Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ nghiên cứu thành phần bọ trĩ hại lạc và thiên địch của chúng, đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của loài frankinella intonsa trybon và biện pháp phòng trừ ở nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.26 KB, 24 trang )


1
MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Cây lạc (Arachis hypogaea Linnaeus) là cây công nghiệp ngắn
ngày, cây lấy dầu có giá trị kinh tế cao, đồng thời là cây cải tạo đất
tốt. Chính vì vậy nhu cầu sản xuất lạc trên thế giới và Việt nam ngày
càng tăng. Nghệ An là tỉnh có diện tích trồng lạc lớn nhất vùng Bắc
Trung bộ và Duyên hải Miền Trung với 21,9 nghìn ha [14].
Ở Việt nam nghiên cứu về loài bọ trĩ hại cây trồng nói chung, cây
lạc nói riêng còn rất hạn chế, cho đến nay mới chỉ có một vài công
trình nghiên cứu về bọ trĩ hại cây trồng như: (Phạm Thị Vượng, 1998
[12], (Hà Quang Hùng, 2000 [5]). Yorn Try (2008) [13], Hà Quang
Dũng (2008) [3] Hơn nữa những nghiên cứu này chỉ dừng ở điều tra
cơ bản.
Xuất phát từ thực tiễn sản xuất lạc hiện nay. Chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu thành phần bọ trĩ hại lạc và thiên địch
của chúng, đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của loài Frankliniella
intonsa Trybom và biện pháp phòng trừ ở Nghệ An”
2 Mục đích và yêu cầu của đề tài
2.1 Mục đích của đề tài
Trên cơ sở xác định thành phần bọ trĩ hại lạc và thiên địch của
chúng, đặc điểm sinh học, sinh thái của bọ trĩ chính hại lạc tại Nghệ
An và vai trò của loài thiên địch có ý nghĩa trong điều hòa số lượng
bọ trĩ hại lạc, từ đó đề xuất biện pháp phòng trừ bọ trĩ theo hướng
quản lý tổng hợp (IPM) tại Nghệ An đạt hiệu quả kinh tế, thân thiên
với môi trường.
2.2 Yêu cầu của đề tài
Điều tra xác định thành phần bọ trĩ hại lạc và thành phần thiên
địch của chúng tại Nghệ An. Nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh
học của loài bọ trĩ Frankliniella intonsa Trybom hại lạc tại Nghệ


An.Điều tra diễn biến số lượng loài Frankliniella intonsa dưới ảnh
hưởng của một số điều kiện sinh thái tại Nghệ An.Nghiên cứu một số
đặc điểm sinh vật học của loài bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri
Poppius ăn thịt bọ trĩ Frankliniella intonsa Trybom tại Nghệ An.
Nghiên cứu đề xuất biện pháp phòng trừ bọ trĩ Frankliniella intonsa
Trybom theo hướng quản lý tổng hợp đạt hiệu quả kinh tế, thân
thiện môi trường.

2
3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1 Ý nghĩa khoa học
Cung cấp dẫn liệu khoa học khá đầy đủ về thành phần bọ trĩ hại
lạc. Bổ sung 2 loài bọ trĩ vào thành phần loài sâu hại lạc ở Việt Nam.
Bổ sung dữ liệu về đặc điểm sinh học, sinh thái học, phạm vi ký chủ
của loài bọ trĩ F. intonsa hại lạc và các yếu tố ảnh hưởng đến diễn biến
số lượng của chúng, làm cơ sở phát hiện kịp thời sự gây hại của bọ trĩ
trên lạc và các loài thiên địch của chúng. Là tài liệu tham khảo cho
sinh viên, cán bộ nghiên cứu ở Trường Đại học, Viện nghiên cứu, cho
cán bộ kỹ thuật bảo vệ thực vật về bọ trĩ hại lạc.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Nhận biết được các loài bọ trĩ hại lạc, tình hình gây hại và phát sinh
của loài bọ trĩ F. intonsa trên cây lạc ở Nghệ An và vùng phụ cận
Phát hiện kịp thời các loài thiên địch của bọ trĩ hại lạc và vai trò của
loài có ý nghĩa trong điều hòa số lượng bọ trĩ. Đề xuất biện pháp quản
lý tổng hợp phòng chống bọ trĩ F. intonsa hại lạc ở Nghệ An và thực
hiện mô hình phòng chống chúng đạt hiệu quả kinh tế, thân thiện với
môi trường.
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Cây lạc giống L14, L20, TB25; Các loài bọ trĩ hại lạc và thiên

địch của chúng.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Xác định thành phần bọ trĩ hại lạc và thiên địch của chúng tại Nghệ
An. Xác định đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của bọ trĩ chính
hại lạc và loài thiên địch có ý nghĩa. Xây dựng biện pháp quản lý tổng
hợp bọ trĩ F. intonsa hại lạc ở Nghệ An.
5 Điểm mới của luận án
- Ghi nhận được 02 loài bọ trĩ Megalurothrips sjostedti Trybom
và Haplothrips gowdeyi Franklin là sâu hại mới trên lạc tại Nghệ An
so với công bố trước đây ở nước ta;
- Bước đầu xây dựng khóa định loại đến loài của bọ trĩ hại lạc tại
Nghệ An dựa vào đặc điểm hình thái của bọ trĩ trưởng thành;
- Bổ sung một số đặc điểm sinh học, sinh thái của loài bọ trĩ
F. intonsa hại hoa trên cây lạc ở Nghệ An;
- Lần đầu tiên xây dựng quy trình phòng trừ bọ trĩ F. intonsa hại
lạc theo hướng tổng hợp và thực hiện mô hình đạt hiệu quả kinh tế,
thân thiên môi trường.

