PHẦN I
MỞ ĐẦU
1- Lí do chọn sáng kiến:
Trên thế giới ngày nay khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển nhanh, mạnh,
đòi hỏi thế hệ trẻ ngày nay phải có kiến thức, hiểu biết sâu rộng. Để hoà mình
vào tốc độ phát triển đó và tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước trên thế giới.
Đảng và nhà nước ta nhận định phải đào tạo những thế hệ trẻ phát triển toàn
diện: Có đủ tài, có khả năng thích ứng với đời sống, biết đưa tri thức khoa học
vào thực tế cuộc sống. Do vậy phải đổi mới phương pháp dạy học và thay sách
giáo khoa cho phù hợp với sự phát triển chung của thế giới.
Toán học với tư cách là một môn khoa học nghiên cứu một số mặt của thế
giới hiện thực có một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức cơ
bản cần thiết cho đời sống sinh hoạt và lao động. Đó cũng chính là những công
cụ rất cần thiết để học các môn học khác và để tiếp tục nhận thức thế giới xung
quanh giúp cho hoạt động trong thực tiễn có hiệu quả.
Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn Toán rất to lớn nó có nhiều khả
năng để tư duy lô gic, bồi dưỡng và phát triển những thao tác trí tuệ cần thiết
để nhận thức thế giới hiện thực như trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích và
tổng hợp, so sánh và dự đoán, chứng minh (phân tích tổng hợp) và bác bỏ. Nó
có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy
3
luận, phương pháp giải quyết vấn đề có căn cứ khoa học, toàn diện, chính xác
nó có nhiều tác dụng trong việc rèn luyện nề nếp, tác phong, phong cách làm
việc khoa học rất cần thiết trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người; góp
phần giáo dục ý trí và đức tính tốt như cần cù, nhẫn nại, ý thức vượt khó
khăn Trong chương trình môn Toán ở tiểu học, các đối tượng hình học được
đưa vào đều cơ bản, cần thiết và thường gặp trong đời sống như: điểm; đoạn
thẳng, đường thẳng, hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác, hình thang,
hình tròn, hình trụ
Tuy nhiên các yếu tố hình học không được cấu thành chương trình riêng
mà sắp xếp xen kẽ các kiến thức khác, thậm trí nhiều nội dung hình học đưa
vào dưới dạng bài tập liên quan với các kiến thức khác, do đó việc dạy học
hình học ở bậc tiểu học mang ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị học hình
học một cách có hệ thống ở các lớp trên.
Đối với tiểu học năm học này là năm học thứ 12 thực hiện thay sách
giáo khoa và cũng là thứ 8 thực hiện thay sách giáo khoa lớp 4. Song song
với việc thay sách giáo khoa đòi hỏi mỗi giáo viên phải biết áp dụng linh hoạt
các phương pháp mới. Từ đó nhằm giúp học sinh hoạt động tích cực trong
4
học tập sáng tạo, linh hoạt trong khi lĩnh hội các kiến thức mới.
Chương trình Toán 4 là một bộ phận của chương trình Toán tiểu học.
Chương trình này tiếp tục thực hiện những đổi mới về giảng dạy Toán học ở
các lớp 1, 2 và 3.
Một trong những kiến thức chính trong môn Toán đó là yếu tố hình học.
Yếu tố hình học ở lớp 4 vô cùng quan trọng. Bởi vì dạy các yếu tố hình học
góp phần củng cố kiến thức số học, đại lượng và phép đo đại lượng phát triển
năng lực thực hành, năng lực tư duy đối với học sinh tiểu học. Đồng thời dạy
học các yếu tố hình học là một biện pháp quan trọng gắn học với hành,
nhà trường với đời sống.
Thực tại cho thấy: Việc nâng cao hiệu quả của dạy học môn Toán là
một yêu cầu bức xúc hiện nay. Nên việc dạy các yếu tố hình học trong các
giờ học Toán rất cần thiết. Nhưng việc dạy ra sao, như thế nào ? cho có hiệu
quả nhất ? Để giờ dạy đạt hiệu quả cao nhằm góp phần đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay là sự đòi hỏi cấp thiết của đông đảo giáo viên. Bởi vậy đứng
trước thực trạng đó tôi có suy nghĩ làm sao để giờ dạy Toán về các yếu tố
hình học đạt kết quả cao nhất. Qua quá trình giảng dạy trong những năm gần
đây tôi đã nghiên cứu sáng kiến: "Áp dụng phương pháp dạy học tích cực
trong giảng dạy các yếu tố hình học Toán 4" tại Trường TH Kiên Thành
2. Mục đích của sáng kiến
Mục đích của việc dạy các yếu tố hình học ở tiểu học là góp phần củng cố
kiến thức số học phát triển năng lực thực hành và năng lực tư duy đối với học
sinh tiểu học, đồng thời dạy các yếu tố hình học là biện pháp quan trọng gắn
học với hành, nhà trường với đời sống.
