Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương và vận dụng với lạm phát ở Việt Nam - 3 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.9 KB, 9 trang )

thẩm quyền đối với NHTM. Điều đó nhằm mục đích thực thi chính sách tiền tệ, giữ
vững hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh, đảm bảo quyền lợi của các doanh
nghiệp và công chúng, đồng thời tạo thuận lợi cho NHTM hoạt động hữu hiệu góp
phần phát triển kinh tế đất nước.
Ngân hàng trung ương được giao quyền bắt buộc các ngân hàng trung gian phải ký gởi
tại NHTƯ một phần của tổng số tiền gởi mà họ nhận được từ dân cư và các thành phần
kinh tế theo một tỷ lệ nhất định. Phần bắt buộc ký gởi đó gọi là dự trữ bắt buộc.
NHTƯ ấn định tỷ lệ đó khi tăng khi giảm tuỳ theo tình hình. Mục đích của việc bắt
buộc dự trữ như vậy là để giới hạn khả năng cho vay của NHTM, tránh trường hợp
ngân hàng này ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, có thể phương hại tới
quyền lợi của người ký gởi tiền ở ngân hàng. Hơn nữa, việc tập trung dự trữ của
NHTM ở NHTƯ còn là một phương tiện để ngân hàng này có thêm quyền lực điều
khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ thuộc của NHTM đối với NHTƯ. Khả năng cho
vay của NHTM bị hạn chế do tỷ lệ dự trữ bắt buộc nêu trên sẽ buộc họ phải đi vay lại
ở NHTƯ, NHTƯ là người cho vay sau cùng của mọi ngân hàng và là cứu tinh của họ
trong những trường hợp khẩn cấp như trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt rút tiền
gởi của công chúng.
Số nhân mức cung tiền n =
NHTM sử dụng công cụ này với nội dung mức cung tiền tệ để tăng V, giảm lượng tiền
cơ sở ngoài lưu thông.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ khối lượng quan trọng nhất của NHTƯ. Việc quy định
dự trữ bắt buộc này làm tăng khả năng điều tiết của NHTƯ đối với các NHTM.
Các công cụ lãi suất của NHTƯ càng phát triển bao nhiêu thì công cụ dự trữ bắt buộc
càng ít quan trọng bấy nhiêu. Ngược lại, chừng nào trong nền kinh tế chưa có thị
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trường chứng khoán, nghiệp vụ hối phiếu cũng như các công cụ kỹ thuật tài chính, tức
là những công cụ có thể phản ứng nhanh trước sự biến động của lãi suất, thì tỷ lệ dự
trữ bắt buộc vẫn còn là công cụ quan trọng của NHTƯ.
Đối với NHTM hiện đại, tức là tạo ra những công cụ thanh toán qua ngân hàng thay
tiền trung ương hoặc cơ số tiền tệ mà NHTƯ không sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc
thì không thể khống chế được khối tín dụng bằng biện pháp kinh tế.


Về nguyên tắc, khi ấn định một mức dự trữ bất buộc ở mức thấp NHTƯ muốn khuyến
khích các ngân hàng trung gian mở rộng mức cho vay của họ, tức là muốn bành trướng
khối tiền tệ. Ngược lại, khi nâng cao mức dự trữ bắt buộc, NHTƯ giới hạn khả năng
cho vay của ngân hàng trung gian, báo hiệu một chính sách tiền tệ "thắtc hặt" hay giảm
thiểu khối tiền tệ, từ đó tác động tới khả năng thu doanh lợi của ngân hàng. Chính vì
vậy, một sự gia tăng dự trữ bắt buộc đòi hỏi phải nghiên cứu trước sức chịu đựng của
ngân hàng trung gian đối với mức dự trữ mới sẽ ban hành. Để cho ngân hàng này
không bị lỗ và cộng tác trong việc thực thi chính sách tiền tệ, NHTƯ có thể trả lãi cho
mức dự trữ thặng dư nào đócủa ngân hàng trung gian, kèm theo một chính sách lãi suất
thích hợp. NHTƯ có thể vận dụng mức dự trữ bắt buộc, chẳng hạn một mức dự trữ bắt
buộc cho loại tiền gởi không kỳ hạn và một mức dự trữ thấp hơn cho loại tiền gởi tiết
kiệm và tiền gởi có kỳ hạn. Cũng có thể áp dụng một tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp hơn
cho ngân hàng hoạt động ở nông thôn
Biện pháp thay đổi dự trữ bắt buộc cần thực hiện một cách thận trọng và muốn có hiệu
quả, cần phải đi kèm những biện pháp khác.
