Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

ĐỊA LÝ 12 NÂNG CAO: VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM TẠI VIỆT NAM potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.2 KB, 8 trang )

ĐỊALÝ12NÂNGCAO:VÙNGKINHTẾ
TRỌNGĐIỂMTẠIVIỆTNAM

Vùng kinh tế trọngđiểm Bắc Bộ
Quyết định số 145/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phương
hướng phát triển kinh tế-xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ gồm 8 tỉnh: tp Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng
Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh.

Theo đó, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm sẽ đạt 1,3 lần
(giai đoạn 2006-2010) và 1,25 lần (giai đoạn 2011-2020) so với mức
tăng trưởng bình quân chung của cả nước. Tỷ trọng đóng góp vào
GDP cả nước tăng từ 21% (năm 2005) lên 23-24% (năm 2010) và
28-29% (năm 2020). Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người/năm từ
447 USD (năm 2005) lên 1.200 USD (năm 2010) và 9.200 USD (năm
2020). Đạt tốc độ đổi mới công nghệ bình quân 20-25%/năm. Giảm
tỷ lệ lao động không có việc làm xuống 6,5% vào năm 2010. Giảm tỷ
lệ hộ nghèo xuống 1,5% năm 2010 và dưới 0,5% năm 2020. Giảm tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên xuống 1% vào năm 2010, dưới 0,8% vào năm
2020.

Để đạt được những mục tiêu trên, phải tập trung phát triển các
ngành kỹ thuật cao thành ngành công nghiệp mũi nhọn như công
nghiệp phần mềm, thiết bị tin học, sản xuất các thiết bị tự động hoá,
rô bốt, sản xuất vật liệu mới, thép chất lượng cao và phát triển công
nghệ đóng tàu, cơ khí chế tạo… Ngoài ra cũng phải phát triển các
ngành công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh như các ngành cơ khí
chế tạo thiết bị và phụ tùng ôtô, xe máy, sản xuất thiết bị điện và linh
kiện điện tử, động cơ nổ, động cơ điện.


Cơ cấu sản phẩm: Chủ lực là các sản phẩm giá trị lớn, chứa hàm
lượng chất xám cao. Bên cạnh đó đặc biệt quan tâm phát triển tiểu
thủ công nghiệp, xây dựng các mô hình phát triển bền vững, các làng
nghề …

Lĩnh vực dịch vụ: Tập trung phát triển toàn diện, đặc biệt là dịch vụ
chất lượng cao trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thương mại, du
lịch, khoa học- công nghệ, viễn thông, vận tải hàng không, vận tải
hàng hải. Các thị trường như bất động sản, vốn, thị trường chứng
khoán cũng được ưu tiên phát triển…

Cơ cấu nông nghiệp: Chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá có
năng suất, chất lượng cao. Đặc biệt chú ý phát triển nông nghiệp
sạch, gắn phát triển nông nghiệp với việc xây dựng kinh tế trang trại
hộ gia đình.

Giao thông: Phát triển đồng bộ và hiện đại hoá hệ thống giao thông
đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và hàng không, đặc
biệt là xây dựng cảng nước sâu, mạng lưới đường cao tốc, hệ thống
giao thông nội đô Hà Nội… nâng công suất sân bay Nội Bài lên 6 triệu
hành khách/năm (năm 2005) và 8-10 triệu hành khách (năm 2010),
hiện đại hoá sân bay Cát Bi. Các tuyến đường sắt cũng sẽ được hiện
đại hoá và nâng cấp…

Ngoài việc cải tiến cơ chế còn phải khuyến khích mọi thành phần
kinh tế đầu tư phát triển, thực hiện đổi mới cơ cấu đầu tư theo
hướng: khuyến khích có 50-55% đầu tư xã hội cho phát triển sản
xuất kinh doanh; 9-10% đầu tư xã hội cho phát triển nguồn nhân
lực; 35-36% vốn đầu tư giao thông vận tải cho phát triển đường loại
I, loại II và đường cao tốc…



Vùng kinh tế trọngđiểm miền Trung
Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
phương hướng phát triển kinh tế-xã hội của khu vực miền Trung
đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, gồm 5 tỉnh TP trực thuộc
trung ương là Đà nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi và
Bình Định.

Theo đó, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm của vùng sẽ tăng từ
khoảng 1,2 lần giai đoạn 2006-2010 lên 1,25 lần giai đoạn 2011-
2020 so với tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước. Tăng giá trị
xuất khẩu bình quân đầu người từ 149 USD năm 2005 lên 375 USD
vào năm 2010 và 2.530 USD năm 2020.

Các trung tâm du lịch Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, và vùng phụ cận
miền Trung và Tây Nguyên sẽ dần hình thành cùng với các công
trình lớn về kết cấu hạ tầng để gắn kết khu vực này với các vùng lân
cận góp phần thực hiện hành lang Đông-Tây của tiểu vùng Mê Kông
mở rộng, gắn với nhiệm vụ phát triển khu tam giác biên giới 3 nước
Việt Nam-Lào-Campuchia.