Từ thực tiễn dạy học tiểu học nói chung và thực tiễn dạy học ở trường TH
5
Kiên Thành nói riêng. Thu thập, tập hợp xử lí thông tin, tìm ra những giải pháp
cần thiết để hoàn thiện dần phương pháp dạy học nói chung. Đặc biệt là
phương pháp dạy học hướng vào người học trong dạy học hình học môn Toán
lớp 4.
3. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu việc dạy và học các yếu tố hình học môn toán lớp 4 tại
trường TH Kiên Thành – Trấn Yên – Yên Bái.
- Nghiên cứu việc dạy của giáo viên, việc học của học sinh lớp 4B nói
riêng và tại trường TH Kiên Thành nói chung về yếu tố hình học môn toán lớp
4
- Chủ yếu sử dụng các phương pháp thông thường. Thu thập thông tin
thực tế, xử lí số liệu, kiểm chứng bằng thực tiễn dạy học để đưa ra những giải
pháp phù hợp cho việc xây dựng phương án dạy học các yếu tố hình học môn
toán lớp 4.
4. Thời gian thực hiện và triển khai sáng kiến
Từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 3 năm 2014
PHẦN II
NỘI DUNG
I- Cơ sở lý luận:
Mục tiêu dạy học Toán ở bậc tiểu học được xây dựng dựa trên mục đích
đào tạo con người của nhà trường nói chung, trường tiểu học nói riêng. Và đó
là mục đích đào tạo con người của các trường hiện nay. Để đạt được mục tiêu
6
này các trường tiểu học phải được đổi mới về nội dung, phương pháp giảng
dạy. Trong những đổi mới về giáo dục đào tạo, đổi mới về phương pháp dạy
học có vị trí đặc biệt quan trọng vì hoạt động dạy học là hoạt động chủ yếu
của nhà trường. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới chỉ ra rằng cuộc
cách mạng về phương pháp giáo dục (Phương pháp lựa chọn nội dung,
phương pháp dạy học, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan…) sẽ đem lại
bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục. Đối với bậc tiểu học, bậc học nền
tảng, vai trò của phương pháp lại càng có vị trí đặc biệt. Quá trình dạy học ở
bậc tiểu học thường bắt đầu từ những hình ảnh cụ thể của sự vật hiện tượng
trên cơ sở đó dần dần hình thành khái niệm. Mà mỗi học sinh tiểu học có khả
năng tư duy Toán khác nhau. Vì vậy kiến thức Toán mà giáo viên truyền đạt
tới học sinh phải rèn cho học sinh tính tích cực học tập, tự giác phát hiện và
giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh, linh hoạt sáng tạo theo năng lực của từng
học sinh.
Qua những tiết toán có các yếu tố hình học nâng cao hiệu quả học toán
cho học sinh. Bởi vì ở tiểu học học sinh chưa được học môn hình học mà mới
chỉ được học một số yếu tố, một số kiến thức sơ giản về hình học. Việc dạy
học các yếu tố hình học cho học sinh tiểu học nhằm làm cho học sinh có
những biểu tượng chính xác về một số hình hình học đơn giản và một số đại
lượng hình học đơn giản. Qua đó rèn luyện một số kỹ năng thực hành, phát
triển một số năng lực trí tuệ như phân tích tổng hợp, quan sát, so sánh, đối
chiếu, dự toán trí tưởng tượng không gian được phát triển. Tích lũy những
hiểu biết cần thiết cho đời sống sinh hoạt và học tập của học sinh. Ngoài ra
các yếu tố hình học giúp học sinh phát triển được nhiều năng lực trí tuệ,
rèn luyện được nhiều đức tính và phẩm chất tốt như: Cẩn thận, cần cù, chu
đáo, khéo léo, ưa thích sự chính xác, làm việc có kế hoạch… Nhờ đó mà hoạt
động có thêm tiền đề để học các môn khác ở Tiểu học, để học tiếp các giáo
trình toán học có hệ thống ở bậc Trung học cơ sở và thích ứng tốt hơn với
môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh.
7
Do đặc điểm của việc dạy các yếu tố hình học là vậy nên phương pháp
giảng dạy như thế nào để cho học sinh nắm được bài là việc cần thiết đối với
mỗi giáo viên đặc biệt là chương trình sách giáo khoa hiện nay.
II. Thực trạng của sáng kiến:
Trường tiểu học Kiên Thành năm học 2013 - 2014 có ba lớp 4. Trong
giảng dạy giáo viên vẫn còn bỡ ngỡ, gặp nhiều khó khăn. Đó là thông qua
những tiết dạy đầu tiên về các yếu tố hình học, học sinh cũng còn bỡ ngỡ,
nắm bài chưa chắc. Do vậy chúng ta phải sử dụng phương pháp dạy học như
thế nào cho phù hợp và đạt hiệu quả. Đặc biệt là vốn Tiếng Việt của các em
rất hạn chế.
Toàn trường có 3 lớp 4 với tổng số là 60 học sinh. Nhìn chung các em
trong lớp thuộc nhiều đối tượng khác nhau. Nên nhận thức của các em không
đồng đều. Nhưng với chương trình sách giáo khoa lớp 4 nhiều bài toán khó
nên chất lượng học tập chưa cao. Về tình hình dạy học Toán ở lớp nói chung
về các yếu tố hình học còn hạn chế nên học sinh nắm bài chưa sâu, chất
lượng còn thấp.