Theo Điều 44 và 45 của Pháp lệnh và Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước có
quyền bắtb uộc các tổ chức tín dụng duy trì:
- Các quỹ dự trữ pháp định.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Các nguồn tiền khách sẵn sàng thanh toán các khoản tiền gởi và nợ theo quy định của
ngân hàng Nhà nước.
- Tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc và các tỷ lệ an toàn khác.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền
gởi ở tổ chức tín dụng. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng quản trị NHNN quyết
định tăng tỷ lệ dự trữ trên mức 35% và NHNN trả lãi cho mức tăng đó, NHNN quy
định mức phạt đối với tổ chức tín dụng vi phạm.
Để thi hành hai điều khoản này, các tổ chức tín dụng mở tài khoản tại NHNN và gởi
vào đó một số tiền gồm hai phần:
- Phần tối thiểu để thoả mãn quy định của NHNN về mức dự trữ bắt buộc.
- Phần thặng dư dùng để giao hoán séc và thanh toán nợ giữa các tổ chức tín dụng theo

thể lệ do NHNN ấn định. Phần thặng dư này nhiều hay ít tuỳ theo tình hình do tổ chức
tín dụng quyết định sao cho việc quản lý được tối ưu, nghĩa là đừng để mức dự trữ bắt
buộc bị thiếu hụt mà bị phạt, hoặc thặng dư quá nhiều thì không sinh lợi.
Khi quyết định gia tăng tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc, NHNN sẽ cho các tổ chức tín
dụng một thời gian đủ để tăng khoảng dự trữ lên ngạch số bắt buộc.
Có một vấn đề rất nhạy cảm và được thường xuyên chú ý là mối liên hệ giữa dự trữ bắt
buộc và vấn đề lời lỗ của các tổ chức tín dụng. Như đã trình bày, một trong những
công dụng của dự trữ bắt buộc là để thực thi chính sách tiền tệ, mà cụ thể là vận dụng
khối tiền tệ theo ý muốn của NHNN. Ở nước ta hiện nay, đại bộ phận của khối tiền tệ
là tiền phát hành, trong khi ở các nước có hệ thống ngân hàng theo nền kinh tế thị
trường, tỷ lệ tiền phát hành chỉ chiếm một phần nhỏ trong khối tiền tệ, còn phần lớn là
tiền gởi không kỳ hạn ở ngân hàng trung gian (nước ta gọi là cơ quan tín dụng). Với
một quá trình tiền tệ hoá cao hơn, một phương tiện ngân hàng khác ra đời và ngày
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
càng trở nên quan trọng: đó là tiền gởi có kỳ hạn. Về mặt pháp lý, tiền gởi có kỳ hạn
tại ngân hàng không thể chuyển nhượng bất cứ lúc nào như tiền gởi không kỳ hạn, nó
chỉ được chuyển nhượng sau một thời hạn nhất định. Nhờ tính cách này, ngân hàng
yên tâm hơn trong việc sử dụng số tiền gởi đó để cho vay và vì vậy ngân hàng trả lãi
cho người gởi theo lối này. Đối với tiền gởi không kỳ hạn tại ngân hàng, hầu hết các
nước cấm trả lãi cho loại tiền gởi này. Cả hai loại tiền gởi (không kỳ hạn và có kỳ hạn)
được gọi chung là động sản tài chính. Khác với các loại tài sản "phi tài chính" như đất
đai, nhà cửa, máy móc động sản tài chính có thể nhanh chóng chuyển sang dạng tiền.
Và tiền là dạng động nhất trong tất cả các dạng tài sản. tiền gởi không kỳ hạn cũng có
tính cách động không kém, vì vậy nó được xếp vào thành phần khối tiền tệ. Còn tiền
gởi có kỳ hạn cũng có tính cách động nhưng kém hơn, cho nên các nhà kinh tế nước ta
trước kia đã không xếp nó vào thành phần khối tiền tệ, mà xem nó là "chuẩn tiền". Tuy
nhiên, từ đầu thập niên 80 trở đi nhiều nhà kinh tế bắt đầu coi những "chuẩn tiền" là
một thành phần của khối tiền tệ, mặc dầu không phải tất cả các nhà kinh tế đều đồng ý
với quan điểm này. Để dung hoà các quan điểm và với sự thận trọng cần thiết, người ta
phân biệt nhiều dạng thành phần khối tiền tệ dưới những ký hiệu khác nhau. Trước

hết, gọi khối tiền tệ gồm tiền phát hành và ký thác không kỳ hạn là M1. Sau khi cộng
thêm vào đó các khoản tiền gởi tiết kiệm và tiền gởi có kỳ hạn tại ngân hàng thương
mại, ta có M2. Nếu cộng thêm vào khối tiền tệ M2, tất cả các loại tiền gởi ở các định
chế tài chính khác, ta có khối tiền tệ M3 gọi chung là động sản tài chính hay là tiêu sản
động.
