Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Vai trò FDI trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam - 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.76 KB, 9 trang )


10

một số tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh công nghiệp hoá trong điều kiện mới. Đến đại
hội lần VII xủa Đảng cộng sản Việt Nam thì vấn đề công nghiệp hoá theo hướng hiện
đại "Phát trỉên lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá theo hướng hiện đại gắn với phát
triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm". Hội nghị lần thứ 7 của
ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VII đã biên thảo kỹ về vấn
đề tiến hành công nghiệp hoá với đặc trưng là: Công nghiệp hoá trong điều kiện nền
kinh tế thị trường, với xu hướng phân công lao động quốc tế, khu vực hoá, toàn cầu
hoá, các hoạt động kinh tế đang trở thành phổ biến và diễn ra với tốc độ cao, công
nghiệp hoá phaỉ đi đôi với hiện đại hoá.
a) Bối cảnh kinh tế quốc tế.
Việt Nam khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện khu vực hoá,
toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế trở thành xu thế phổ biến và diễn ra một cách mạnh
mẽ và thời gian này nhiều nước tiến hành công nghiệp hoá thành công, và đây là cơ sở
để nước ta tham khảo, lựa chọn những mô hình kinh nghiệm và cách thức phù hợp để
vận dụng vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặt khác, thế giới ngày nay đang chứng
kiến sự phát triển chưa từng có trong lịch sử về khoa học kỹ thuật công nghệ. Việt
Nam cũng như các nước đang phát triển khác có thể tiếp cận được những kỹ thuật tiên
tiến mà thường tốn thời gian, chi phí tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm. Và Việt Nam
lựa chọn sao cho phù hợp với yêu cầu của công nghiệp hoá của nước mình và tính kinh
tế tức là nhanh chóng ứng dụng được vào sản xuất và đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
Quá trình toàn cầu hoá đã giúp Việt Nam tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát
triển chính thức và giải quyết được vấn đề nợ quốc tế. Điều này đã góp phần ổn định
cán cân thu chi ngân sách tập trung nguồn lực cho trương trình phát triển kinh tế xã hội
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

11

trong nước. Tham gia hội nhập kinh tế cũng góp phần cho ta tiếp thu khoa học công


nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý, và cán bộ kinh tế. Điều này góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Nếu xét ở phạm vi hẹp hơn, Việt Nam nằm trong vùng Châu á- Thái Bình Dương hiện
đang là khu vực kinh tế năng động, có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, có nhiều nước
thực hiện công nghiệp hoá thành công, tạo ra một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
phân công lao động quốc tế theo hướng tích cực. Châu á- Thái Bình Dương hiện đang
là khu vực có sự hình thành một tổ chức hợp tác kinh tế có hiệu quả như AITA,
APEC…. Các tổ chức này là điều kiện quan trọng để phá bỏ những hạn chế, cản trở,
không những trong lĩnh vực mậu dịch, mà nó còn là cơ sở mở đường cho sự dịch
chuyển vốn, công nghệ và các yếu tố sản xuất quan trọng giữa các nước trong khu vực.
Vì thế, Việt Nam thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở điểm xuất phát thấp so với
các nước đi trước tuy còn ở mức thấp hơn nhiều về thực lực kinh tế nội sinh nhưng có
bối cảnh kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi.
b) Mục tiêu và các yếu tố đảm bảo cho sự thành công trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
Đối với Việt nam thực chất "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội và sử dụng lao động thủ công là chính, xong sử dụng một cách phổ biến mức lao
động cùng với công nghệ, phương tịên và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự
phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao.
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nước ta thành một nước
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

12

công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế phù hợp, quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công băng văn
minh" [62.7].