Qua khảo sát đầu năm tôi thấy một số em nắm kiến thức về hình học
chưa chắc chắn nên tôi rất băn khoăn làm sao để chất lượng môn Toán được
nâng cao. Đứng trước đối tượng giáo dục trên, tôi thấy mình cần chủ động đề
ra công việc cho từng bước. Tôi đã kết hợp cùng với giáo viên của 2 lớp lập
kế hoạch áp dụng phương pháp tích cực vào hướng dẫn học sinh học các yếu
tố hình học.
Tổng số học sinh lớp 4b có 9 em. Trong đó có 1 em giỏi, 1 em khá, 5
em trung bình và 2 em yếu. Để kiểm tra nhận thức của học sinh tôi đã lấy một
bài toán để thử nghiệm.
Ví dụ: Dạy bài: Góc nhọn, góc tù, góc bẹt (SGK Toán 4 - Trang 49).
Với cách làm:
8
Cách 1: Dạy theo phương pháp cũ áp đặt thì bài này học sinh khó hiểu,
không nắm chắc được góc nhọn, góc tù, góc bẹt. Chất lượng học sinh hiểu bài
chỉ đạt khoảng 65% những em yếu kém không nắm chắc chắn.
Cách 2: Vận dụng dạy theo phương pháp mới là:
+) Giới thiệu góc nhọn.
Giáo viên vẽ lên bảng góc AOB
như SGK
- Hãy đọc tên góc, tên đỉnh và các
cạnh góc này.
- GV giới thiệu: Góc này là góc
nhọn
- Hãy dùng ê ke để kiểm độ lớn của
góc nhọn đỉnh O và cho biết góc này
lớn hơn hay bé hơn góc vuông.
- GV có thể yêu cầu HS vẽ một góc
nhọn
Tương tự:
+ Giới thiệu góc tù và góc bẹt
- Học sinh quan sát hình
– Góc AOB, đỉnh O cạnh OA và OB
- HS nêu: Góc nhọn AOB, đỉnh O
- 1 HS lên bảng kiểm tra cả lớp theo
dõi, sau đó kiểm tra góc đỉnh O trong
SGK: Góc nhọn đỉnh O bé hơn góc
vuông.
- HS sử dụng ê ke để vẽ.
1 HS vẽ bảng, cả lớp vẽ vào nháp
Với cách làm này tôi thấy các em đều nhận biết về các góc và đồng thời
vẽ được góc. Chất lượng bài dạy được nâng cao.
Trước thực trạng như vậy tôi nghĩ đến việc:
III. Các biện pháp giải quyết vấn đề
9
O
B
A
1- Xây dựng, chuẩn bị các điều kiện và phương pháp:
Định hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học Toán 4 là dạy học
toán trên cơ sở tự phát hiện tự giải quyết vấn đề của bài học để chiếm lĩnh
kiến thức mới, chủ động vận dụng các kiến thức đã học trong thực hành theo
năng lực của từng học sinh với sự tổ chức hướng dẫn hợp tác hợp lý của
giáo viên.
Vậy dạy học một giờ Toán có các yếu tố hình học làm sao cho học sinh
tiếp thu nhanh bài thì:
- Để nhận dạng hình, đầu tiên giáo viên giới thiệu cho học sinh các hình
đơn giản, các hình học được tri giác như là "một toàn thể" gắn liền với hình
dạng của nó, chưa chú ý phân tích các yếu tố và đặc điểm của hình.
Tiếp theo giáo viên rèn luyện cho học sinh kỹ năng nhận dạng hình
chính xác nhờ các yếu tố và đặc điểm của hình bằng cách cắt, ghép, gấp hình,
sử dụng các dụng cụ để kiểm tra. Tùy theo tình huống cụ thể giáo viên hướng
dẫn học sinh phát hiện, tìm ra hình một cách khoa học sao cho không bỏ sót,
không trùng lặp, không thừa, không thiếu.
- Vẽ hình là một biện pháp quan trọng để nhận dạng các hình. Các cạnh,
hình vuông, hình chữ nhật, hình tứ giác, hình tam giác, đường cao của hình
tam giác, bán kính của đường tròn… đều là đoạn thẳng, đỉnh của các hình kể
trên, đỉnh của các góc, tâm của hình tròn đều là điểm, điểm cũng là giao của
hai đoạn thẳng.
Để vẽ một đoạn thẳng phải dùng thước thẳng nối hai điểm với nhau.
Giáo viên giới thiệu với học sinh những dụng cụ thông thường dùng để
vẽ các hình tương ứng đã học và biết lựa chọn dụng cụ thích hợp phù hợp với
việc vẽ hình.
- Đối với mỗi hình đã vẽ, giáo viên hướng dẫn học sinh cách gọi tên,
ghi điểm bằng chữ cái và tập cho học sinh thói quen tự kiểm tra.