Ở các nước, ngân hàng thương mại nhận tiền gởi không kỳ hạn rất có lợi vì không phải
trả lãi, vì vậy khi họ bị bắt buộc phải duy trì mức dự trữ tối thiểu tại NHTƯ từ 10 đến
35% tổng số tiền gởi của họ thì không bị lỗ. Trái lại, NHTM ở nước ta vì chưa được
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phép mở "tài khoản tiền gởi không kỳ hạn rút bằng séc" rộng rãi trong các thành phần
dân cư, nên khoản tiền gởi này tương đối ít hơn tiền gởi tiết kiệm và tiền gởi định kỳ.
Nói cách khác, đa số tiền gởi ở NHTM nước ta hiện nay đều phải trả lãi. Do đó, khi
NHNN bắt buộc họ phải duy trì mức dự trữ tối thiểu dù là 10% trên tổng số tiền gởi thì
NHTM sẽ bị lỗ vì phải trả lãi cho số tiền gởi đó của khách hàng. Đó là chưa kể đến
việc còn phải bất động hoá một số thanh khoản tại ngân quỹ của mình mfa không sinh
lời để sẵn sàng thanh toán các khoản tiền gởi và Nợ.
Vậy, để thi hành điều khoản dự trữ bắt buộc, mà không gây ra lỗ lãi cho các tổ chức
tín dụng, thếit nghĩ NHNN có thể chọn lựa một trong hai cách sau đây:
- Một là, hoàn lại số tiền lãi mà các tổ chức tín dụng phải trả lãi cho khách hàng có tiền
gởi.
- Hai là, đợi tới khi nào NHNN cho phép sử dụng tài khoản tiền gởi không kỳ hạn (còn
gọi là tài khoản séc) một cách rộng rãi trong mọi tầng lớp dân cư.
Cả hai biện pháp tránh cho NHTM không bị lỗ và tự giác cộng tác với NHNN.
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là tác dụng bội số của sự vận dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với mức tăng, giảm của khối tiền tệ. NHNN nước ta thường xuyên gặp phải tình
trạng thiếu tiền mặt là vì dân cư chưa được phép sử dụng rộng rãi tài khoản tiền gởi
không kỳ hạn dùng séc. Về phương tiện kỹ thuật ngân hàng, nếu tiền gởi không kỳ hạn
tại một ngân hàng thương mại gia tăng thêm là 1.000 đồng, tổng số tiền gởi không kỳ
hạn trong toàn bộ hệ thống ngân hàng tăng lên gấp bội, có thể từ bốn năm lần đến
mười lần số tiền gởi tăng thêm ban đầu, tuỳ theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHNN ấn

định. Chính vì lẽ đó, khi NHNN bơm một lượng tiền là 1.000 đồng vào hệ thống ngân
hàng thì khối tiền tệ có thể tăng thêm một số tiền bằng gấp bội số tiền đó. Ngược lại,
nếu NHNN rút bớt một số tiền 1.000 đồng ra khỏi hệ thống ngân hàng, khối tiền tệ có
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thể giảm bớt một số tiền cũng gấp bội. Như vậy, hệ thống NHTM không thể tạo lập
tiền từ hư không, nếu không có tiền trung ương (tiền do NHNN phát hành). Mức tạo
tiền do tỷ lệ dự trữ bắt buộc quyết định. Từ đó, có thể thấy rằng, thông qua việc cung
ứng tiền trung ương và tỷ lệ dự trữ bắt buộc NHTƯ có thể tăng hay giảm khối tiền tệ,
hay nói cách khác, NHTƯ hoàn toàn làm chủ khả năng kiểm soát lượng tiền cung ứng
cho nền kinh tế.
Muốn tạo ra tiền, phải sử dụng cả hệ thống ngân hàng. Một ngân hàng đơn độc không
có khả năng tạo ra tiền. Để minh hoạ, có thể xem thí dụ sau đây: giả sử tỷ lệ dự trữ bắt
buộc là 10%, nghĩa là ngân hàng kinh doanh cứ 100 đồng thì phải có 10 đồng ở trạng
thái dự trữ. Giả sử NH A có 1.000 đồng do ai đó gởi, nó có thể cho vay 900 đồng, còn
100 đồng để dự trữ . Giả sử ai đó vay được 900 đồng của Ngân hàng A và sau đó nộp
vào ngân hàng B. Lúc này, NH B lại có thể cho vay 810 đồng và để dự trữ 90 đồng.
