Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

TÌM HIỂU VỊ TRÍ ĐỊA LÍ TỈNH QUẢNG TRỊ - TIỀM NÂNG & CƠ SỞ HẠ TẦNG doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.31 KB, 10 trang )

TÌM HIỂU VỊ TRÍ ĐỊA LÍ TỈNH QUẢNG
TRỊ - TIỀM NÂNG & CƠ SỞ HẠ TẦNG

Quảng Trị là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Địa hình của lãnh
thổ nằm tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, ngoảnh mặt ra biển
Đông bao la và phân bố đa dạng theo không gian và có sự đan xen
mạnh mẽ giữa vùng gò đồi, thung lũng, vùng nội đồng và cồn cát ven
biển. Tuy đất không rộng, người không đông nhưng ở đây có những
tiềm năng về tài nguyên đất đai, khoáng sản, về con người, nguồn
nhân lực và có những tiềm năng lợi thế về cơ sở hạ tầng để phát
triển kinh tế - xã hội đảm bảo cho vai trò trọng yếu của mình nằm
trên một vị trí chiến lược quan trọng trong việc khai thác, bảo vệ
vùng biển Đông và trên trục Hành lang kinh tế Đông - Tây.

- Tiềm năng về con người - nguồn nhân lực:
Quảng Trị tuy dân số không đông nhưng có cơ cấu dân số thuộc loại
trẻ, lao động dồi dào. Tính đến 31/12/2006 dân số Quảng Trị có
627.077 người. Trên Quảng Trị có 3 cộng đồng tộc người đang cùng
nhau sinh sống, đó là người Kinh, người Bru- Vân Kiều, người Pa Cô-
Tà Ôi. Trong tổng dân cư đó, người Kinh là đông nhất.

Mật độ dân số 132 người/Km2. Cơ cấu dân số vùng ở thành thị:
24,55%, nông thôn: 76,45%. Lao động trong độ tuổi 336.327 người,
trong đó lao động nữ 159.736 người. Tỷ lệ thời gian lao động ở nông
thôn đạt 79,65%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chung đạt 23,3%. Quảng
Trị đã chú trọng đến công tác đào tạo nghề, tăng cường đầu tư cơ sở
vật chất cho công tác đào tạo nghề. Hoạt động xuất khẩu lao động có
hiệu quả, số lượng, chất lượng ngày càng tăng.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo được phát triển cả về quy mô, chất
lượng và hiệu quả, nhất là ở bậc trung học và dạy nghề. Mặt bằng
dân trí ngày càng được nâng cao. Quảng Trị đã được công nhận phổ


cập giáo dục THCS, phấn đấu đến năm 2010 đạt 70% phổ cập THPT,
tạo nền tảng để đến năm 2015 cơ bản hoàn thành phổ cập THPT
đúng độ tuổi. Tỉnh có 5 trường Trung học chuyên nghiệp, 1 trường
Cao đẳng, 1 trường Đại học, hàng năm đào tạo trên 2000 sinh viên có
trình độ trung cấp nghề, cao đẳng và đại học trên các ngành, các lĩnh
vực. Tỉnh đã chủ động mở rộng hợp tác với các trường Đại học trong
và ngoài nước để đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh. Nhiều đề án,
chính sách về giáo dục được triển khai thực hiện tốt. Phong trào xã
hội hoá giáo dục được phát triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng, đảm
bảo được nguồn nhân lực trước mắt và dự trữ cho tương lai của tỉnh
nhà.

Mạng lưới y tế từ tuyến tỉnh đến cơ sở đã tập trung đầu tư xây dựng
và phát triển. Chất lượng khám chữa bệnh từng bước được nâng cao.
Số giường bệnh và nhiều thiết bị hiện đại đã được đầu tư cho các
trung tâm y tế từ tỉnh đến huyện. Số cơ sở y tế trên toàn tỉnh: 161
với 1.609 giường bệnh, trong đó có 10 bệnh viện, 12 phòng khám đa
khoa khu vực, 01 trạm điều dưỡng, 100% xã, phường có trạm y tế,
gần 67% xã có bác sĩ; toàn tỉnh có 379 bác sĩ, dược sĩ cao cấp; trình
độ chuyên môn và y đức của đội ngũ thầy thuốc được nâng lên đảm
bảo cho việc bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân và các dịch vụ y tế.