10
- Giáo viên hướng dẫn học sinh cách mô tả các hình hình học. Khi mô
tả nên kết hợp vẽ hình và chỉ rõ yếu tố hình. Có thể cắt, ghép, gấp xếp các
hình học dưới dạng trò chơi. Từ đó bồi dưỡng và phát triển năng lực phân
tích, tổng hợp và sáng tạo ở mỗi học sinh.
- Hướng dẫn học sinh giải các bài tập có nội dung hình học. Thông qua
việc giải các bài toán có nội dung hình học giáo viên củng cố nhận thức của
học sinh về các yếu tố hình học.
Các bài toán đưa ra cần ngắn gọn, chính xác, dễ nhớ, dễ hiểu từ đơn
giản đến phức tạp.
Bởi vậy cho nên tôi đã chuẩn bị:
+ Đồ dùng trực quan, phương tiện dạy học phải đầy đủ.
+ Học sinh nắm được và sử dụng thành thạo các quy ước trong giờ học.
+ Tiến hành hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài.
+ Khi soạn bài tôi chuẩn bị và tưởng tượng ra lúc giảng bài mình sẽ sử
dụng phương pháp nào ? Ngoài ra còn có hệ thống câu hỏi phát vấn lật lại
vấn đề để học sinh tự tìm ra kiến thức và hiểu bài sâu hơn.
+ Tôi băn khoăn, trăn trở chọn cách hướng dẫn lựa chọn phương pháp
sao cho cô đọng nhất, dễ hiểu nhất để học sinh tiếp thu bài nhanh.
2- Về cách tiến hành và triển khai thực hiện.
Qua các tiết dạy có các yếu tố hình học tôi đã áp dụng phương pháp đổi
mới như sau:
a- Phương pháp dạy học bài mới:
Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động học tập để giúp
học sinh.
* Tự giải quyết, phát hiện nhiệm vụ của bài học.
Chẳng hạn: Dạy bài: Hai đường thẳng vuông góc (SGK Toán 4 - Tr 50)
11
Giới thiệu hai đường thẳng vuông góc.
- Giáo viên vẽ lên bảng hình chữ nhật ABCD và hỏi: Đọc tên hình trên
bảng và cho biết đó là hình gì ? (Hình ABCD là hình chữ nhật).
- Các góc đỉnh A; B; C; D của hình chữ nhật ABCD là góc gì ? (đều là
góc vuông.
- Giáo viên thực hiện thao tác, vừa nêu: A B
Cô kéo dài cạnh DC thành đường thẳng
kéo dài cạnh BC thành đường thẳng. D C
Khi đó ta được hai đường thẳng vuông
góc với nhau tại điểm C.
- Hỏi học sinh: Hãy cho biết góc ở đỉnh C là gì ? (là góc vuông).
- Các góc này có chung đỉnh nào ? (Chung đỉnh C)
- Giáo viên nêu như vậy hai đường thẳng DC và BC vuông góc với
nhau tạo thành 4 góc vuông có chung đỉnh C.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát đồ dùng học tập của mình, quan
sát lớp học để tìm hai đường thẳng vuông góc có trong thực tế cuộc sống ?
(Hai mép của quyển sách, quyển vở, hai cạnh của cửa sổ, cửa ra vào, hai cạnh
của bảng đen…).
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ hai đường thẳng vuông góc với
nhau (vừa nêu cách vẽ vừa thao tác). Chúng ta có thể dùng ê ke để vẽ hai
đường thẳng vuông góc với nhau, chẳng hạn ta muốn vẽ đường thẳng AB
vuông góc với đường thẳng CD, làm như sau:
. Vẽ đường thẳng AB. C
. Đặt một cạnh ê ke trùng với
đường thẳng CD dọc theo cạnh kia A O B
của ê ke. Ta được hai đường thẳng
12
AB và CD vuông góc với nhau. D
+ Giáo viên yêu cầu học sinh cả lớp làm bài vào giấy nháp (vẽ đường
thẳng NM vuông góc với đường thẳng PQ tại O). P
M N
Q
Vậy qua áp dụng phương pháp này học sinh tự phát hiện và tự giải
quyết bài học một cách chủ động sáng tạo tránh sự áp đặt của giáo viên. Khi
áp dụng phương pháp cũ là giáo viên cứ thuyết minh học sinh nghe và làm
dập khuân theo cô giáo, nên học thụ động.
* Tự chiếm lĩnh kiến thức:
Sau khi giáo viên tổ chức cho học sinh nắm vững hai đường thẳng
vuông góc, biết về cách vẽ đường thẳng vuông góc, cách dùng ê ke để kiểm
tra hai đường thẳng vuông góc. Giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh
bằng cách tổ chức cho học sinh làm được các bài tập trong sách giáo khoa và
tự kiểm tra chéo bài cho bạn đúng.
Đó là: Bài 1 (Trang 50)
Dùng ê ke để kiểm tra hai đường thẳng có vuông góc với nhau không.
a) H b) P
I K M Q
- Giáo viên vẽ lên bảng hai hình a, b như bài tập trong SGK.