TP Đà nẵng sẽ trở thành trung tâm của miền Trung có dân số từ 1
triệu người vào năm 2010, gần 2 triệu người vào năm 2020 với các
cảng biển, sân bay quốc tế xuyên Việt, xuyên Á. Đà Nẵng sẽ là đầu
mối giao thông quan trọng về trung chuyển và vận tải quốc tế của
miền Trung, Tây Nguyên và các nước khu vực sông Mê Kông. Tại đây
sẽ xây dựng khu sinh dưỡng công nghiệp (chuyên nghiên cứu cải
tiến kỹ thuật, công nghệ cho các xí nghiệp công nghiệp), các trung
tâm tài chính, ngân hàng, chứng khoán và bưu chính viễn thông của

khu vực miền Trung và là một trong những trung tâm văn hoá, giáo
dục, đào tạo, trung tâm khoa học công nghệ miền Trung…

Khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam) sẽ phát triển theo mô hình
"khu trong khu". Đây cũng là khu kinh tế mở duy nhất được xây
dựng và phát triển để thử nghiệm thể chế, chính sách mới, tạo môi
trường đầu tư phù hợp với các thông lệ quốc tế cho các loại hình
kinh doanh của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Sân bay Chu
Lai sẽ được đầu tư phục hồi và nâng cấp giai đoạn 1 phục vụ nửa
triệu lượt hành khách và khoảng 500 tấn hàng hoá/năm. Về lâu dài
đây sẽ là sân bay quốc tế trung chuyển của vùng và của khu vực.
Đồng thời tiếp tục đầu tư xây dựng và nâng cấp mở rộng sân bay Đà
Nẵng.

Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) sẽ phát triển thành một khu
kinh tế tổng hợp đa ngành với các chính sách ưu đãi, khuyến khích
ổn định lâu dài. Tại đây sẽ tập trung phát triển công nghiệp lọc dầu-
hoá dầu-hoá chất, từng bước phát triển các ngành công nghiệp cơ
khí, đóng sữa chữa tàu biển, luyện cán thép, sản xuất xi măng, sản
xuất container…bên cạnh đó sẽ phát triển hệ thống giao thông liên
khu với 10 bến cảng dầu khí, khu cảng tổng hợp, đê chắn sóng, đê
chắn cát…

Khu kinh tế- thương mại Chân Mây (Thừa Thiên Huế), trước mắt
phát triển cảng Chân Mây. Trong giai đoạn 2006-2010 xây dựng
trung tâm thông tin quốc tế, cùng hệ thống dịch vụ thương mại, du
lịch, tài chính, ngân hàng, và các ngành nghề khác.

Giao thông cảng biển sẽ là huyết mạch: Trước mắt, nâng cấp cảng
Tiên Sa, đưa năng lực thông qua trên 4 triệu tấn/năm vào năm 2010,

cùng với việc xây dựng cảng nước sâu Liên Chiểu có công suất 2
triệu tấn/năm (giai đoạn 1) và 8,5 triệu tấn/năm (giai đoạn 2), đồng
thời đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cảng Dung Quất, Kỳ Hà, Quy
Nhơn. Theo dự báo đến năm 2010, số lượng bến bãi sẽ tăng thêm để
bảo đảm lượng hàng thông qua vào khoảng 4 triệu tấn/năm.

Vùng kinh tế trọngđiểm phía Nam
Theo Quyết định số 146/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
mục tiêu phát triển chủ yếu của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 1,2 lần (giai đoạn
2006-2010) và 1,1 lần (giai đoạn 2011-2020) so với tốc độ tăng
trưởng bình quân của cả nước. Tỷ lệ đóng góp trong GDP cả nước
tăng từ 36% hiện nay lên 40-41% vào năm 2010 và 43-44% vào
năm 2020, đồng thời giá trị xuất khẩu bình quân đầu người /năm
cũng tăng từ 1.493 USD năm 2010 và 22.310 USD năm 2020.

Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Bà-Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước và
Long An, sẽ trở thành một trong những vùng kinh tế phát triển năng
động, có tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, thực sự là vùng kinh tế
động lực của cả nước.

Dự kiến thành phố Hồ Chí Minh sẽ trở thành một trung tâm dịch vụ
chất lượng cao về các mặt viễn thông, dịch vụ vận tải, tài chính, ngân
hàng, du lịch của cả nước và có tầm quốc tế. Đến năm 2010, công
nghiệp điện tử, tin học trở thành ngành mũi nhọn, hướng xuất khẩu
từng bước phát triển đồng bộ cả phần cứng, phần mềm, trong đó ưu
tiên phát triển phần mềm đưa vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trở
thành trung tâm mạnh về sản xuất linh kiện điện tử, phần mềm, tin
học viễn thông ở khu vực Đông Nam Á. Đến năm 2005, giá trị sản

xuất phần mềm tại đây sẽ tăng lên khoảng 1.800 tỷ đồng (tương
đương 150-160 triệu USD).

Tiếp tục hoàn thành nâng cấp quốc lộ 50, 20, 22B, tuyến N2…sớm
đầu tư các tuyến đường cao tốc từ thành phố Hồ Chí Minh đi Cần
Thơ; hiện đại hoá ga hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất; năm 2010
hoàn thành phương án di dời cảng Sài Gòn ra khỏi nội thành. Từng
bước đầu tư xây dựng cảng Thị Vải, cảng Cái Mép để đảm bảo nhu
cầu vận tải của các khu vực phía Nam và là cửa ngõ ra biển của
đường xuyên Á.

Giai đoạn 2006-2010, các tuyến đường sắt từ thành phố Hồ Chí Minh
đi Vũng Tàu sẽ được xây dựng cùng với việc xây dựng hệ thống
đường sắt kết nối cảng biển với các khu công nghiệp trên hành lang
đường 51, thành phố Hồ Chí Minh đi Phnôm Pênh, đồng bằng sông
Cửu Long và Tây Nguyên.

Hình thành các khu đô thị mới có quy mô dân số khoảng 70-100 vạn
dân ở Phú Mỹ, Long Sơn, Long Hải (Bà Rịa-Vũng Tàu), Dĩ An-Tân
Uyên (Bình Dương), Tam Phước, Nhơn trạch

×