Con người và vùng đất Quảng Trị có bề dày lịch sử- văn hoá, trải qua
bao nhiêu thời đại, con người trên mãnh đất này đã vượt qua mọi
thử thách gian nan để làm nên những kỳ tích trong đấu tranh và xây
dựng đã để lại nhiều di sản văn hoá, lịch sử và mỗi tộc người có
những nét đặc trưng về văn hoá, truyền thống đặc sắc và phong phú
đáng được nghiên cứu và chiêm ngưỡng.

- Tiềm năng về tài nguyên đất đai, khoáng sản:

Đất Quảng Trị vừa đa dạng vừa phức tạp. Đất ở đây chủ yếu chia
thành 11 nhóm và 32 loại đất chính (theo tài liệu của FAO và
UNESCO) đặc trưng chung gồm 3 nhóm cơ bản: Nhóm cồn cát và đất
cát ven biển gồm các cồn cát trắng kéo dài từ Vĩnh Linh đến Hải
Lăng, chiếm 6,23% và đất cát ven biển phân bổ rải rác dọc ven biển,
chiếm 1,3% đất tự nhiên của tỉnh. Dãi cát này có nhiều khoáng sản; ở
đây có thể thành lập các làng sinh thái, trồng cây ăn quả và trồng các
loại hoa màu, nuôi trồng các loại hải sản. Nhóm đất phù sa do các
sông bồi đắp hàng năm dọc ven sông Mỹ Chánh, Thạch Hãn, sông
Hiếu, sông Bến Hải , chiếm 2% diện tích đất tự nhiên của tỉnh, có độ
màu mỡ, tiềm năng dinh dưỡng khá cao đã và đang đưa vào sản xuất
hoa màu có giá trị. Đất phù sa ít được bồi đắp ở thềm cao ven các
dòng sông, đất tuy chua nhưng có độ phì nhiêu cao, đất phù sa có
tầng loang lổ đỏ vàng, đất phù sa glây có diện tích cao đang sử dụng
vào để trồng lúa nước. Nhóm đất đỏ vàng (Bazan) phân bố ở vùng
núi và gò đồi trung du, đặc biệt là đất màu đỏ (Bazan) có chừng
20.000 ha, đất có tầng dày tơi xốp, độ mùn khá thích hợp cho phát
triển mọi loại cây công nghiệp lâu năm. Đất đỏ Bazan này còn có khả
năng khai thác thêm 7.000 - 8.000 ha.

+ Quảng Trị có bờ biển dài 75km, ven bờ là dải cát trắng mịn, phía
trong là những cồn cát cao, một số rạn đá ngầm ven bờ có tác dụng
chắn sóng, vừa là nơi cư trú cho những loài hải sản, vừa tạo nên
những bãi tắm đẹp như Cửa Tùng, Cửa Việt, Mỹ Thuỷ; có 2 cửa biển
chính là Cửa Tùng và Cửa Việt. Cảng Cửa Việt được Tập đoàn công
nghiệp tàu thuỷ Việt Nam tiếp nhận và lập dự án nâng cấp với tổng
mức đầu tư dự kiến 600 tỷ đồng, xây dựng nhà máy đóng tàu ở bờ
Nam Cửa Việt công suất 70.000 DWT (trọng tải toàn phần của tài
thuỷ) với tổng mức đầu tư dự kiến là 1.500 tỷ đồng và lập dự án xây
dựng khu du lịch sinh thái quốc tế và sân gôn Quảng Trị, mặt tiếp

giáp với biển 3km, tổng mức đầu tư dự kiến 1.000 tỷ đồng. Ngoài
khơi có đảo Cồn Cỏ cách bờ (Mũi Lay) chừng 30km, không chỉ đóng
vai trò quan trọng trong thế vươn ra biển, không chỉ có vị trí quân sự
trong việc phòng thủ biển Đông mà còn có thể đầu tư trở thành một
điểm đến du lịch hấp dẫn.
Vùng lãnh hải Quảng Trị khoảng 8.400km2, ngư trường đánh bắt
rộng lớn. Biển Quảng Trị có đầy đủ các loại hải sản quý như: tôm
hùm, mực, cá thu, cá ngừ, cá chim, hải sản, tảo có trữ lượng khoảng
60.000 tấn, trong đó đặc sản chiếm khoảng 11% (theo đánh giá của
FAO). Khả năng nuôi trồng hải sản ven bờ biển khá lớn, mặt nước lợ
các vùng sông có khả năng nuôi trồng tôm sú, tôm he, cua biển, rong
câu Đây là các loại hải sản xuất khẩu tốt.

