Nhân vật của tiểu thuyết
"Hậu chiến"
Văn học “hậu chiến” là một khái niệm ước lệ chỉ một giai đoạn văn học ngay sau
chiến tranh mà cảm hứng chính của nó vẫn là suy ngẫm về chiến tranh trong hoàn cảnh
mới, của những con người vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh, còn bị chi phối bởi quán
tính cuộc chiến. Bài viết này xem xét việc thể hiện nhân vật của tiểu thuyết về đề tài chiến
tranh Việt Nam trong khoảng hai mươi năm sau 1975, thời kỳ có thể tạm gọi là văn học
hậu chiến. Thời gian “hậu chiến” như vậy thật quá dài, nguyên nhân một phần là do
những năm 1979-1980 đã nổ ra các cuộc chiến tranh biên giới.
Từ rất sớm, trong bài Viết về chiến tranh (1978), Nguyễn Minh Châu đã đặt ra câu
hỏi cho hướng đi của tiểu thuyết chiến tranh sau thời chiến. Khi “tất cả những vấn đề quy
luật của chiến tranh đã phát triển trọn vẹn, những số phận và tính cách nhân vật cũng đã
phơi bày trọn vẹn”, khi trong hàng chục cuốn hồi kí của các tướng lĩnh “có rất nhiều sự
kiện, nhiều bối cảnh lịch sử được kể lại một cách hết sức cụ thể”, “tiểu thuyết viết về
chiến tranh sẽ tìm trong lĩnh vực nào để mình có một chỗ đứng không trùng lặp với chỗ
đứng của hồi kí chiến tranh?”. Sự lựa chọn duy nhất là “phải viết về con người”. Con
người với “tất cả những mặt tính cách đa dạng phải phơi bày trong đời sống thực” mà đã
nhiều thập kỉ qua “tạm thời giấu mình trên trang sách”. Tiểu thuyết chiến tranh không thể
để các nhân vật bị sự kiện lấn át, “chỉ đóng vai trò làm đường dây để xâu các sự kiện lại
với nhau”
(1)
. Nhìn lại quá khứ đã qua, khoảng cách thời gian đã đưa lại cho người cầm bút
những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc về số phận con người ở khía cạnh mà trước đây
luôn bị làm mờ đi, nhạt đi trước số phận dân tộc: khía cạnh bi kịch cá nhân. Cảm hứng bi
kịch là cội nguồn cho sự xuất hiện của một loại nhân vật mang diện mạo tinh thần hoàn
toàn mới trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975, nhất là sau 1986 nhờ nỗ lực đổi mới và
dân chủ hóa đời sống văn hóa văn nghệ.
Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết hậu chiến có thể được đánh dấu từ Thời xa
vắng (1986) của Lê Lựu, một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam bấy giờ. Tiếp sau
đó, cảm hứng bi kịch vẫn được tập trung thể hiện sâu đậm hơn cả trong bộ phận tiểu
thuyết hậu chiến. Cắt nghĩa, lí giải, nhận thức lại hiện thực bằng cảm hứng bi kịch, tiểu
thuyết hậu chiến đã thực sự đem lại cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc. Với những
tác phẩm tiêu biểu như Thời xa vắng (Lê Lựu), Mảnh đất tình yêu(Nguyễn Minh
Châu), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Bến không chồng (Dương Hướng), Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai)… sự xuất hiện của kiểu nhân vật mới
trong tiểu thuyết chiến tranh – con người suy tư, con người bi kịch – là dấu hiệu quan
trọng bước đầu khẳng định sự đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết và những dấu hiệu
xác lập lộ trình mới của văn học Việt Nam hiện đại.
Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân vật người lính trong tiểu thuyết hậu chiến là
họ không bộc lộ mình trong những sự kiện ác liệt được lấy làm bối cảnh chính của tác
phẩm như một “kiểu nhân vật hành động” mà chủ yếu xuất hiện trong trạng thái suy tư,
chiêm nghiệm, “sống với thời gian hai chiều”. Người lính trong tiểu thuyết hậu chiến vừa
là con người của thời hiện tại, trực tiếp đối mặt với cuộc sống thường ngày vừa là con
người của quá khứ trong nhu cầu nhận thức lại quá khứ ấy. Một mặt, họ ý thức rõ ràng về
sự tồn tại của bản thân khi đã đi qua một thời khói lửa với tư cách của người chiến thắng;
mặt khác, cái giá phải trả cho chiến thắng ấy nhiều lúc lại dẫn dụ họ ngoái nhìn về quá
khứ. Chiến trường xưa với diễn biến của một chiến dịch, một trận càn, những đồng đội
thân thiết hay chỉ thoáng biết nhau qua một lần gặp gỡ… khiến những cựu binh sống lại
trong chiến thắng và mất mát, tình yêu và hận thù, sự đầm ấm của tình người và cả những
cay đắng trước sự yếu hèn, bội phản
Trong Chim én bay, Quy - một nữ du kích anh hùng, từ thời điểm hiện tại với một
vị trí xã hội đáng nể trọng vẫn khôn nguôi dằn vặt, day dứt ngoái nhìn về quá khứ
(2)
.
Trong Ăn mày dĩ vãng, Chu Lai đã đặt Hai Hùng trong sự đan bện đồng thời của hai diễn
trình: một cuộc hành trình tâm tưởng tìm về quá khứ và một cuộc hành trình hướng vào
thực tại để xác minh lại quá khứ ấy. Cuộc gặp gỡ tình cờ với người phụ nữ tưởng có số
phận đã chôn chặt cùng quá khứ của anh, bỗng chốc xáo tung tất cả hiện tại. Quá khứ trỗi
dậy làm phần đời còn lại của người lính đã bị chiến tranh vắt kiệt trở thành những tháng
ngày không yên ả giữa thời bình. Đó cũng là chủ đề mà Chu Lai hướng tới trong tiểu
thuyết trước đó: Vòng tròn bội bạc (1987). Cuộc sống thời bình ác nghiệt đã xô đẩy ba
người lính may mắn của cả một đại đội còn sống sót đi theo những ngả đường khác nhau,
thậm chí tình cảm đồng đội thắm thiết khi xưa cũng nhanh chóng phai nhạt trước sức cám
dỗ của đồng tiền. Con người còn giữ trong mình những tình cảm tốt đẹp của thời đã qua
trở thành lạc lõng mà không dám tin rằng mình lạc lõng. Chỉ đến khi bị đẩy ra rìa cuộc
sống mới đau đớn nhận ra rằng cả một thế hệ như mình hăng say lao vào cuộc chiến vinh
quang mà quên chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết khi ra khỏi cuộc chiến để
bước vào đời thường; cứ tưởng đời thường thì bình dị ai ngờ lại lắm bão dông đến thế! Vì
thế, quá khứ luôn là nỗi ám ảnh khôn nguôi, quá khứ đeo đẳng suốt cuộc đời họ. Với Kiên
trong Nỗi buồn chiến tranh, quá khứ đã thành sức mạnh ghê gớm kéo anh quay cuồng
trong những hồi ức triền miên không dứt, “ngày này qua ngày khác, đêm thâu này thấu
đêm thâu kia”. Quá khứ hầu như đã trở thành bầu “sinh quyển” bao bọc đời sống của anh:
“Biết bao kỷ niệm bi thảm, bao nhiêu là nỗi đau mà từ lâu lòng đã nhủ lòng là phải gắng
cho qua đi, rốt cuộc đều dễ dàng bị lay thức bởi những mối liên tưởng tuồng như là không
đâu nảy sinh một cách khôn lường từ muôn vàn những chi tiết tầm thường, rời rạc, vô vị
nhất có thể có” của đời sống thường ngày. Để đến nỗi, “đêm đêm giữa chừng giấc ngủ, tôi
nghe thấy tiếng chân tôi từ những thuở nào đó rất xa rồi vang lên trên hè phố lát đá”. Đối
với người lính ấy, cuộc đời “có khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng
bị đẩy lui vào dĩ vãng” và “tương lai đã nằm lại ở phía sau xa kia rồi”
Hệ quả của nhận thức mới về lịch sử, về hiện thực và con người đã khiến tiểu