Bằng cách nào đó NH C lại có được khoản 810 đồng mà NHB đã cho vay và đến lượt
mình, NH C lại có thể vay 729 đồng và bắt buộc phải để 81 đồng dự trữ theo quy
định Như vậy, số tiền được cho vay có thể lớn hơn số tiền 1.000 đồng ban đầu rất
nhiều. Theo thí dụ vừa nêu, số gia tăng tiền gởi ban đầu là 1.000 dồng và qua cơ chế
cho vay và ký thác tiếp theo, số ký thác ứng lập gia tăng ở mỗi ngân hàng, nhưng
ngạch số giảm dần. Ta có thể tiếp tục theo dõi hoạt động cho vay của hệ thống ngân
hàng từ số tiền gởi gia tăng ban đầu cho đến khi, vì lý do phải dự trữ tại ngân hàng
Nhà nước nên lần lần bị triệt tiêu. Tổng cộng lại, ta sẽ có số gia tăng tiền gởi không kỳ
hạn từ đầu cho đến cuối như sau: 1.00 + 900 + 729 + 656, L + = 10.000 đ. Như vậy,
với số tiền 1.000 đồng ban đầu ở một ngân hàng đơn độc, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%
thì cả hệ thống ngân hàng đã tạo thêm được 9.000 đồng tiền gởi. Sự thay đổi tiềm tàng
trong tiền gởi có thể được tính bằng công thức tổng quát sau:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Số tiền ban đầu x 1 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Số nhân viên tiền tệ hay thừa số tiền tệ tạo ra từ việc lấy 1 chia cho tỷ lệ dự trữ tại các
NHTM = với tỷ lệ dự trữ 10%, số nhân = 1 : 10 100 10 lần.
Điều đáng chú ý là với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%, thì tiền trung ương sẽ có bội số 10
(hệ số tạo tiền) khi nó đi qua các NHTM để trở thành tiền tín dụng và ngược lại, mức
cung tiền tệ sẽ giảm đi 10 lần khi tiền trung ương giảm đi 1. Nếu ngân hàng giữ cả
100% làm dự trữ thì ngân hàng không tạo ra tiền. Do đó, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt
buộc cho hợp lý là một nghệ thuật.
Qua cách trình bày trên, có thể hình dung được rằng, bằng việc vận dụng tỷ lệ dự trữ
tối thiểu bắt buộc, NHTƯ có thể tăng hay giảm khối tiền tệ.
Tuy nhiên, tiến trình gia tăng bội số trên đây đặt trong một bối cảnh lý tưởng, cho nên
tác dụng đó tối đa. Trong thực tế, có nhiều phản ứng không hoàn toàn thuận lợi như
vậy, cho nên tác dụng của nó có thể sẽ ít hơn.
Thứ nhất, người gởi tiền ban đầu và những người gởi tiền kế tiếp để yên số tiền gởi
của mình, không rút ra để chi trả những cuộc giao dịch khác. Nếu yếu tố này nảy sinh,
nó sẽ làm giảm bớt hiệu lực bội số gia tăng trong số tiền gởi về sau.
Thứ hai, những người nhận được những món tiền chi trả có thể ký gởi một phần vào
tiền gởi tiết kiệm hay định kỳ, tức là giảm bớt tác dụng bội số của mức gia tăng nói
trên.
Thứ ba, các ngân hàng có thể không kiếm đủ khách hàng để cho vay tới mức tối đa.
Thứ tư, trong rất nhiều trường hợp, hoạt động kinh tế phát triển, nhu cầu tiền mặt trong
lưu thông phải nhiều hơn, do đó có khả năng những cuộc chi trả do khách hàng vay ở
ngân hàng thực hiện sẽ không trở lại ngân hàng ngay, tức là giảm bớt khả năng cho
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
vay và sáng tạo ký thác ở những ngân hàng kế tiếp (khách hàng rút tiền mặt, còn gọi là
"tiêu huỷ bút tệ")
Dẫu sao tác dụng bội số vẫn có, mặc dù tác dụng đó ở mức thấp hơn mức độ đã chứng
minh qua công thức nói trên. Tác dụng bội số vẫn có, dù ngân hàng sử dụng tiền gởi
không kỳ hạn hay tiền gởi tiết kiệm hoặc tiền gởi định kỳ, cũng theo một diễn trình
như trên, nhưng ở mức độ thấp hơn một chút.