+ Rừng ở Quảng Trị đa dạng và phong phú được che phủ bởi rừng
kín, tổ chức thành loài bao gồm cây lấy gỗ với nhiều loại gỗ tốt, quí
hiểm như: Lim xanh, trường, táu đá, trám, kiền kiền, gụ, sồi, gội,
ngát, trâm , cây dược liệu, cây cảnh có giá trị kinh tế cao. Rừng đầu
nguồn còn giữ được tính nguyên sinh, rậm, nhiều tầng, có độ che phủ
lớn.

Ngoài ra, ở vùng gò đồi còn có cây trồng công nghiệp, nông nghiệp và
rừng trồng như cây cao su, hồ tiêu, cà phê, chè, bạch đàn, keo tràm,
thông nhựa với diện tích tương đối lớn. Theo số liệu thống kê năm
2006, rừng trồng tập trung là 4. 528,6 ha, Cà phê 3.955,6 ha, Cao su
12.611 ha.
Tuy đã trải qua bao biến đổi do tác động con người, tác động của
chiến tranh tàn phá nhưng với những chủ trương, giải pháp có hiệu
quả của tỉnh về trồng và bảo vệ rừng nên rừng Quảng Trị hiện nay
đang dần dần hồi phục. Có những điểm rừng nguyên sinh với nhiều
loài động, thực vật phong phú, có loài được nằm trong sách Đỏ như

rừng Tràm Trà Lộc (Hải Lăng), Rú Lịnh (Vĩnh Linh), có vùng kết hợp
với những hang động của núi đá vôi tạo thành phong cảnh hấp dẫn
như khu du lịch sinh thái Đakrông. Đó là những điểm đến lý tưởng
của du khách.

+ Thiên nhiên đã ưu đãi cho Quảng Trị nhiều loại tài nguyên khoáng
sản đa dạng và hết sức phong phú, dễ khai thác, có nhiều mỏ và điểm
quặng thuộc nhóm kim loại (sắt, đồng, vàng, titan), vật liệu xây dựng
(đá vôi, đất sét, đá Bazan, đã tổ ong, đá trang trí và các điểm than
bùn, cát thuỷ tinh, nước khoáng). Đặc biệt một số mỏ có trữ lượng
lớn và là lợi thế của tỉnh như mỏ đá vôi và nguyên liệu sản xuất xi
măng kéo dài theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, tập trung ven Đường
9, Đường 14, trữ lượng khoảng 3,5 tỷ tấn. Đá vôi với chất lượng khá
tốt (CaO gần 50%, MgO chiếm từ 0,4 - 3%). Nguyên liệu sét và các
phụ gia khác để sản xuất xi măng đều sẵn có. Mỏ Titan ven biển toàn
tỉnh khoảng 1 triệu tấn, chất lượng Inmenhit, Zilicon, Rutin khá cao,
dễ khai thác, thuận tiện giao thông. Cát thuỷ tinh tập trung ở Nam,
Bắc Cửa Việt có độ tinh khiết và hàm lượng Silíc cao, có thể khai thác
và sản xuất thuỷ tinh cao cấp. Nguồn nước khoáng Tân Lân có 3
điểm xuất lộ chính có nhiệt độ 420C, PH = 7,1; nước khoáng Đakrông
có 2 điểm xuất lộ với nhiệt độ 780C, PH = 7,8. Chất lượng của các
nguồn nước khoáng khá tốt, vừa có tác dụng làm nước giải khát, tắm,
điều dưỡng chữa bệnh, phục vụ du lịch.