3
6. Cấu trúc của luận án
Luận án chính 114 trang, gồm 5 phần: mở đầu (4 trang), chương
1. Cơ sở khoa học của đề tài và tổng quan tài liệu nghiên cứu (32
trang), chương 2. Phương pháp nghiên cứu (19 trang), chương 3. Kết
quả nghiên cứu và thảo luận (57trang), Kết luận và đề nghị (2 trang).
Có tổng số 97 tài liệu tham khảo; trong đó có 19 tài liệu tiếng Việt và
78 tài liệu tiếng Anh
Chương I.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu đề tài.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, Bọ trĩ (Thrips) đã trở

thành sâu hại nguy hiểm trên nhiều loại cây trồng. Điều này có thể
do cơ thể bọ trĩ tuy bé nhỏ nhưng có khả năng phát tán rộng nhờ gió,
hoặc mang theo các loài con trùng bay khác. Bọ trĩ có kiểu miệng
dũa hút dịch của lá, nụ, hoa và quả non gây thành những dịch hại làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất, phẩm chất cây trồng; gián
tiếp là véc - tơ truyền bệnh virus, vi khuẩn cho cây.
Hiện nay ở nước ta những nghiên cứu về loài bọ trĩ hại cây trồng
nói chung, cây lạc nói riêng còn rất hạn chế, do đó đề tài tập trung
nghiên cứu những vấn đề nêu trên để góp phần tăng sự hiểu biết về
khả năng ứng dụng các biện pháp phòng chống đối tượng này phục
vụ phát triển sản xuất các vùng trồng lạc ở Nghệ An nói riêng và
nước ta nói chung.
1.2 Những nghiên cứu về bọ trĩ ở nước ngoài
1.2.1 Những nghiên cứu về thành phần loài bọ trĩ
Có trên 5.000 loài bọ trĩ đã được biết trên thế giới. Nhiều khía
cạnh về phân loại hệ thống của bộ cánh tơ Thysanoptera vẫn còn
tranh luận giữa các nhà côn trùng.
Bọ trĩ thuộc bộ Thysanoptera, lớp côn trùng (insecta), ngành chân
khớp (Arthropoda).
1.2.2 Tình hình gây hại của bọ trĩ
Cho đến nay bọ trĩ đã gây hại trên rất nhiều nước trên thế giới
như Philipphin, Indonesia, Malaysia, Thái lan, Đài Loan, Ấn độ, Khu
vực Đông Nam châu Á chúng gây hại trên nhiều loại cây trồng như
dưa hấu, khoai tây đậu đỗ bầu bí, hành tỏi, lúa ngô,… chúng gây hại
trên các bộ phận của cây trồng như nõn, lá, hoa và quả non. Chúng
làm giảm năng suất cây trồng như giảm 20% năng suất hồ tiêu ở
Inđonesia, 29% năng suất lạc ở Ấn Độ. Bọ trĩ được xem là dịch hại

4
nguy hiểm bởi sự có mặt và gây hại của chúng buộc người dân phải

phun thuốc hoá học mà lẽ ra không cần thiết phải phòng trừ. Hậu quả
của nó là làm bùng phát dịch hại khác do mất cân bằng sinh học
(Lynch et al, 1986) [60];
1.2.3 Những nghiên cứu về đặc tính sinh vật học, sinh thái học của bọ trĩ
Kirk, 1995 [53]) bọ trĩ chích hút cây cỏ, phấn hoa và các lạp lục,
thu hoạch từ các lớp biểu bì bên ngoài các tế bào thịt lá. Theo Mau et
al(1993) [63], và Chen, et al, (1987) [30], quần thể bọ trĩ đạt cao nhất
trong các tháng mùa xuân và mùa hè, giảm vào mùa mưa và mùa
đông. Biến động số lượng của chúng chịu ảnh hưởng của điều kiện
thời tiết, khí hậu đặc biệt là nhiệt độ và lượng mưa, điều kiện ẩm ướt
kéo dài không thuận lợi cho sự phát triển của chúng.
Theo Ananthakrishnan (1984) [218], Kết quả nghiên cứu về thời
gian vòng đời một số loài bọ trĩ hại cây trồng trong đó có cây lạc chỉ
rõ: Frankliniella intonsa,: trứng 2 - 4 ngày, thời gian tuổi 1 từ 1,5 - 3
ngày, thời gian tuổi 2 từ 3 - 5 ngày, thời gian tiền nhộng và nhộng từ
3,5 - 5 ngày, thời gian từ trứng đến trưởng thành từ 9 - 6 ngày.
Scirtothrips dorsalis: trứng 4 - 7 ngày, thời gian tuổi 1 từ 2 - 4 ngày,
thời gian tuổi 2 từ 3 - 6 ngày, thời gian tiền nhộng và nhộng từ 3 - 6
ngày, thời gian từ trứng đến trưởng thành từ 2 - 3 ngày.
1.2.4 Những nghiên cứu về thiên địch của bọ trĩ
Ngày nay nhiều nghiên cứu về thiên địch cho thấy bọ trĩ có rất rất
nhiều loại như nấm, nhện bắt mồi, bọ rùa, bọ xít nâu nhỏ bắt mồi, ong,
kiến, bọ trĩ ăn thịt bọ trĩ bọ xít nâu nhỏ bắt mồi thuộc họ Anthocoridae.
Có khoảng từ 500 đến 600 loài thuộc họ Anthocoridae phân bố trên
thế giới (Sathiyanadam, 1987) [78]. Tất cả các loài thuộc họ
Anthocoridae đều có vòi chích hút vật mồi.
1.2.5 Các biện pháp phòng chống bọ trĩ
Đến nay rât nhiều biện pháp phòng chống bọ trĩ được đưa ra như biện
pháp hóa học, sinh học, vật lý cơ giới, canh tác, dùng giống kháng.
1.3 Những nghiên cứu về bọ trĩ hại cây trồng và bọ trĩ hại lạc ở Việt

Nam
1.3.1 Thành phần loài bọ trĩ
Ở Việt nam nghiên cứu về thành loài bọ trĩ hại cây trồng nói
chung, cây lạc nói riêng còn rất hạn chế, cho đến nay mới chỉ có một
vài công trình nghiên cứu về bọ trĩ hại cây trồng như: (Phạm Thị
Vượng, 1998 [12], (Hà Quang Hùng, 2000 [4]). Yorn Try (2008)
[13], Hà Quang Dũng (2008) [3].