thuyết hậu chiến dần hướng vào việc khám phá người lính dưới góc độ cá nhân, đời
tư chứ không tiếp tục xây dựng những hình tượng về con người anh hùng mang tiếng nói
đại diện cho cộng đồng như tiểu thuyết giai đoạn trước. Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật
về con người đã trở thành hạt nhân của những thành tựu mà tiểu thuyết hậu chiến đóng
góp cho văn học chiến tranh Việt Nam. Khi được hiện lên với tất cả những tính chất đa
diện của con người đời thường, người lính hiện ra chân thực, gần gũi và ám ảnh hơn trong
chân dung của nhữngnhân vật bi kịch. Tiểu thuyết hậu chiến đã tập trung chú ý đến khía
cạnh này của người lính, đặc biệt là bi kịch tinh thần, “khổ vì trí tuệ” của họ trước những
phức tạp của cuộc sống mới. Bởi với họ, những người “chưa chuẩn bị hành trang cho
cuộc sống thời bình”, thì chiến tranh, dù khắc nghiệt đến đâu, vẫn là cái gì đó rất giản dị:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước - Chỉ cần trong xe có một trái tim”…
Với tiểu thuyết hậu chiến, lần đầu tiên trong văn học chiến tranh, người lính đã
được nhìn nhận như một “cá thể người” chứ không phải là hình ảnh biểu trưng cho tập
thể, cho cộng đồng. Với Quy (Chim én bay), chiến tranh không chỉ cướp đi những người
thương yêu nhất mà còn đẩy chị vào bất hạnh lớn nhất của người phụ nữ khi bị tước đoạt
khả năng làm vợ, làm mẹ. Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng) lại trở về đời thường với một ngoại
hình biến dạng mà “nếu cách đây hai mươi năm, một ai đó đã có dịp gặp anh thì thật khó
hình dung ra con người anh bây giờ”. Nhưng những thương tổn về thể xác vẫn chưa phải
là điều đáng kể đối với Hai Hùng. Hành trình tìm lại chân dung đích thực của Ba Sương -
người phụ nữ anh yêu thương trọn đời, mới là nỗi ám ảnh thường trực trong anh, mới là
nguyên nhân của những dằn vặt, đau khổ… Và chính ở đây, cái chân dung tinh thần của
người lính hậu chiến đã có được những nét phác họa: trên cơ thể bầm dập vì chiến tranh,
người lính không nguôi ngoai khi hướng về quá khứ.
Bi kịch của người lính trong tiểu thuyết hậu chiến còn là đánh mất mình ngay cả
trong những suy nghĩ, ước muốn, khát khao chính đáng và đời thường nhất. Điều gì đã
khiến Giang Minh Sài (trong Thời xa vắng) nhanh chóng phục tùng, chấp nhận trước
những áp đặt của gia đình, họ hàng, đơn vị? Để rồi phải thốt lên: “Giá ngày ấy em cứ sống
với tình cảm của chính mình, mình có thế nào cứ sống như thế. Không sợ ai, không chiều
theo ý ai, sống hộ ý định người khác, cốt để cho đẹp mặt mọi người chứ không phải cho
hạnh phúc của mình”. Cái “giá như” mà Giang Minh Sài chua chát rút ra ấy là kết quả của
cả một đời bi kịch: “nửa đời phải yêu cái người khác yêu”, “nửa đời còn lại đi yêu cái
mình không có”. Còn trong Bến không chồng, Nguyễn Vạn dù trở về làng Đông trong
hình ảnh một vị anh hùng lấp lánh huân huy chương trên ngực áo nhưng đằng sau vẻ rạng
rỡ ấy vẫn là một tính cách hằn in di chứng chiến tranh, hằn in nếp suy nghĩ của truyền
thống nông dân thâm căn cố đế. Nguyễn Vạn sống lặng lẽ, cô đơn, luôn gắng che giấu
những nỗi niềm, khao khát riêng tư, không dám “bước qua lời nguyền” giữa hai dòng họ
để có được chút hạnh phúc sưởi ấm quãng đời còn lại. Tôn thờ lý tưởng đến mức tuyệt
đối, không một phút dám sống cho bản thân mình, cái chết không những không giúp
Nguyễn Vạn giải thoát, thậm chí cũng không mảy may đem đến hạnh phúc cho mẹ con,
bà cháu Hạnh, những người phụ nữ mà cả đời Nguyễn Vạn hằng yêu quí.