- Giáo viên hỏi: Bài tập yêu cầu chúng ta làm gì ? (Dùng ê ke để kiểm
tra hai đường thẳng có vuông góc với nhau không.
- Giáo viên yêu cầu học sinh cả lớp cùng kiểm tra (Học sinh dùng ê ke
kiểm tra hình vẽ trong sách giáo khoa, một học sinh lên bảng kiểm tra hình vẽ
13
của giáo viên).
- Giáo viên yêu cầu học sinh nêu ý kiến (Hai đường thẳng HI và KI
vuông góc với nhau, hai đường thẳng PM và MQ không vuông góc với
nhau).
- Vì sao em nói hai đường thẳng HI và KI vuông góc với nhau ? (Vì khi
dùng ê ke để kiểm tra thì thấy hai đường này cắt nhau tạo thành bốn góc
vuông có chung đỉnh I).
Bài 2: (Trang 50)
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề bài.
Cho hình chữ nhật ABCD, AB và BC là một cặp cạnh vuông góc với
nhau. Hãy nêu tên từng cặp cạnh vuông góc với nhau trong hình chữ nhật đó.
- Giáo viên vẽ lên bảng hình chữ nhật ABCD, sau đó yêu cầu học sinh
suy nghĩ ghi tên các cặp cạnh vuông góc với nhau trong hình chữ nhật ABCD
(Học sinh làm bài).
A B - Các cặp cạnh vuông góc với nhau
AB và BC, BC và CD, CD và DA;
D C DA và AB.
- Với cách làm như vậy thì hầu hết học sinh nắm được hai đường thẳng
vuông góc với nhau và nhận biết được hai đường thẳng vuông góc bằng cách
sử dụng ê ke để kiểm tra.
* Thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học:
+ Khi dạy bài vẽ đường thẳng (ở lớp 3) các em đã được học nhưng nay
lớp 4 các em vẫn thường xuyên phải huy động kiến thức đã học để phát hiện
và chiếm lĩnh kiến thức mới.
Ví dụ: Khi dạy: Vẽ hai đường thẳng song song (SGK T4-53) có bài tập.
Bài 1: Hãy vẽ đường thẳng AB đi qua điểm M và song song với đường
14
thẳng CD.
- Giáo viên vẽ lên bảng đường thẳng CD và lấy một điểm M nằm ngoài
CD như hình vẽ trong bài tập 1.
- Giáo viên hỏi: Bài tập yêu cầu chúng ta làm gì ? (Vẽ đường thẳng AB
đi qua điểm M và song song với đường thẳng CD).
- Để vẽ được đường thẳng AB đi qua M và song song với đường thẳng
CD, trước tiên chúng ta vẽ gì ? (Chúng ta vẽ đường thẳng đi qua M và vuông
góc với đường thẳng CD).
- Giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện bước vẽ vừa nêu, đặt tên cho
đường thẳng đi qua M và vuông góc với đường thẳng CD là đường thẳng MN
(một học sinh lên bảng vẽ hình, học sinh dưới lớp vẽ vào nháp).
- Giáo viên hỏi: Sau khi đã được đường thẳng MN chúng ta tiếp tục vẽ
gì ? (Vẽ đường thẳng đi qua điểm M và vuông góc với đường thẳng MN).
- Giáo viên yêu cầu học sinh vẽ hình. N
- Đường thẳng vừa vẽ như thế nào C D
so với đường thẳng CD ? (Đường thẳng
này song song với đường thẳng CD). A M B
Vậy đó chính là đường thẳng AB cần vẽ.
Bài 2: Cho tam giác ABC có góc đỉnh A là góc vuông. Qua đỉnh A, hãy
vẽ đường thẳng Ax song song với cạnh BC; qua đỉnh C, hãy vẽ đường thẳng
Cy song song với cạnh AB. Hai đường thẳng Ax và Cy cắt nhau tại điểm D,
nêu tên các cặp cạnh song song với nhau có trong hình tứ giác ADCB.
- Giáo viên gọi một học sinh đọc đề bài và vẽ lên bảng hình tam giác
ABC. y
- Giáo viên hướng dẫn học sinh A
vẽ đường thẳng qua A song song D x
15
với cạnh BC.
B C
. Bước 1: Vẽ đường thẳng cao AH đi qua A vuông góc với cạnh BC.
. Bước 2: Vẽ đường thẳng đi qua A và vuông góc với AH, đó chính là
đường thẳng Ax cần vẽ.
- Giáo viên yêu cầu học sinh tự vẽ đường thẳng Cy song song với cạnh
AB (Học sinh thực hành vẽ:
. Vẽ đường thẳng đi qua C và vuông góc với CG đó chính là đường Cy
cần vẽ).
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình và nêu tên các cặp cạnh song
song với nhau có trong hình tứ giác ABCD (AD và BC; AB và CD).
* Từ những kiến thức đã học để phát hiện rõ kiến thức mới.
Dạy bài: Diện tích hình bình hành.
Khi hình thành công thức tính diện tích hình bình hành.
Giáo viên tổ chức trò chơi cắt ghép hình.