5
1.3.2 Tình hình gây hại của bọ trĩ
Các nghiên cứu về bọ trĩ hại cây trồng tại Việt Nam nhìn chung
còn ít. Mặc dù đã có một số tác giả nghiên cứu về bọ trĩ hại xoài, bọ
trĩ hại hoa, khoai tây
1.2.3 Những nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của
bọ trĩ
Hiện nay mới chỉ có một số tác giả nghiên cứu về đặc điểm hình
thái của loài Thrips palmi trên rau tại vùng phụ cận Hà Nội (Yorn
Try , 2008)[19].
Chưa có bất kể một nghiên cứu nào đề cập đến đặc điểm sinh học,
sinh thái của loài bọ trĩ F. intonsa.
1.2.4 Những nghiên cứu trong nước về thiên địch của bọ trĩ
Yorn Try (2003) [19] đã xác định 14 loài thiên địch của bọ trĩ
T. palmi; Theo Hà Quang Hùng và cộng tác viên (2000) [6] bọ xít nâu
nhỏ bắt mồi O. sauteri là loài côn trùng bắt mồi có ý nghĩa trong điều hoà
số lượng bọ trĩ T. palmi hại khoai tây ở vùng Hà Nội và phụ cận.
Theo Hà Quang Dũng (2008)[5] xác định 10 loài thiên địch bắt
mồi của bọ trĩ hại cam quýt ở Cao Bằng, Hòa Bình; Còn theo Phạm
Thị Vượng (1998) [18], trên cây lạc có 9 loài thiên địch của bọ trĩ
Thrips palmi.
1.2.5 Nghiên cứu biện pháp phòng chống bọ trĩ hại cây trồng nói

chung, cây lạc nói riêng.
* Biện pháp hóa học
Hiện nay mới có nghiên cứu của Hà Quang Dũng (2008) [5] về 3
loại thuốc trừ sâu và nghiên cứu của Yorn Try (2008) [19] về 4 loại
thuốc thảo mộc.
Theo Trung tâm nghiên cứu cây bông (2000)[17] Admire 50 EC
và Confidor 100 SL là những thuốc phun qua lá thường được sử
dụng để trừ bọ trĩ và có hiệu lực khá tốt trên cây nho.
* Biện pháp quản lý tổng hợp
Theo Hà Quang Dũng (2008)[5] để phòng chống bọ trĩ
Franhkliniell intonsa Trybom và Scirtothrips dorsalis Hood hại cam
quýt đạt hiệu quả cần thực hiện phối hợp các biện pháp canh tác, hóa
học, sinh học một cách hợp lý:
Theo Yorn Try (2008) [19] để phòng chống bọ trĩ Thrips palmi
hại trên dưa chuột có thể: chọn giống dưa phù hợp, giữ ẩm cho
ruộng, phun thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc thảo mộc kết hợp vệ
sinh đồng ruộng và thả bọ xít nâu nhỏ bắt mồi.

6
Chương II.
ĐỊA ĐIỂM, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1 Địa điểm nghiên cứu
- Được thực hiện tại khu ruộng của Viện khoa học Kỹ thuật Nông
nghiệp Bắc Trung bộ và tại một số vùng trồng lạc ở Diễn Châu,
Thanh Chương, Nghi Lộc.
- Thí nghiệm trong phòng về nuôi sinh học, sinh thái học và tìm
hiểu hiệu lực của một số loài thuốc được thực hiện tại phòng thực tập
côn trùng, khoa nông học trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội và
Viện khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung bộ.

2.1.2 Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ năm 2008 đến năm 2011.
2.2 Vật liệu dụng cụ và hóa chất nghiên cứu
2.2.1 Vật liệu nghiên cứu:
+ Giống lạc (L14, L20 và TB25)
+ Nylon phủ bề mặt luống và che phủ xung quanh ruộng.
2.2.2 Các dụng cụ nuôi sâu:
- Túi nilon đựng mẫu, giấy lọc, giấy bản và bông thấm nước;
- Ống tuýp, lọ thủy tinh, đĩa petri, hộp nhựa; lồng nuôi bọ trĩ.
- Lồng nuôi sâu, bút lông, chổi lông, cồn, kim côn trùng (số 1-5),
panh, kính lúp cầm tay, kính lúp soi nổi có thước đo, kính hiển vi, tủ
định ôn, tủ sấy, nhiệt kế ẩm.
2.2.3 Các dụng cụ pha chế thuốc hóa học:
- Ống đong cỡ 100ml, 500ml và 1000ml, Bình tam giác 25ml,
500ml, Bình phun thuốc 1 lít và 10 lít bằng tay;
- Các loại hóa chất giữ mẫu: Cồn, axít acetic, glycerin. fluon, thuốc
sâu hóa học: sử dụng là các loại thuốc trừ sâu không nằm trong danh
mục các loại thuốc trừ sâu cấm sử dung tại Việt Nam: Tập kỳ 1,8 EC,
Acotrin 440 EC, Alfapathrin 10 EC, Oshin 100 SL, Admire 200 OD
2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Điều tra xác định thành phần bọ trĩ hại lạc và thành phần thiên
địch của chúng
Điều tra thu thập thành phần bọ trĩ hại lạc và thiên địch của chúng
được tiến hành theo quy định lấy mẫu của Cục Bảo vệ thực vật
(1995) Hà Quang Hùng (2005) [7] và phương pháp thu thập mẫu bọ
trĩ ngoài đồng của Mound L.A. (2007) [71].