- Tiềm năng cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã có những tiến bộ vượt bậc, tạo tiền
đề cơ bản cho sự phát triển trước mắt, chuẩn bị điều kiện cho các
bước phát triển những năm tiếp theo.
Hệ thống giao thông vận tải được đầu tư nâng cấp, sửa chữa đáng kể,
góp phần đáp ứng cơ bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Các

tuyến đường giao thông về trung tâm xã và các cụm dân cư miền núi,
các tuyến đường ven biển, tuyến các đường đến khu dịch vụ hậu cần
nghề cá được hình thành và phát triển, cảng Cửa Việt là đầu mối lưu
thông với các cảng khác trong nước. Đặc biệt là tuyến Đường 9,
Đường Hồ Chí Minh, đường Quốc lộ 1A được xây dựng, nâng cấp
cùng với tuyến đường sắt Bắc - Nam nối kết với nhau liên hoàn, nâng
cao năng lực vận tải trên đường bộ, đường sông và đường biển, đảm
bảo cho việc giao lưu thông suốt giữa hai miền Bắc - Nam của đất
nước, đảm bảo là vị trí ngã ba Đông Dương với hành lang Quốc lộ 9
xuyên dọc cả tỉnh thông qua đèo Lao Bảo nối cảng Cửa Việt với nước
bạn Lào - Đông Bắc Thái Lan - Mianma, mở ra quan hệ rộng lớn với
đại lục Tây Á.
Các khu công nghiệp cùng với cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ
tầng được hình thành, phát triển, thu hút được nhiều nhà đầu tư và
đang đi vào hoạt động tốt như khu công nghiệp Nam Đông Hà, khu
công nghiệp Quán Ngang. Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo,
Trung tâm thương mại Đông Hà cùng các vệ tinh thương mại huyện,
thị xã, thị trấn phát triển khá ổn định.

Các cụm điểm du lịch như cụm điểm du lịch Lao Bảo- Khe Sanh, cụm
điểm du lịch Đakrông, cụm điểm du lịch Đông Hà và các vùng lân
cận, cụm điểm du lịch sinh thái biển Cửa Việt- Cửa Tùng- Cồn Cỏ và
các dịch vụ du lịch được đầu tư, phát triển. Với nhiều loại hình du
lịch đa dạng, phong phú, độc đáo: du lịch hồi tưởng, du lịch tâm linh
với một hệ thống di tích đồ sộ với hơn 489 cụm điểm di tích, trong
đó có 29 di tích cấp quốc gia với 03 cụm điểm di tích được xếp hạng
đặc biệt quan trọng là cụm di tích Thành Cổ Quảng Trị, cụm di tích
Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, Cụm di tích Đôi bờ Hiền Lương-
Bến Hải; du lịch sinh thái rừng và biển như khu bảo tồn thiên nhiên
Đakrông, khu lòng hồ thuỷ điện Rào Quán, rừng thông Khe Sanh,

rừng nguyên sinh ven biển Rú Lịnh, khu bảo tồn sinh thái Trằm Trà
Lộc, Cửa Tùng, Cửa Việt, Triệu Lăng, Mỹ Thuỷ, Cồn Cỏ

Sử dụng điện lưới quốc gia được phát triển, 100% số xã phường
được sử dụng điện. Công trình thuỷ lợi - thuỷ điện Rào Quán đã vận
hành tổ máy số 1 và đang tiếp tục thi công các tổ máy tiếp theo đúng
tiến độ để hoà vào làm tăng thêm năng lực và ổn định điện của mạng
lưới quốc gia đảm bảo cho việc sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh của
nhân dân.

Bưu chính viễn thông, thông tin, báo chí được phát triển nhanh bằng
nhiều nguồn lực. Trên toàn tỉnh có 09 bưu điện huyện, thị xã, 33 bưu
cục khu vực, 112 bưu điện- văn hoá xã, 44 tổng đài điện thoại, 11
máy điện báo, 110 thiết bị VIBA-VIBA equipment, 15 máy vô tuyến
điện, 100% số xã có điện thoại. Mạng điện thoại vô tuyến đầu tư liên
kết giữa các công ty trong nước và nước ngoài đã phủ sóng hầu hết
trên địa bàn toàn tỉnh đảm bảo cho sự thông suốt thông tin một cách
kịp thời. Chất lượng hoạt động thông tin báo chí ngày càng được
nâng lên đáp ứng được nhu cầu người dân, diện phủ sóng phát thanh
đạt trên 90%, truyền hình đạt trên 70% địa bàn dân cư.
Quảng Trị được coi là miền đất- con người "Địa linh- Nhân kiệt". Nơi
ấy có nhiều lợi thế về tiềm năng con người- nguồn nhân lực, có nhiều
tiềm năng đất đai, khoáng sản cùng với những tiềm năng về cơ sở hạ
tầng sẽ là những điều kiện để phát triển kinh tế- xã hội, xứng đáng vị
trí của một tỉnh nằm trên trục hành lang kinh tế Đông - Tây.

×