Thể hiện người lính sau chiến tranh với tư cách là những con người cá nhân, con
người có số phận riêng biệt, đóng góp đáng kể nhất của tiểu thuyết hậu chiến là đã đi sâu
vào vấn đề bi kịch tinh thần của người lính. Việc “kể lại”, “nhớ lại”, “viết lại” của chính
những con người đã từng cầm súng về cuộc đời họ, về cuộc chiến tranh mà họ đã đi qua
khiến nhiều tiểu thuyết hậu chiến mang dáng dấp của tự truyện, chí ít cũng là sự nghiệm
trải của những người lính đã dành cả phần đời tươi đẹp nhất của mình cống hiến cho cuộc
đấu tranh chung. Quá khứ đó cùng với những thức nhận về thực tại hậu chiến, khi nhiều
bí mật được phơi bày, nhiều giá trị đời sống thường nhật bị đảo lộn, đã nhiều lúc đẩy
người lính vào tình cảnh những con người mang bi kịch nhận thức.
Chiến tranh trong tiểu thuyết hậu chiến không phải là “hữu lý” mà chủ yếu là một
“nghịch lý” (Hoàng Ngọc Hiến), bởi không đâu như ở đây, người lính trong tư thế người
chiến thắng trở về lại mang “nỗi buồn được sống sót”. Họ cảm thấy mình “bị bắn ra khỏi
lề đường” (Ăn mày dĩ vãng), “bị mắc kẹt lại trên cõi đời này” (Nỗi buồn chiến tranh). Họ
cô độc và chẳng có gì trong “chuỗi ngày bất tận… nhạt thếch, buồn tẻ và êm đềm đến
phát ốm” của hiện tại. Họ không có gì bấu víu ngoài “mảnh quá khứ phập phồng đập
trong lồng ngực ọp ẹp”. Họ hụt hẫng, đau xót và phẫn nộ trước thái độ thờ ơ của mọi
người đối với cuộc chiến mà thế hệ họ đã “quăng mình vào”: “Chiến tranh mới đó, hơn
chục năm chứ nhiều nhặn gì đâu mà sao cả người ngoài lần người trong cuộc đều chóng
vánh quên đi quá thể vậy? Sao… nhắc đến mọi kỷ niệm đau thương lại ráo hoảnh như
nhắc đến cuộc chiến tranh của người khác, của quốc gia khác?” (Ăn mày dĩ vãng). Và
trong sự hụt hẫng ấy, cái quá khứ mà thiên hạ đang quên đi, cố quên đi lại không thôi
quấn lấy họ, ám ảnh họ như thể nó là người bạn đồng hành duy nhất cùng họ vượt nốt
chặng đời còn lại. Nếu Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng) còn giữ được chút tỉnh táo để điều
chỉnh những hồi tưởng của mình cho mạch lạc thì Kiên (Nỗi buồn chiến tranh) hoàn toàn
rơi vào trạng thái bấn loạn, rối bời, triền miên trong mộng mị, vô thức. Sẽ là bội bạc, hay
thiếu văn hóa, hay là điều gì thê thảm hơn khi hình tượng người lính đẹp đẽ khi xưa đã
nhanh chóng bị đồng loại vấy bùn, rẻ rúng? Cái gì đã nhanh chóng đẩy người lính trượt từ
nấc thang cao vọi: anh giải phóng quân, xuống nấc trung tính: người lính, và… “dưới
đáy”: lính tráng, như một hình dung từ mỉa mai cay độc nhất? Là tại họ hay tại cộng đồng
họ? Vì vậy, chiến tranh đã gắn với người lính như một “thân phận”. Trong Nỗi buồn
chiến tranh, hai chữ “thân phận” luôn luôn ám ảnh tâm trí Kiên. Trước khi bước vào cuộc
chiến, trong giờ khắc ngắn ngủi bên Phương để thật sự chia lìa, anh cảm thấy “sự bất lực
và nhỏ bé của thân phận, của nỗi niềm riêng tư của một hai con người giữa biển đời”. Sau
chiến tranh nhìn lại, anh càng thấm thía “thân phận con sâu cái kiến” của người lính trước
“gánh nặng bạo lực”. Chiến tranh là “nguyên nhân của mọi khúc đoạn và nông nỗi của đời
anh” và khi đi tìm ý nghĩa thực của đời mình, Kiên thấm thía một điều rằng: mình và bao