7
2.3.2 Nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh thái học của loài bọ trĩ
Frankliniella intonsa Trybom hại lạc tại Nghệ An.

Phương pháp nuôi tập thể và cá thể loại bọ trĩ được tiến hành theo
Hà Quang Hùng (2005) [7]
2.3.3 Điều tra diễn biến của loài bọ trĩ chính Frankliniella intonsa
Trybom và biến động số lượng của của chúng dưới ảnh hưởng của
một số điều kiện sinh thái tại Nghệ An.
Trên mỗi giống lạc, chọn ruộng điển hình, sau đó tiến hành điều
tra theo phương pháp 5 điểm chéo góc, định kỳ 7 - 10 ngày một lần.
Mỗi ruộng điều tra 50 cây. Mỗi điểm lấy 100 hoa, lá, 1 điểm điều tra
10 cây, mỗi cây lấy 10 hoa, lá mang về phòng thí nghiệm trải trên
giấy trắng lấy bút lông có tẩm cồn 70
0
sau đó đưa lên kính lúp để
phân tỷ lệ giữa các loài và đếm tổng số bọ trĩ trên 100 hoa lạc, từ đó
tính được mật độ bọ trĩ/hoa, lá.
2.3.4 Nghiên cứu một số đặc điểm sinh vật học của loài bọ xít nâu
nhỏ bắt mồi O. sauteri ăn bọ trĩ F. intonsa tại Nghệ An.
Nghiên cứu thời gian phát dục các pha và thời gian vòng đời của loài bọ xít
nâu nhỏ bắt mồi O. sauteri được tiến hành theo phương pháp chung
trong nghiên cứu côn trùng. Bọ xít nâu nhỏ bắt mồi O. sauteri được
nuôi cá thể trong phòng thí nghiệm. Thức ăn để nuôi bọ xít bắt mồi
là trứng ngài gạo, trứng của nhện đỏ hai chấm Tetranychus urticae
và ấu trùng của bọ trĩ Frankliniella intonsa.
2.3.5 Nghiên cứu đề xuất biện pháp phòng trừ bọ trĩ Frankliniella
intonsa Trybom theo hướng quản lý tổng hợp đạt hiệu quả kinh tế
thân thiện môi trường.
Các thí nghiệm được bố chí theo Nguyễn Thị Lan và Phạm Tiến
Dũng (2005) [12].
Điều tra diễn biến mật độ bọ trĩ và thiên địch được tiến hành theo
quy định lấy mẫu của Cục Bảo vệ thực vật (1995) Hà Quang Hùng
(2005) [7] và phương pháp thu thập mẫu bọ trĩ ngoài đồng của

Mound L.A. (2007) [71].
2.4 Phương pháp định loại mẫu
2.4.1Phương pháp làm tiêu bản mẫu bọ trĩ
Theo phương pháp của Mound L.A. (2007) [71].
2.4.2 Phương pháp định loại bọ trĩ
Mẫu bọ trĩ thu thập ở ngoài đồng, làm tiêu bản lam, đưa lên kính
lúp soi nổi và kính hiển vi để tiến hành giám định.
Dựa vào các đặc điểm hình thái bên ngoài như màu sắc cơ thể, số

8
lượng đốt râu, kiểu râu đầu, các vị trí lông cũng như số lượng lông ở
trên đầu, mảnh lưng ngực trước, mảnh lưng giữa, mảnh lưng ngực
sau và cánh; quan sát các đốt bụng, đặc biệt đốt bụng thứ VIII,
Mound et al, (1997) [70] Với sự giúp đỡ của GS.TS. Hà Quang
Hùng, TS. Hà Thanh Hương và những mẫu không có trong tài liệu
trên, chúng tôi gửi sang Úc để GS. TS Laurence A. Mound (CSIRO,
Úc) giám định chính xác tên loài.
2.4.3 Phương pháp mô tả bọ trĩ
Mô tả hình thái, đặc điểm phân biệt pha trưởng thành của các loài
bọ trĩ gây hại chủ yếu trên lạc tại địa điểm nghiên cứu dưới kính lúp
soi nổi và kính hiển vi huỳnh quang. Ảnh minh họa trong báo cáo do
GS.TS Hà Quang Hùng, TS. Hà Thanh Hương chụp.
2.5 Phương pháp tính toán số liệu
Số liệu sẽ được tính toán và xử lý theo chương chình thống kê
Excel (
X
 ở độ tin cậy 95%, =
n
tS


.
) trong đó  là sai số ước
lượng, S là độ lệch chuẩn, t= 1,96 (giá trị tra bảng Student ở mức ý
nghĩa =0,05); n là dung lượng mẫu thí nghiệm) và các chỉ tiêu khác
được xử lý theo chương trình IRRISTAT dùng cho khối Trồng trọt
và Bảo vệ Thực vật
Dùng phương pháp thống kê so sánh Duncan giữa các công thức
thí nghiệm ở xác suất P  0,05 và P  0,01.

Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 Kết quả nghiên cứu về thành phần loài, phạm vi ký chủ, tác hại
và triệu trứng của bọ trĩ hại lạc
3.1.1 Thành phần bọ trĩ gây hại lạc tại Nghệ An
Kết quả điều tra trên cây lạc năm 2008 đến năm 2010 tại Nghệ
An đã thu thập và xác định được 9 loài bọ trĩ thuộc 2 họ
Phlaeothripidae và Thripidae, và thuộc 2 phân bộ (Terebrantia và
Tubulifera). Trong đó, họ Thripidae có 8 loài và chỉ có một loài duy
nhất thuộc họ Phlaeothripidae (bảng 3.1)
Trong đó lần đầu tiên phát hiện 2 loài bọ trĩ hại lạc ở Nghệ An -
Việt Nam. Đó là loài Megalurothrips sjostedti (Thripidae) và
Haplothrips gowdeyi (Phlaeothripidae). Loài F. intonsa gây hại hoa
ở mức độ rất phổ biến trên lạc vụ xuân tại Nghệ An.

9
Bảng 3.1 Thành phần bọ trĩ hại cây lạc trong năm 2008 - 2010 tại Nghệ An
TT
Tên khoa học của loài
Mức độ
phổ biến

Bộ phận bị hại

Terebrantia: Thripidae


1
Frankliniella intonsa Trybom
+++
Hoa
2
Frankliniella schultzei Trybom
+
Lá, hoa
3
Megalurothrips usitatus Bagnall
+++
Lá và hoa
4
Megalurothrips sjostedti Trybom
+
Hoa
5
Scirtothrips dorsalis Hood
++

6
Thrips palmi Karny
+
Lá, hoa
7

Thrips tabaci Lindeman
+
Lá, hoa
8
Thrips hawaiiensis Morgan
+
Hoa
5
Tubulifera: Phlaeothripidae


9
Haplothrips gowdeyi Franklin
-
Ngọn, lá, hoa
Ghi chú: -: Rất ít phổ biến (với tần suất xuất hiện < 5%); +: Ít phổ biến (với tần
suất xuất hiện 5 - 25%); ++: Phổ biến (với tần suất xuất hiện 26 - 50%); +++: Rất
phổ biến (với tần suất xuất hiện >50%).

3.1.2 Bảng định loại pha trưởng thành cái các loài bọ trĩ hại lạc tại
Nghệ An (Chi tiết theo báo cáo chính thức trang 59)
3.2 Đặc điểm sinh học của loài bọ trĩ
Frankliniella intonsa
Trybom
3.2.1 Ký chủ và mức độ gây hại của bọ trĩ Frankliniella intonsa Trybom
Kết quả điều tra của chúng tôi cho thấy trên cây lạc bọ trĩ
F. intonsa gây hại nặng trong tháng 4 và tháng 5 (trong thời kỳ cuối
vụ xuân và đầu vụ hè) và trong tháng 10 và 11 gây hại trung bình;
còn tháng 3, 6 và 12 trong năm thì mức gây hại của bọ trĩ F. intonsa
là không đáng kể. Khi không có cây lạc trên ruộng, bọ trĩ F. intonsa

chuyển lên gây hại các cây ký chủ khác. Tháng 12, 1 và 2 loài bọ trĩ
này gây hại trên cây đơn buốt, hoa cúc và hoa hồng, chờ đợi để tấn
công lên cây lạc vào vụ xuân tiếp theo.
3.2.2 Vòng đời và thời gian phát dục của bọ trĩ Frankliniella intonsa
Trybom trong phòng thí nghiệm
Qua bảng 3.7 cho thấy nhiệt độ càng tăng thì vòng đời của bọ trĩ
F. intonsa càng ngắn lại. Độ ẩm thấp cũng khiến bọ trĩ trải qua các
pha phát dục nhanh hơn.
Giai đoạn sống của trưởng thành bọ trĩ kéo dài 9 đến 18 ngày đây
là điều kiện rất thuận lợi để bọ trĩ có thời gian nhân đàn với số lượng
lớn (có thể đẻ 12-15 lứa) nếu điệu kiện thuận lợi.

10
Thời kỳ tiền nhộng và nhộng giả ngắn 2 - 4 ngày, chúng ta có thể
lợi dụng điều này để hạn cế số lượng bọ trĩ trong đất bằng cách luân
canh hoặc tưới nước trong thời gian ngắn để tiêu diệt giai đoạn
nhộng giả của bọ trĩ.
Đối chiếu với vòng đời của các loài bọ trĩ khác như T. palmi;
F. occidentallis mà các tác giả Mau et al, [68] đã nghiên cứu trước
đó, chúng tôi nhận thấy vòng đời của F. intonsa không chênh lệch
quá nhiều so với các loài bọ trĩ khác ở cùng điều kiện nhiệt độ
3.3 Diễn biến mật độ bọ trĩ hại lạc và các yếu tố ảnh hưởng
3.3.1 Ảnh hưởng của giống đến mật độ bọ trĩ F. intonsa
0
1
2
3
4
5
6

điều tra 4/4 11/4 18/4 25/4 2/5 9/5 16/5 23/5 30/5 6/6 13/6
Ngày điều tra
Mật độ con/hoa
L14
L20
TB25

Hình 3.9 Diễn biến của giống lạc đến diễn biến mật độ bọ trĩ
F. intonsa Trybom trên hoa tại Nghi Lộc - Nghệ An (năm 2009)
Hình 3.10. Diễn biến của giống lạc đến diễn biến mật độ bọ trĩ
F. intonsa Trybom trên lá lạc tại Nghi Lộc - Nghệ An (năm 2009)
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
21/3 28/3 4/4 11/4 18/4 25/4 2/5 9/5 16/5 23/5 30/5 7/6 13/6
Ngày điều tra
Mật độ con/lá
L14
L20
TB25