+ Mỗi học sinh tự suy nghĩ để cắt miếng bìa hình bình hành mình đã
chuẩn bị thành hai mảnh sao cho khi ghép lại với nhau thành một hình chữ nhật.
Học sinh có thể cắt như bên:
+ 5 học sinh cắt ghép đúng nhất và nhanh nhất được tuyên dương.
- Giáo viên hỏi: Diện tích hình chữ nhật được ghép so với diện tích của
hình bình hành ban đầu ? (bằng nhau).
- Hãy tính diện tích của hình chữ nhật (Học sinh tính).
- Giáo viên yêu cầu học sinh lấy hình bình hành ban đầu giới thiệu cạnh
16
\
đáy của hình bình hành và hướng dẫn các em kẻ đường cao của hình bình hành ?
(Học sinh kẻ).
- Giáo viên yêu cầu học sinh đo chiều cao của hình bình hành, cạnh đáy
và so sánh chúng với chiều rộng, chiều dài của hình chữ nhật đã ghép được
(Học sinh đo báo cáo kết quả: Chiều cao hình bình hành bằng chiều rộng của
hình chữ nhật, cạnh đáy của hình bình hành bằng chiều dài hình chữ nhật).
- Vậy theo em, ngoài cách cắt ghép hình bình hành thành hình chữ nhật
để tính diện tích hình bình hành chúng ta có thể tính theo cách nào ? (Lấy đáy
nhân với chiều cao).
- Diện tích hình bình hành bằng độ dài cạnh đáy nhân với chiều cao
cùng một đơn vị đo.
S là diện tích, h là chiều cao, a là cạnh đáy.
S = a x h
Sau khi áp dụng phương pháp dạy học bài mới như trên học sinh nắm
vững được các yếu tố về hình học trong Toán 4 đồng thời phát triển năng lực
tư duy của học sinh.
b- Phương pháp dạy học các nội dung thực hành luyện tập ngay ở trên lớp
của Toán 4 chiếm khoảng 80% tổng số thời lượng dạy học Toán 4 ở lớp 4.
Tuy nhiên các yếu tố hình học không được cấu tạo thành một chương
riêng mà sắp xếp xen kẽ với các kiến thức khác, thậm chí nhiều nội dung hình
học được đưa vào dưới dạng bài tập liên quan tới các kiến thức khác. Do đó
việc dạy hình học ở đây mang ý nghĩa chuẩn bị cho việc học hình học một
cách có hệ thống ở những năm sau này. Tuy vậy nội dung thực hành luyện
tập không chỉ có trong các tiết luyện tập, luyện tập chung, thực hành, ôn tập
mà còn chiếm tỷ lệ khá lớn trong các tiết dạy bài mới. Đây là cơ hội tốt để
giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động học tập, phù hợp với từng đối tượng
học sinh, tăng cường vận dụng thực hành.
17
Ví dụ: Sau khi dạy bài: Góc nhọn, góc bẹt, góc tù học sinh đã nắm vững
về các góc này. Thông qua các bài tập sau phần kiến thức mới học sinh được
vận dụng kiến thức đã học vào các bài tập.
Xác định các góc là góc bẹt, góc nhọn hay góc tù ? Một lần nữa học
sinh được củng cố, vận dụng thực hành qua giờ luyện tập, ôn tập.
Khi dạy luyện tập thực hành tôi luôn chú ý giúp mọi học sinh đều tham
gia vào hoạt động thực hành luyện tập của mình bằng cách:
+ Tổ chức cho học sinh làm các bài tập theo thứ tự trong sách giáo khoa 4,
không tự ý lướt qua hoặc bỏ qua bài tập nào, kể cả bài tập học sinh cho là dễ nhất.
+ Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong qúa trình làm bài. Sau mỗi bài
học sinh tự kiểm tra (hoặc do giáo viên tổ chức kiểm tra) nếu làm xong thì
chuyển sang làm bài tập tiếp theo sau.
Trong tiết dạy có các yếu tố thực hành tôi có kế hoạch giúp học sinh
đặc biệt là học sinh làm chậm bài, về phương pháp làm bài giúp học sinh khá
giỏi làm được nhiều bài trong sách giáo khoa, giúp học sinh khai thác tiềm ẩn
trong các bài tập.
Ví dụ khi dạy bài: Thực hành vẽ hình vuông.
Tôi sẽ giúp học sinh qua bài tập 3 (SGK trang 55)
Hãy vẽ hình vuông ABCD có cạnh 5cm, rồi kiểm tra hai đường chéo
AC và BD.
a) Có vuông góc với nhau không.
b) Có bằng nhau không.
Trước hết hướng dẫn học sinh vẽ hình vuông có cạnh 5 cm.
- Sau đó dùng thước kẻ thẳng
có vạch chia xăng ti mét để đo độ A B
dài hai đường chéo.
18
- Dùng ê ke kiểm tra các góc
tạo bởi hai đường chéo.
Từ đó rút ra kết luận: D C
Hai đường chéo của hình vuông luôn luôn bằng nhau và vuông góc với nhau.