đồng đội đều là nạn nhân của cuộc chiến, dù kẻ mất người còn nhưng “mỗi người đều bị
chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng”. Sự sống sót của Kiên xét đến cùng là một sự
chết dần về tinh thần. Đã có lúc anh tin rằng mình đã phục sinh, “nhưng là một sự phục
sinh lùi về sâu xa. Sẽ mỗi ngày một lùi xa hơn, sẽ không ngừng phục sinh trong chuỗi dài
tái hiện” và cuộc đời mới của anh “chính là cuộc đời đã qua, là tuổi trẻ đã mất đi trong nỗi
đau buồn chiến tranh”. Đó tưởng như lại là một nghịch lí nữa xảy ra với người lính trở về
nhưng thực chất là một sự lựa chọn để giải thoát. Rõ ràng, trốn tránh hiện tại bạc bẽo, trốn
tránh sự vây bọc của xã hội kim tiền, người lính tìm về với phần đời thời chiến tranh đã bị
rơi vào một bi kịch “đúp” của sự nhận thức: bi kịch chiến tranh của kẻ tham chiến và bi
kịch hậu chiến của kẻ mang danh chiến thắng nhưng đang bị cộng đồng chiến thắng đào
thải.
Sự nhận thức lại về bản chất chiến tranh ấy gắn liền với những trăn trở, day dứt của
người lính về vấn đề nhân tính. Ít đề cập đến vấn đề ý thức hệ, người lính trong tiểu thuyết
hậu chiến được soi chiếu dưới cái nhìn mang tính nhân loại phổ quát. Họ là những con
người đi qua chiến tranh, phải buộc trở thành những “cỗ máy giết người” không ghê tay,
phải giết chóc để tồn tại và coi đó là cái lẽ tất yếu để tồn tại. Trong Nỗi buồn chiến tranh,
Can - một đồng đội của Kiên đã bộc bạch: “Tôi vẫn tự nhủ là tránh giết người bằng dao và
lê mà quen tay mất rồi”. Kiên cũng đã phải chứng kiến tận mắt “những cảnh chém giết
cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng”, mà rồi… “cả thế hệ anh đã lao vào trận
chiến một cách hăng say, một cách hung dữ”. Tình người, lòng nhân đạo không có chỗ
trong cõi một sống một chết như chiến tranh. Bởi khi người lính trong một khoảnh khắc
đánh mất lý trí vì lòng thương có thể bị trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhưng có
những hoàn cảnh, lòng thương trỗi dậy mạnh mẽ như một thứ bản năng trong mỗi người
lính, khiến giữa những con người cầm súng bên hai đầu chiến tuyến không còn sự phân
biệt địch – ta mà chỉ còn niềm thương xót cho số kiếp làm người. Câu chuyện của Phán
trong Nỗi buồn chiến tranh là một trường hợp như thế. Trong một trận chiến giữa đại đội
trinh sát của Phán và một đại đội biệt động của ngụy vào một chiều mưa, như một sự sắp
đặt của định mệnh, Phán và một kẻ thù cùng ngã lộn vào một hố bom. Ban đầu, theo bản
năng tự vệ, Phán đã đâm tới tấp vào tên ngụy. Nhưng khi nhận ra anh ta đã bị thương từ
trước đó thì Phán thấy “khủng khiếp quá và thương tâm quá!”. Anh “xé áo để băng”, chạy
đi tìm bông băng nhưng cơn mưa rừng ập tới khiến anh lạc mất cái hố có tên lính ngụy bị
thương đang nằm đó. “Ngụy ơi, Ngụy ơi, tôi gọi lồng lên chạy tìm cuống quýt… Nghĩ tới
cảnh ngộ của anh ta lòng tôi đau đớn cuồng thắt. Suốt đêm tôi mò mẫm lăn lộn lần
tìm…”. Tiếng gọi và hành động cuống cuồng, tuyệt vọng ấy của Phán, là sự thức tỉnh của
lòng nhân tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm tính người hay là chút đỏng đảnh của “thời tiết của
ký ức”?!