Mục tiêu trung hạn là ra sức phấn đấu đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành một
nước công nghiệp. Tức là một nước có nền kinh tế trong đó lao động công nghiệp trở
thành phổ biến.
CNH, HĐH là một quá trình biến đổi từ xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp.
Đây là sự biến đổi toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, và quá trình biến
đổi này chỉ có thể thành cong khi nó có các yếu tố (các điều kiện) cơ bản sau:
Thứ nhất: huy động và tập trung được một số lượng vốn đủ lớn và tổ chức sử dụng
chúng một cách có hiệu quả đúng theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế CNH, HĐH.
Vốn này có thể được huy động từ các nguồn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn
trong nước là quyết định và nguồn vốn từ nước ngoài có vị trị rất quan trọng. Trong
điều kiện tiết kiệm và tích luỹ trong nước còn thấp, việc huy động vốn còn khó khăn
thì việc tận dụng mọi khả năng để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài được đặt ra cấp
bách như điều kiện tiên quyết cho thời kỳ đầu tiến hành CNH, HĐH.
Thứ hai, có nguồn nhân lực đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu của một nền sản xuất
hiện đại. Vốn dĩ xuất từ một nền kinh tế kém phát triển, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, lao
động thủ công là chủ yếu, nguồn nhân lực của ta từ người lao động giản đơn đến nhiều
cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, nhà doanh nghiệp… đều rất khó khăn, bỡ ngỡ khi
đứng trước đòi hỏi về trình độ và năng lực của một lao động trong nền sản xuất hiện
đại. Do đó, để đáp ứng yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH thì việc đầu tư cho giáo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

13

dục, đào tạo được đặt ra như một quốc sách hàng đầu. Thực hiện có hiệu quả việc đào
tạo và đào tạo lại, đa dạng hoá các loại hình và hình thức đào tạo là một trong những
cách thức để chúng ta có thể tạo ra được một cơ cấu nhân lực thích hợp, quyết định sự
thành công của công cuộc CNH, HĐH đất nước.
Thứ ba, có được một hệ thống thể chế kinh tế - xã hội đồng bộ, đúng hướng, phù hợp
với đặc điểm và trình độ của lực lượng sản xuất nhằm làm cho chính bản thân yêu cầu
của các hoạt động sản xuất kinh doanh quyết định sự chuyển biến về cơ cấu theo

hướng cơ cấu của một nền kinh tế CNH, HĐH. Và, sự chuyển biến này cũng là điều
kiện để có được những tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ thích ứng với đòi hỏi
của nền kinh tế CNH, HĐH.
Thứ tư, có quan hệ kinh tế đối ngoại rộng rãi và hiệu quả. Đây là luồng quan trọng
nhằm thu hút tốt nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tri thức quản lý tiên tiến và
khả năng hoà nhập với nền kinh tế thế giới để giảm bớt những bước tìm tòi, thử
nghiệm, tiếp cận nhanh những tri thức, thanh tựu tiên tiến của thế giới, rút ngắn những
bước đi của công cuộc CNH, HĐH.
Thứ năm, có một thị trường đầy đủ, rộng khắp (kể cả thị trường trong và ngoài nước)
và hoàn chỉnh như là điều kiện thực hiện các yêu cầu CNH, HĐH. Thị trường là điều
kiện thực hiện các yêu cầu CNH, HĐH. Thị trường là điều kiện vì chỉ có thông qua nó
thì mọi yếu tố đầu vào, đầu ra mới có thể được đáp ứng và phần lớn các quan hệ sản
xuất - kinh doanh mới được giải quyết. Thị trường vốn, thị trường tư liệu sản xuất, thị
trường kỹ thuật - công nghệ, thị trường lao động… đi vào hoạt động càng hoàn chỉnh
thì tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển cũng như tiến trình hoàn thành CNH, HĐH
càng cao.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

14

c) Một số yêu cầu và những vấn đề đặt ra của tiến trình CNH, HĐH ở Việt Nam đối
với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Thu hút vốn nước ngoài, một mặt góp phần giải quyết một trong những tiền đề cơ
bản, mang tính chất quyết định sự khởi động cho sự nghiệp CNH, HĐH. Mặt khác,
làm điều kiện kết hợp các yếu tố nội lực để khai thác tốt các tiềm năng trong nước
nhằm thúc đẩy tăng trưởng và chuyển biến nền kinh tế theo cơ cấu của một nền kinh tế
công nghiệp.
- Góp phần đổi mới công nghệ, trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân,
nâng cao năng lực cho người lao động và tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.