Hình 3.3. Diễn biến mật độ bọ trĩ tổng số hại lạc tại Nghi Lộc -
Nghệ An vụ Xuân 2008

11
Qua điều tra diễn biến mật độ bọ trĩ trên các giống lạc phổ biến tại

Nghệ An chúng tôi nhận thấy mật độ bọ trĩ trên giống lạc L14 có mật độ
cao nhất ở cả hoa và lá, tiếp đến là giống lạc L20 và giống lạc TB25.
3.3.2 Ảnh hưởng của thời vụ đến mật độ bọ trĩ F. intonsa
Bảng 3.6. Diễn biến mật độ bọ trĩ F. intonsa ở 3 khung thời vụ khác
nhau trên giống lạc L14 vụ xuân năm 2009 tại Nghi Lộc - Nghệ An
Đơn vị tính: con/lá
Thời gian gieo
Giai đoạn sinh trưởng
3-4 lá
6 lá
Ra
hoa
H thành
quả
Chín
Trung
bình
Ngày gieo 5/2 (vụ sớm)
0.66a
0.97c
1.08c
1.77b
1.69b
1.23
Ngày gieo 15/2 (chính vụ)
0.68a
1.09b
1.16b
1.83b
1.79b

1.31
Ngày gieo 25/2 (vụ muộn)
0.70a
1.33a
1.56a
2.14a
2.05a
1.56
LSD 5%
0.08
0.08
0.07
0.10
0.13

CV%
5,9
3,4
2,9
2,7
3,6

Qua bảng 3.6 Vụ muộn gieo ngày 25/2 mật độ bọ trĩ tăng cao ở
giai đoạn hình thành quả 2,14 con/lá điều này chắc chắn ảnh hưởng
đến năng suất của lạc vị bọ trĩ F. intonsa gây hại chủ yếu trên hoa sẽ
làm biến dạng quả lạc.
3.3.3 Ảnh hưởng của chân đất đến mật độ bọ trĩ F. intonsa
Qua hình 3.12 cho thấy mật độ bọ trĩ cao ở chân đất cát là 1,69
con/lá, thấp nhất là đất thịt là 1,06 con/lá. Sở dĩ có kết quả chân đất
cát có mật độ cao hơn đất thịt là do đất cát có thành phần cơ giới nhẹ,

thoáng tạo điều kiện thích hợp để sâu non đẫy sức hóa nhộng. Độ sâu
hóa nhộng càng cao bao nhiêu càng an toàn bấy nhiêu, những cá thể
có độ sâu hóa nhộng từ 3 cm trở lên có thể tránh được thiên địch
3.3.4 Ảnh hưởng của độ ẩm đất
0.00
0.50
1.00
1.50
2.00
2.50
3.00
21/3 31/3 10/4 20/4 30/4 10/5 20/5 30/5 10/6 19/6
Ngày điều tra
Mật độ con/lá
đất cát
cát pha
đât thịt

Hình 3.12. Diễn biến mật độ bọ trĩ F.intonsa trên ba chân đất
khác nhau theo các giai đoạn sinh trưởng của cây lạc (năm 2008)

12

0
0.5
1
1.5
2
2.5
3

3.5
16\3 26\3 5\4 15\4 25\4 5\5 15\5 25\5 4\6 14\6
Ngày điều tra
Mật độ bọ trĩ con/lá
Độ ẩm đất > 60%
Độ ẩm đất > 90%

Hình 3.13. Diễn biến mật độ bọ trĩ trên ruộng cao và ruộng trũng tại
Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ năm 2008
Qua hình 3.13 cho thấy mật độ bọ trĩ xuất hiện trong suốt quá trình
sinh trưởng và phát triển của cây lạc giai đoạn tăng nhanh từ 25/4 đến
4/6 mật độ từ 1,72 con lên 2,89 con/lá. Ở ruộng chân ruộng có độ ẩm >
60% (1.89 con/lá) mật độ bọ trĩ cao gấp hai lần so với chân ruộng có độ
ẩm >90% (1,07 con/lá). Sở dĩ mật độ trên ruộng có ẩm độ > 90% thấp
hơn ruộng có độ ẩm >60% như vậy là do ruộng có độ ẩm đất quá cao
làm thay đổi tính hóa nhộng của pha nhộng.
3.3.5 Ảnh hưởng của biện pháp luân canh đến mật độ của bọ trĩ
trên ruộng lạc
Mật độ bọ trĩ xuất hiện ở công thức 1, công thức 3 và công thức 4
lần lượt là 1,68 con/lá; 1,60 con/lá và 1,66 con/lá. Đặc biệt ở công
thức 2 công thức luân canh cây trồng cạn với cây lúa lượng bọ trĩ
thấy xuất hiện rất ít chỉ 1,04 con/lá. Điều này một lần nữa khẳng định
việc luân canh cây trồng cạn với cây lúa nước làm cho mật độ bọ trĩ
giảm vì lượng nhộng, sâu non bị tiêu diệt nhiều khi bị ngâm nước.
Bảng 3.7 Ảnh hưởng của các công thức luân canh đến diễn biến
mật độ bọ trĩ F.intonsa tại Nghi Lộc - Nghệ An, 2008
Ngày điều
tra
Giai đoạn sinh
trưởng

Mật độ con/lá
CT1
CT2
CT3
CT4
21/3
Giai đoạn cây con
0,75
0,40
0,66
0,68
31/3
0,93
0,62
0,86
0,89
10/4
Giai đoạn ra hoa
1,18
0,72
1,04
1,14
20/4
1,42
0,83
1,36
1,36
30/4
Giai đoạn đâm tia
1,53