Chiến tranh tàn phá nhân tính trong cuộc chiến hẳn là một lẽ, nhưng chưa thôi,
chiến tranh bịt chặt cả con đường trở lại với bản thể sáng trong của tâm hồn con người.
Những mối tình trong chiến tranh, cái sợi chỉ mỏng manh níu kéo con người bền bỉ vượt
qua chiến tranh ác liệt, cái ngọn lửa nuôi nấng khát vọng được sống trong hạnh phúc thời
bình nhiều lúc đã phụt đứt trong lửa đạn. Giống tâm trạng của Hai Hùng khi hồi tưởng về
mối tình với Ba Sương trong Ăn mày dĩ vãng, trên hành trình tìm lại chính mình, kí ức đã
rất nhiều lần vò xé vào một nỗi đau khôn nguôi trong lòng Kiên. Đó là tình yêu với
Phương. Nhớ lại quá khứ đã qua hay thổn thức với mất mát trong hiện tại, Kiên đều cay
đắng nhận ra “thân phận của tình yêu” trong thời chiến. Tình yêu say đắm và đớn đau đến
trọn đời của anh và Phương là sức mạnh nâng đỡ tâm hồn Kiên nhưng cũng là vết thương
mà thời gian không thể xoa dịu. Hình ảnh chuyến tàu định mệnh trở đi trở lại trong dòng
hồi tưởng của Kiên là một ám ảnh đau đớn, một biểu tượng về sự mất mát của anh trong
cuộc đời, trong tình yêu. Trên chuyến tàu vào ga Thanh Hóa ấy, Kiên và Phương đã “đi
nốt với nhau những cây số cuối cùng của mối tình đầu”, đồng thời cũng cập bến một cuộc
chiến tranh vô cùng tàn khốc. Bước ngoặt số phận của hai người được đánh dấu trên một
hành trình ngập tràn bóng đen đêm tối: bắt đầu từ “phố xá tối câm” qua “sân ga tối om”,
đến con đường với “bóng tối đặc sệt bụi”, ca-bin “không đèn tối om” của một chiếc xe tải
lao nhanh trong “bóng đêm cuồn cuộn”, “đường đêm tăm tối”, cuối cùng là một toa tàu
hàng vào Vinh “tối đen, nghẹt thở” đi trong “đêm tối chiến tranh mênh mông”. Đối với
Kiên và Phương, chuyến tàu ấy đã cắt lìa cuộc đời mỗi người thành hai nửa không bao giờ
hàn gắn lại được và đẩy họ về hai phía xa nhau mà tình yêu chỉ làm tăng thêm khoảng
cách. Kiên từ một chàng trai đầy lí tưởng, khát vọng rơi vào đau đớn, hoang mang trước
bão táp chiến tranh. Phương từ một cô gái trong trắng, thanh tân trở thành một người phụ
nữ phóng túng, bất cần. Kiên “muốn hiến đời mình cho sự nghiệp” còn Phương sẽ “phung
phí đời mình, sẽ hủy diệt nó”. Kiên mất Phương mãi mãi chính trong lần đầu hai người bị
bật ra khỏi nhau trên chuyến tàu ấy chứ không phải trong cuộc chia li đến sau hòa bình.