Ngoài tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHNN còn buộc các tổ chức tín dụng dự trữ các nguồn

tiền khác sẵn sàng thanh toán các khoản tiền gởi và Nợ (tỷ lệ thanh khoản tối thiểu).
NHTM phải dự trữ tại chỗ một số thanh khoản tối thiểu do NHNN quy định tuỳ thời
kỳ. Thông thường nguồn tiền sẵn sàng thanh toán gồm có tiền mặt, các trái phiếu kho
bạc.
Mục đích của việc duy trì tỷ lệ thanh khoản này là bảo vệ quyền lợi của người gởi tiền,
kiểm soát khối lượng tiền tệ và tín dụng và tiến hành chính sách tiền tệ. NHNN có thể
ấn định cho NHTM một phần suất tối thiểu trái phiếu kho bạc so với tổng số tiền gởi
nhận được.
Các ngân hàng được dự tính trái phiếu kho bạc dưới hình thức tài khoản vãng lai (giao
dịch) mở tại NHNN và do NHNN quản lý. Số dư tài khoản "Trái phiếu kho bạc" này
được tính vào tỷ lệ thanh khoản tối thiểu NHTM phải duy trì. Các trái phiếu kho bạc
có lãi do NHNN quy định.
Nhìn chung, dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất hành chính của NHTƯ nhằm
điều tiết mức cung tiền tệ của NHTM cho nền kinh tế, thông qua hệ số tạo tiền (hệ số
nhân tiền tín dụng) đối với lượng tín dụng của các NHTM cung ứng cho nền kinh tế.
Mức dự trữ bắt buộc do luật pháp quy định. Đó là một tỷ lệ nhất định tiền gởi của
khách hàng mà NHTM thu hút được (ở một số ít nước, là tỷ lệ nhất định các khoản tín
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
dụng đã cấp) phải gởi vào một tài khoản không lãi ở NHTƯ. Dự trữ bắt buộc là biện
pháp kiểm soát cung ứng tiền tệ, chớ không phải là cách để cho tiền ổn định. Nó có ý
nghĩa to lớn để điều hoà cung cầu trên thị trường tiền tệ, thực hiện yêu cầu của chính
sách tiền tệ.
b. Biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu:
Đứng về phương diện nghề nghiệp ngân hàng, NHTƯ là "người của các ngân hàng".
Với vai trò này, có thể nói NHTƯ là người "ơn" là vị cứu tinh của ngân hàng trung
gian, nhất là ngân hàng thương mại. Nếu trong một nước không có NHTƯ, nghề làm
ngân hàng sẽ rất nguy hiểm, vì dễ rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả mà ở sau
lưng ngân hàng không có chỗ dựa, không có người cho vay sau cùng (là NHTƯ với
khả năng vô biên).
Chức năng người "cho vay cuối cùng" chỉ phục vụ việc duy trì tính co giãn cần thiết

của việc cung ứng tiền cho toàn bộ hệ thống ngân hàng, chứ không phải là cho từng
ngân hàng riêng lẻ. Điều đó cho thấy rõ một mặt NHTƯ bảo đảm khả năng thanh toán
cho toàn hệ thống ngân hàng và mặt khác phải điều tiết hoạt động kinh doanh của từng
ngân hàng thông qua hoạt động thanh tra tín dụng, sao cho lòng tin của khách hàng
vào hệ thống ngân hàng không bị mất đi. Nếu trong bất cứ trường hợp những khoản nợ
phải đòi nào, NHTƯ cũng phải can thiệp vào với tư cách là người cho vay cuối cùng,
thì NHTƯ sẽ mất đi khả năng duy trì sự khan hiếm của tiền tệ.
Đối với NHTM, lẽ sống còn của họ là nhận tiền gởi của mọi giới và cho vay phần lớn
tiền gởi đó. Ngân hàng nhận tiền gởi tiết kiệm, tiền gởi định kỳ, có trả lãi. Đa số các
nước cấm ngân hàng trả lãi trên tiền gởi không kỳ hạn, ngân hàng phải cho vay tới
mức mà NHTƯ cho phép để tối đa hoá doanh lợi, ngoài việc đài thọ các chi phí, tiền
trả lãi Nhưng không phải l úc nào hoạt động ngân hàng cũng đều thuận lợi. Có
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×