0,95
1,42
1,48
10/5
Giai đoạn hình thành
quả
1,74
1,13
1,71
1,70
20/5
1,96
1,22
1,92
1,94
30/5
2,38
1,41
2,22
2,35
09/6
2,52
1,68
2,42
2,51
19/6
Giai đoạn thu hoạch
2,42
1,42
2,43

2,54

TB
1,68
1,04
1,60
1,66
CT1: Lạc Xuân-Dưa hấu Hè-Khoai lang Đông; CT 2: Lạc Xuân-Lúa mùa-Ngô Đông;
CT 3: Lạc Xuân - Vừng - Ngô Đông; CT 4: Lạc Xuân - Vừng - Rau Đông

13
Bảng 3.8 Hiệu lực của một số loại thuốc trừ sâu đối với bọ trĩ
tổng số tại Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ
Thuốc thí nghiệm
Liều
lượng
(lít/ha)
Hiệu lực sau phun thuốc (%)
1 ngày
3 ngày
5 ngày
7 ngày
Tập kỳ 1,8 EC
0,80
45,76 ab
70,49 b
80,02 b
85,43 b
Acotrin 440 EC
1,10

43,96 b
69,73 b
79,21 b
84,80 b
Alfapathrin 10 EC
1,20
45,18 ab
70,47 b
79,50 b
84,96 b
Oshin 100 SL
0,40
49,30 ab
79,66 a
87,05 a
93,53 a
Admire 200 OD
0,20
54,61 a
79,32 a
86,71 a
92,10 a
LSD 0,05

8,196
4,147
2,436
2,118
CV%


9,40
3,10
1,60
1,30
Ghi chú : Các chữ cái đứng sau các chữ số chỉ sự sai khác đáng tin cậy
95% theo phép thử Duncan bằng chương trình IRRISTAT 4.0
Qua bảng 3.8 cho thấy ở 1 ngày sau phun thuốc hiệu lực của
thuốc Admire 200 OD cao nhất với 54,61% trong khi đó hiệu lực của
Acotrin 440 EC thấp nhất với 43,96%. Ở các giai đoạn 3, 5 và 7 ngày
sau phun thuốc chúng tôi thấy hiệu lực của thuốc Oshin 100 SL và
Admire 200 OD có hiệu lực cao gần tương đương nhau và có sự sai
khác đáng tin cậy với 3 loại thuốc còn lại. Hiệu lực của 2 loại thuốc
Oshin 100 SL và Admire 200 OD cao nhất ở 7 ngày sau phun thuốc
với 93,53% và 92,10% trong khi đó 3 loại thuốc còn lại chỉ đạt từ
84,40 đến 85,43%
3.4 Khả năng sử dụng thiên địch để phòng trừ bọ trĩ
F.intonsa
hại lạc
tại Nghệ An
3.4.1 Thành phần thiên địch của bọ trĩ hại lạc tại Nghệ An
Bảng 3.10. Thành phần thiên địch của bọ trĩ F. intonsa hại lạc
năm 2008 - 2010 tại Nghệ An
T
T
Tên khoa học
Họ
Bộ
Mức độ
xuất
hiện

Pha bị
ăn thịt,
ký sinh
1
Orius sauteri (Poppius)
Anthocoridae
Hemiptera
+++
SN,
N,TT
2
Orius strigicollis (Poppius)
Anthocoridae
Hemiptera
+
SN, TT
3
Orius tantillus Mostchulsky
Anthocoridae
Hemiptera
++
SN, TT
4
Amphiareus obscuriceps Hiura
Anthocoridae
Hemiptera
+
SN, TT
5
Campylomma chinensis (schuh)

Miridae
Hemiptera
+
SN, TT
6
Campijlomma sp
Miridae
Hemiptera
++
SN, TT
7
Micrapis discolor (Fabricius)
Coccinellidae
Coleoptera
++
SN, TT
8
Paederus fuscipes Curtis
Staphyllinidae
Coleoptera
+
SN, TT
9
Ceranisus sp.
Eulophidae
Hymenoptera
++
SN
10
Amblyseius sp.

Phytoseiidae
Acarina
+
SN
Ghi chú: +++ rất phổ biến (tần suất bắt gặp >50%); ++ phổ biến (tần suất bắt gặp 25-50%);
+ ít phổ biến (tần suất bắt gặp 0 -25%); SN:Sâu non; N:Nhộng; TT: Trưởng thành

14
Tại bảng 3.10. cho thấy trong 10 loài thiên địch có 06 loài thuộc
bộ Hemiptera, 02 loài thuộc bộ Coleoptera, 01 loài thuộc bộ
Hymenoptera và 01 loài nhện bắt mồi thuộc bộ Acarina.
Trong các loài thiên địch của loài bọ xít F. intonsa được xác định,
loài bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius) xuất hiện với
mức độ cao nhất.
3.4.2 Đặc điểm hình thái của loài thiên địch bọ trĩ F.intonsa trên lạc
tại Nghệ An
3.4.2.1 Bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri Poppius
Bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri thuộc họ Anthocoridae,
Hemiptera. Trứng có màu trắng, có nắp trứng hơi gồ lên. Bọ xít non có 5
tuổi: tuổi 1 mới nở có màu trắng sau đó chuyển sang màu vàng nhạt. Tuổi
2 và tuổi 3 có màu vàng tối. Tuổi 3 có màu vàng tối. Bọ xít non tuổi 4 có
màu vàng sẫm hơn tuổi 3, bắt đầu xuất hiện mầm cánh. Bước vào tuổi 5
bọ xít non có màu vàng nâu sẫm, xuất hiện mầm cánh hơn nửa lưng.
Bảng 3.11. Kích thước các pha phát dục của bọ xít nâu nhỏ bắt
mồi Orius sauteri Poppius
Các pha phát dục
Kích thước trung bình (mm)
Chiều dài
Chiều rộng
Trứng

