muốn bành trướng khối tiền tệ, ấn định một biên vực thấp. Trong
trường hợp hạn chế khối tiền tệ, Ngân hàng trung ương nâng biên vực đó, có thể lên
tới 100% trị giá chứng khoán mua. Biên vực áp dụng trong thập niên 1920 có lúc chỉ
còn 10% hoặc ít hơn. Ngày nay nó thường ở mức từ 50 đến 100%.
Ở nhiều nước đang phát triển, chưa có thị trường chứng khoán, người ta chỉ có thể áp
dụng thể thức này hơi khác hơn một chút, bằng cách ấn định tỷ lệ cho vay áp dụng cho
sản xuất, kinh doanh cao hay thấp tuỳ theo tình hình; nếu muốn bành trướng khối tiền
tệ, tỷ lệ cho vay trên vốn lưu động hay trên trị giá lô hàng thế chấp cao. Ngược lại, khi
muốn hạn chế tín dụng Ngân hàng Thương mại, NHTƯ ấn định tỷ lệ cho vay thật thấp,
làm như vậy là để buộc các đơn vị phải tung hàng tồn kho ra bán, không giữ lại để chờ
giá lên. Và như vậy, nghiệp vụ này giống chính sách kiểm soát tín dụng có chọn lọc,
áp dụng cho từng ngành hoạt động.
g. Kiểm soát tín dụng trên thị trường.

Ở các nước công nghiệp phát triển, thường người ta hay khuyến khích tiêu dùng bằng
nhiều cách, chẳng hạn như bán trả góp. Nhưng trong nhiều trường hợp, nhất là trong
tình trạng chiến tranh, NHTƯ có quyền qui định mức trả tiền ngay cao hay thấp đối
với những nghiệp vụ bán hàng tiêu dùng trả góp hay mua nhà trả góp, để hạn chế hay
khuyến khích các nghiệp vụ này. NHTƯ cũng có thể rút ngắn thời hạn thiếu chịu, bằng
cách tăng thêm tiền trả góp hàng tháng, v.v
Ở nước ta, thể thức mua bán này ít thông dụng nhưng cũng đề cập tới, khi nền kinh tế
đến giai đoạn sản xuất nhiều, thì thể thức bán hàng trả góp tất sẽ phổ biến và NHTƯ sẽ
thấy lúc nào cần áp dụng sự can thiệp của mình.
Các công cụ vận hành để thực thi chính sách tiền tệ trên đây chỉ liên quan đến hai đầu
mối quan hệ của NHTƯ với ngân hàng trung gian và với thị trường tiền tệ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×