Cuộc sống chung khi Kiên trở về không thể hàn gắn vết thương quá khứ mà ngược lại, chỉ
làm “đổ bể tâm hồn nhau”. Với Kiên, “mảnh đời còn lại sau mười năm bị lửa đạn của
chiến tranh vằm xé lại bị móng vuốt của tình yêu xéo nát”. Kí ức đã không buông tha anh,
“nỗi đau ngày xưa làm sao mà nhổ nổi. Cái vết thương lòng kinh tởm ấy lúc nào cũng
định banh miệng. Những cay đắng tủi hổ, những hồi ức trần trụi đè bẹp ý chí của anh. Đè
bẹp mãi mãi”…
Nghịch lý của chiến tranh là ở đấy, trong sự thức nhận đớn đau: trong cuộc chiến ấy
“chính nghĩa đã thắng, lòng nhân đã thắng, nhưng cái ác và cả bạo lực phi nhân cũng
thắng”. Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng) thấm thía rằng: “Chiến tranh càng phải giữ gìn nhân
tính chứ chiến tranh đâu có phải miếng đất cho thú tính tràn vào”. Còn ở Quy (Chim én
bay), suốt từ đầu đến cuối tác phẩm, chúng ta luôn bắt gặp chị trong những dằn vặt, day
dứt, những do dự, phân vân bắt nguồn từ sự giằng co giữa ý thức giai cấp và tình người,
giữa hành động và suy nghĩ, giữa lý trí và bản năng. Như bao người lính chiến đấu vì Tổ
quốc, vì lý tưởng, chị không bao giờ hối tiếc vì những việc đã làm, “nếu phải sống lại
những năm tháng cũ, chắc chắn chị vẫn sống như thế”, “nhưng không hiểu sao chị cứ thấy
lòng mình không yên… có một cái gì đó ngoài lý trí bắt chị suy nghĩ, trăn trở”. Để cuối
cùng, khi phải đối mặt với con cái của kẻ thù, như người mẹ trong Miền cháy của Nguyễn
Minh Châu, tấm lòng của người mẹ (trong một thân xác đã bị cướp đi khả năng làm mẹ)
đã thật sự hạnh phúc khi được bao bọc, chở che cho chúng… Trong Dấu chân người
lính(Nguyễn Minh Châu), với người lính, sau trận đánh là một giấc ngủ vô tư (Vũ), là
tiếng cười đùa tán chuyện vui vẻ (Lữ, Đàm). Chị Út Tịch trong truyện ký Người mẹ cầm
súng của Nguyễn Thi cũng vậy, trở về sau trận đánh mà chị Út “tưởng như việc sống chết
vừa xảy ra hồi nãy là không có, và nếu có cũng chỉ còn như tia chớp rất xa, yếu ớt trong
những đêm mưa mát dịu…”. Sẽ rất khó để tìm được những trang viết trong trẻo như thế ở
tiểu thuyết hậu chiến. Quy, Hai Hùng, Kiên… và nhiều người lính khác nữa trong tiểu
thuyết hậu chiến không có được cảm giác nhẹ nhõm như thế. Họ trở về sau trận đánh với
những ám ảnh khôn nguôi. Hành trang của họ khi trở về cuộc sống hòa bình cũng là một
tâm hồn không hề thanh thản.
Từ giữa thập kỷ 90, trong bối cảnh hội nhập, tiểu thuyết đẩy sự tìm tòi theo một
hướng mới, ở đó “hình thức của tiểu thuyết đã trở thành chủ đề quan trọng với chính
nó”
(3)
. Những gương mặt Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Bình Phương, Thuận… đã làm nên một thế hệ người viết trẻ cho tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại. Tuy ít ỏi nhưng từ nửa sau thập kỷ 90, vẫn có sự xuất hiện của tiểu thuyết
viết về chiến tranh, tiêu biểu là Người đi vắng (1999) của Nguyễn Bình Phương, Lạc
rừng (1999) của Trung Trung Đỉnh và gần đây nhất là Dưới chín tầng trời (2007) của
Dương Hướng. Nhưng trong một bối cảnh khác, chiến tranh đã được nhìn nhận ở những
góc độ khác trước, hầu như đã không còn cảm hứng cắt nghĩa, lí giải, tái nhận thức mà là
một cảm hứng mới: chiến tranh như một vấn đề, một bộ phận của đời sống nhân sinh chứ
không phải một hiện thực tự thân được lấy làm đối tượng của sự thức nhận. Phải chăng,
tiểu thuyết hậu chiến đã đáp ứng được yêu cầu tái nhận thức về chiến tranh, về người
lính? Và nếu sự thật là như vậy, thì với những thành tựu tiêu biểu, đã đến lúc có thể khẳng
định những đóng góp tiểu thuyết hậu chiến đối với quá trình đổi mới văn xuôi
Việt Nam sau 1975