- Hình thành một thị trường đồng bộ, mở rộng và góp phần làm tăng khả năng thanh
toán của thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ… Mở rộng giao lưu quốc tế, thúc đẩy
hợp tác và hội nhập quốc tế, tăng xuất khẩu.
- Góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tạo nguồn thu cho ngân sách.
Những vấn đặt ra:
Thứ nhất: Mối quan hệ về lợi ích giữa các nhà đầu tư với nước chủ nhà. Một dự án đầu
tư trực tiếp nước ngoài chỉ có thể thành khả thi khi lợi ích được phân phối hợp lý.
Thứ hai: Quan hệ giữa quản lý và lao động - có thể đó là quan hệ giữa chủ sở hữu với
lao động làm thuê.
Thứ ba: Mối quan hệ giữa tiếp thu, ứng dụng công nghệ tiên tiến, thực hiện chiến lược
"đi tắt, đón đầu" nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH với vấn đề tạo việc làm cho người lao
động.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

15

Thứ tư: Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp có vấn đề đầu tư nước ngoài với các
doanh nghiệp trong nước.
III. Vai trò đầu tư trực tiếp vào Việt Nam
1. Nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển kinh tế
Tỷ lệ tích luỹ vốn ở nước ta còn ở mức thấp, là một trở ngại lớn cho phát triển nền
kinh tế xã hội. Với mục tiêu "xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng XHCN. Với lượng tích luỹ vốn này Việt
Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trở ngại. Thu hút FDI là một hình thức huy động vốn
để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Hơn thế nữa FDI còn có nhiều ưu thế
hơn so với hình thức huy động khác, ví dụ việc vay vốn nước ngoài luôn đi cùng với
một mức lãi suất nhất định và đôi khi trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, hoặc là các
khoản viện trợ thường đi kèm với điều kiện về chính trị.
Trong khi đó liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp

trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính. Bởi vì: Thứ nhất là, họ có nhiều kinh
nghiệm nên hạn chế và ngăn ngừa được rủi ro. Hai là, trong tình huống xí nghiệp liên
doanh giữa họ với chúng ta, có nguy cơ rủi ro thì các công ty mẹ sẽ có các biện pháp
hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, trợ giúp tài chính. Trong tình huống xấu nhất thì họ
cũng sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với các công ty của các nước sở tại.
FDI vào Việt Nam sẽ tạo ra các tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn
khác như ODA, NGO. Nó tạo ra một hình ảnh đẹp đáng tin cậy về Việt Nam trong các
tổ chức và cá nhân nước ngoài. Mặt khác, ngay trong quan hệ đối nội, FDI còn có tác
dụng kích thích đối với việc thu hút vốn đầu tư trong nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

16

Tích luỹ vốn ban đầu cho công nghiệp hoá bằng cách khai thác tối đa nguồn vốn trong
nước và tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài là phù hợp với thời đại hiện nay, thời đại
của sự hợp tác và liên kết quốc tế.
2. Chuyển giao công nghệ mới
Với chiến lược xây dựng Việt Nam thành nước công nghiệp, theo đuổi con đường
CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN, tuy nhiên khoảng cách về phát triển
khoa học công nghệ giữa các nước phát triển, nhất là Việt Nam, với các nước công
nghiệp phát triển. Vì thế một trở ngại một trở ngại rất lớn trên con đường phát triển
kinh tế là trình độ kỹ thuật - công nghệ lạc hậu. Tuỳ vào hoàn cảnh của mỗi nước mà
có cách đi riêng để giải quyết vấn đề này. Việc mà các nước đang phát triển tự nghiên
cứu để phát triển khoa học kỹ thuật cho kịp với trình độ của các nước phát triển là việc
khó khăn và tốn kém. Con đường nhanh nhất để phát triển kỹ thuật - công nghệ và
trình độ sản xuất của các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay là phải biết tận
dụng được những thành tựu kỹ thuật - công nghệ hiện đại trên thế giới, tuy nhiên mức
độ hiện đại đến đâu còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong điều kiện hiện nay, trên thế
giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và
thực hiện chuyển giao công nghệ cho nước nào tiếp nhận đầu tư. Thì đây là cơ hội cho

các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam có thể tiếp thu được kỹ thuật - công
nghệ thuận lợi nhất. Nhưng không phải các nước đang phát triển được "đi xe miễn phí"
mà họ cũng phải trả một khoảng "học phí" không nhỏ cho việc tiếp nhận chuyển giao
công nghệ này. Chuyển giao công nghệ cũng là yêu cầu tất yếu của sự phát triển khoa
học kỹ thuật. Bất kỳ một tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật - công nghệ mới thì cũng
phải tìm được "nơi thải" những kỹ thuật - công nghệ cũ. Việc "thải" những công nghệ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