Trong giờ luyện tập thực hành phải tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau
giữa các đối tượng học sinh. Trong giờ luyện tập thực hành khuyến khích học
sinh tự đánh giá kết quả thực hành, luyện tập.
Tập cho học sinh thói quen làm bài xong phải kiểm tra lại xem có nhầm
lẫn, có làm sai không. Khuyến khích học sinh tự nói ra hạn chế của mình, của
bạn và nêu ra cách khắc phục.
Các bài tập luyện tập thực hành thường có nhiều dạng và có mức độ
khó khác nhau. Nên tôi cho học sinh nhận ra kiến thức cơ bản của bài học
trong sự đa dạng phong phú của bài tập thực hành luyện tập. Học sinh từ đó
vận dụng các kiến thức cơ bản để làm bài.
Ví dụ: Khi dạy bài 5 (Sách giáo khoa Toán 4 Trang 64).
Yêu cầu học sinh phải tính nhanh diện tích của hai hình vuông và chữ nhật.
5cm 1dm
20cm
Muốn tính diện tích phải đổi về đơn vị đo cùng nhau rồi so sánh để tìm
ra kết qủa. (Hai hình có diện tích bằng nhau và đều bằng 100 cm
2
hay 1 dm
2
).
Sau mỗi tiết học, tiết luyện tập giáo viên nên tạo cho học sinh niềm vui
và niềm tin đã hoàn thành công việc được giao và đã đạt được những tiến bộ
nhất định trong học tập bằng cách khuyến khích nêu gương.
Đồng thời trong tiết luyện tập, tập cho học sinh có thói quen và phương
19
pháp tìm ra được cách giải quyết tốt nhất cho bài làm của mình bằng cách
giúp học sinh tự kiểm tra đánh giá và luôn tìm cách hoàn thiện các việc đã
làm. Giáo viên không nên "áp đặt" cho học sinh phương án có sẵn, luôn động
viên các em tìm và chọn phương án tốt nhất.
Do đặc trưng của mạch các yếu tố hình học nên khi dạy bài có các yếu
tố hình học tôi còn tìm cách dạy phù hợp với đối tượng học sinh của lớp.
Chẳng hạn:
+ Khi dạy các khái niệm, biểu tượng hoặc nhận dạng các hình hình học
mới, có thể tiến hành các hoạt động:
. Liên hệ các khái niệm, kiến thức đã học chuyển sang kiến thức khái
niệm, kiến thức mới.
Ví dụ: Từ việc nhận biết góc, góc vuông, góc không vuông (ở lớp 3)
đến lớp 4 các em dựa vào đó để nhận biết góc nhọn, góc tù, góc bẹt. Từ cách
tính diện tích hình vuông hình chữ nhật ở lớp 3 để các em biết các tính diện
tích hình bình hành, hình thoi.
Hoặc khi học về hai đường thẳng vuông góc học sinh áp dụng để vẽ
đường cao trong tam giác.
. Đồ dùng trực quan hoặc liên hệ các đồ vật trong thực tế có dạng hình
hình học phù hợp với học sinh để từ đó học sinh có biểu tượng hình học và
nhận biết được hình đó.
Ví dụ: Hai mép đối diện của quyển sách hình chữ nhật là hai đường
thẳng song song.
. Lấy những hình có tính chất "phản ví dụ" để củng cố nhận dạng các
hình đang học, góc đang học.
Chẳng hạn: Muốn cho học sinh nhận biết các góc nhọn có thể cho học
sinh quan sát tập hợp gồm nhiều góc khác nhau trong đó có góc nhọn.
Hỏi đâu là góc nhọn để học sinh tự tìm ra.
20
+ Khi dạy bài có tính chất luyện tập thực hành cần cho học sinh tự hoạt
động (được tự do vẽ, xếp ghép hình được tự tính toán kiểm tra tìm ra kết
quả ).
Giáo viên không nên làm thay hoặc hướng dẫn qúa kỹ cho học sinh.
Ngoài ra các bài mẫu, giáo viên có thể dựa vào đó để sáng tạo các bài tập
khác nhau phù hợp, gây hứng thú cho học sinh.
Bên cạnh đó tôi còn phải sử dụng linh hoạt và biết kết hợp nhiều
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học khác nhau như: Trực quan, đàm
thoại, gợi mở tổ chức trò chơi, phiếu bài tập, thi đố nhanh
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN:
Qua thử nghiệm cá nhân tôi nhận thấy nhờ áp dụng phương pháp mới
vào giảng dạy các yếu tố hình học. Giáo viên không cần giảng giải nhiều mà
chất lượng giờ dạy cao. Đặc biệt là huy động được tất cả mọi đối tượng học
sinh làm việc có hiệu quả. Việc dạy và học diễn ra nhẹ nhàng chất lượng giờ
dạy hiệu quả hơn. Học sinh có thể tự mình phát hiện kiến thức mới và chiếm
lĩnh kiến thức một cách chủ động sáng tạo, tích cực, độc lập.
- Về chất lượng của lớp qua ba lần kiểm tra như sau về môn Toán.