17

cũ này dễ dàng được nhiều nơi chấp nhận. Tuy nhiên các nước phát triển xem các
nước đang phát triển như "bẫi rác", là nơi thải các máy móc lạc hậu… vì vậy việc tiếp
nhận công nghệ thông qua kênh FDI còn có vài vấn đề cần giải quyết. Thứ nhất, khi
tiếp nhận máy móc thiết bị vào lắp đặt, xây dựng, Việt Nam có biện pháp kiểm tra chặt
chẽ nên đã để cho nước ngoài đưa vào nhiều thiết bị cũ và lạc hậu. Thứ hai, rất ít khi
có sự "khuyếch tán" công nghệ từ những ngành tiếp nhận công nghệ sang các ngành
khác của nền kinh tế. Thứ ba, năng lực tiếp nhận của chúng ta còn yếu, việc lựa chọn
kỹ thuật còn nhiều lúng túng, chưa có kế hoạch, quy hoạch tổng thể, đôi khi còn tuỳ
tiện hoặc thiếu hiểu biết.
FDI mang lại cho nước tiếp nhận đầu tư, những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, yếu tố
quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất.
3. Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế
giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong
nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Bởi lẽ, đầu tư trực tiếp nước
ngoài góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì: 1)
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh
tế mới ở nước nhận đầu tư. 2) Giúp vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật
công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các
ngành này và làm tăng tỉ trọng của nó trong nền kinh tế. 3) Một số ngành được kích

thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng sẽ có nhiều ngành bị mai
một đi rồi đi đến chỗ bị xoá bỏ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

18

Về cơ cấu ngành kinh tế (ở Việt Nam) được thể hiện ở tỷ trọng của các ngành trong
GDP. Tỷ trọng của Việt Nam trong thời gian từ 1990 đến nay có sự thay đổi đáng kể.
Các ngành kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực, tất cả các nhóm trong ngành đều
tăng. Do có sự tăng cường đầu tư nhiều hơn, nhất là trang bị máy móc thiết bị, công
nghệ, nền sản xuất công nghiệp trong thời gian qua đã đạt tốc độ nhanh và chiếm tỉ
trọng ngày càng tăng trong GDP. Trong 9 tháng đầu năm 1996, giá trị sản lượng trong
khu vực có vốn FDI chiếm 21,7% tổng sản lượng công nghiệp. Hiện nay khu vực này
chiếm 100% về khai thác dầu thô, 44% về sản lượng thép, hầu hết lĩnh vực lắp ráp ô
tô, xe máy, và sản xuất bóng hình là do các cơ sở này nắm giữ. Qua đây thấy vai trò
FDI trong sản xuất công nghiệp của Việt Nam hiện nay.
FDI thực sự đã có vai trò to lớn với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế thông qua việc đầu
tư nhiều hơn vào ngành công nghiệp. Vì ngành công nghiệp có năng suất lao động cao
nhất và tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, nên FDI đã góp phần to lớn vào tăng nhanh tốc
độ phát triển kinh tế quốc dân.
Để trở thành một quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020 và để nền kinh tế Việt Nam
có thể hội nhập với khu vực và thế giới, một đòi hỏi bức xúc là phải đẩy nhanh hơn
nữa quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới.
Hoạt động của đầu tư đã giúp Việt Nam mở rộng hơn thị phần nước ngoài. Góp phần
làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng của một nền kinh tế hàng hoá. Đối
với Việt Nam, vốn FDI đóng vai trò như lực khởi động, như một trong những điều
kiện đảm bảo cho sự phát triển của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Một số dự án FDI
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×