. Lần 1: (Khi chưa áp dụng sáng kiến) 9 học sinh
Giỏi : 0 = 0%
Khá : 1 = 11,1%
Trung bình : 6 = 66,7%%
Yếu : 2 = 22,2%
Chất lượng đạt: 77,8%
. Lần 2: (Đã áp dụng sáng kiến sau 2 tháng) 9 em. Trong đó
Giỏi : 0 = 0%
Khá : 2 = 22,2%.
Trung bình : 5 = 55,6 %
21
Yếu : 2 = 22,2%
Chất lượng đạt: 77,8%. (HS khá tăng lên)
. Lần 3: (Đã áp dụng sáng kiến sau 4 tháng) 9 em
Giỏi : 1 = 11,1%
Khá : 2 = 22,2%.
Trung bình : 5 = 55,6%
Yếu : 1 = 11,1%
Chất lượng đạt: 88,9%.
PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1- Kết luận:
Trên thực tế tôi thấy việc vận dụng phương pháp mới vào dạy các yếu
tố hình học có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy,
22
giờ lên lớp ở bậc Tiểu học. Bởi các kiến thức hình học ở Tiểu học được dạy
thông qua các hoạt động thực hành để tích lũy những hiểu biết cần thiết cho
học sinh. Song những kiến thức kỹ năng hình học được thu lượm như vậy
qua con đường thực nghiệm lại rất cần thiết trong cuộc sống, rất hữu ích cho
việc học tập các tuyến kiến thức khác trong môn Toán tiểu học như số học,
đo đại lượng, giải toán cũng như học các môn khác như: Vẽ, viết, tìm hiểu tự
nhiên xã hội, thủ công
Việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy các yếu tố
hình học. Kết quả học sinh có những chuyển biến rõ rệt, nhận thức của các
em từng bước đã được nâng lên. Áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào
giảng dạy môn Toán không chỉ là cung cấp kiến thức mà ở mức độ cao hơn,
góp phần phát triển hứng thú, tích cực chủ động học tập, rèn luyện, tư duy,
độc lập, sáng tạo cho học sinh. Nói cách khác áp dụng phương pháp dạy học
này góp phần quan trọng phát triển tính tích cực của người học. Ngoài ra nó
còn làm cho học sinh thấy các yếu tố hình học trong môn Toán gần gũi, yêu
thích hơn, ấn tượng hơn. Đặc biệt là học sinh trung bình, yếu cũng nắm được
nội dung bài. Qua đó học sinh học tốt các môn học khác.
Hiện nay việc áp dụng phương pháp dạy học đổi mới này đã được tôi áp
dụng tại lớp 4 và bước đầu đã thu được những kết quả khả quan.
*Bài học kinh nghiệm:
Cách tốt nhất để đạt hiệu quả cao trong việc áp dụng phương pháp dạy
học đổi mới trong giảng dạy các yếu tố hình học trong môn Toán cần sử dụng
như thế nào ?
- Nghiên cứu kỹ nội dung tiết học để xác định nội dung dạy học nào cần
sử dụng, sử dụng với mục đích gì ?
- Phải nắm được hình học ở tiểu học là hình học trực quan.
- Kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp quy nạp và phương pháp suy diễn
trong dạy học các yếu tố hình học.
23
- Kết hợp chặt chẽ giữa cái cụ thể và cái trìu tượng trong giảng dạy các
yếu tố hình học.
- Coi trọng phương pháp thực hành - luyện tập trong giảng dạy các yếu
tố hình học.
- Kết hợp chặt chẽ việc giảng dạy các yếu tố hình học với các tuyến
kiến thức khác.
- Coi trọng việc rèn luyện kỹ năng sử dụng các dụng cụ hình học.
- Cần đặc biệt quan tâm đến việc thường xuyên ôn tập củng cố và hệ
thống hóa các kiến thức, kỹ năng hình học.
- Cần đảm bảo sự cân đối khoa học, tính khoa học và tính vừa sức trong
giảng dạy các yếu tố hình học.
- Giáo viên cần có kiến thức tốt về hình học.
- Giáo viên cần kiên trì bền bỉ, gây hứng thú học tập cho học sinh.
2- Những kiến nghị:
- Cần duy trì việc dạy học theo phương pháp dạy học hướng vào người
học đối với bộ môn Toán.
- Nhà trường cần quán triệt giáo viên dạy học theo đúng phương pháp
dạy học tích cực để giờ dạy đạt hiệu quả cao.
Tóm lại: Đổi mới phương pháp dạy học Toán trong đó có phương pháp
giảng dạy các yếu tố hình học cũng là một vấn đề chúng ta cần quan tâm và
thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo viên và sách giáo khoa Toán 4.
- Mục tiêu, kế hoạch giáo dục Tiểu học.
- Tạp chí giáo dục tiểu học.
24
- Dạy học môn Toán ở bậc Tiểu học.
- Giảng dạy các yếu tố hình học ở Tiểu học.
- Tài liệu tập huấn giáo viên triển khai chương trình SGK lớp 4.
Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ
25
Kiên Thành, ngày 31 tháng 3 năm 2014
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG Người viết
Lê Văn Toán
26