0,39  0,02
0,11 0,02
Bọ xít non tuổi 1
0,53  0,02
0,16  0,03
Bọ xít non tuổi 2
0,87  0,02
0,31  0,03
Bọ xít non tuổi 3
1,20  0,02
0,51  0,03
Bọ xít non tuổi 4
1,42  0,03
0,58  0,02
Bọ xít non tuổi 5
1,63  0,03
0,71  0,02
Bọ xít trưởng thành
2,05  0,01
0,72  0,02

Trưởng thành: Cơ thể có màu nâu đen đến đen. Râu đầu 4 đốt
thon nhỏ, màu vàng nhạt, đốt gốc của râu đầu có màu đen. Mắt kép lồi
rõ có màu nâu đen, bụng có 8 đốt, đốt bàn chân có hai móc hình lưỡi
câu có màu nâu. Chúng tấn công bọ trĩ ở giai đoạn sâu non, nhộng và
trưởng thành. Trên mặt lưng có hình dạng giống chữ M.
Kích thước các pha của pha phát dục của bọ xít nâu nhỏ bắt mồi
Orius sauteri là thiên địch của bọ trĩ F. intonsa hại lạc xuân được
trình bày ở bảng 3.11.


15
3.4.3 Đặc điểm sinh học của bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri
Poppius
Kết quả nuôi sinh học bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri cho
thấy chúng thuộc nhóm côn trùng biến thái không hoàn toàn.
Tổng hợp các kết quả thí nghiệm cho thấy pha ấu trùng (bọ xít
non) của bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri có 5 tuổi.
Thời gian phát triển của các tuổi không giống nhau khi nuôi bằng
các con mồi khác nhau. Ở điều kiện 25
0
C và ẩm độ 70%; Ở điều kiện
30
0
C và ẩm độ 70%; thức ăn bọ trĩ non thì bọ xít nâu nhỏ có thời
gian sinh trưởng ngắn nhất, thức ăn là trứng nhện đỏ có thời gian sinh
trưởng dài nhất.
0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
Trứng Bọ xít
non tuổi
1
Bọ xít
non tuổi
2
Bọ xít
non tuổi

3
Bọ xít
non tuổi
4
Bọ xít
non tuổi
5
Tiền
trưởng
thành
Vòng
đời
thời gian phát dục
Ngày phát dục
Trứng ngài gạo
Trứng nhện đỏ
Bọ trĩ non

Hình 3.23. Thời gian phát dục của bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius
sauteri trên 3 loại vật mồi (ở điều kiện 25
0
C± 1, ẩm độ 70%)
0
5
10
15
20
25
Trứng Bọ xít
non tuổi

1
Bọ xít
non tuổi
2
Bọ xít
non tuổi
3
Bọ xít
non tuổi
4
Bọ xít
non tuổi
5
Tiền
trưởng
thành
Vòng
đời
thời gian phát dục
ngày phát dục
Trứng ngài gạo
Trứng nhện đỏ
Bọ trĩ non

Hình 3.24. Thời gian phát dục của bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius
sauteri trên 3 loại vật mồi (ở điều kiện 30
0
C, ẩm độ 70 %)
So sánh giữa 2 điều kiện nhiệt độ và 3 loại vật mồi nhân nuôi cho
thấy thời gian phát dục các pha bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri ở

nhiệt độ 25
o
C đều dài hơn ở 30
o
C, đồng thời thời gian vòng đời ngắn
nhất khi nuôi bằng bọ xít non F. intonsa, điều này sẽ mở ra hướng
phòng trừ sinh học đối với bọ trĩ hại F.intonsa lạc tại Nghệ An.

16
3.4.1.2 Khả năng đẻ trứng của bọ xít nâu nhỏ bắt mồi
Với thức ăn là ấu trùng nhện đỏ hai chấm và ấu trùng bọ trĩ, số
lượng trứng đẻ hàng ngày của 1 trưởng thành cái bọ xít bắt mồi
không khác nhau và là 2,20-2,36 trứng/ngày (bảng 3.20).
Trong thời gian 18 ngày, một trưởng thành cái bọ xít bắt mồi khi
ăn nhện đỏ hai chấm đẻ được trung bình 42,40 trứng/cái cao hơn so
với 39,95 trứng/cái khi thức ăn là ấu trùng bọ trĩ (bảng 3.15).
Bảng 3.15 Khả năng đẻ trứng của bọ xít bắt mồi Orius sauteri
Chỉ tiêu theo dõi
Khả năng đẻ trứng (trứng/cái) khi ăn các con mồi
Ấu trùng nhện đỏ hai chấm
Ấu trùng bọ trĩ
Số trứng đẻ hàng ngày trứng/ngày
2,36 ± 0,04
2,20 ± 0,50
Tổng số trứng đẻ trong 18 ngày
42,40 ± 0,79
39,95 ± 0, 83
Ghi chú: Thí nghiệm ở điều kiện 30
0
C, ẩm độ 70%±1; Số lượng cá thể thí

nghiệm n = 20
3.4.4 Khả năng ăn thịt bọ trĩ F.intonsa của loài bọ xít nâu nhỏ bắt
mồi Orius sauteri
Kết quả ghi nhận ở bảng 3.17 cho thấy sức tiêu thụ trung bình
trong 5 ngày theo dõi của một cặp bọ xít bắt mồi đối với nhện non
thấp hơn (15,43) so với bọ trĩ non (31,85).
Bảng 3.17. Sức tiêu thụ của bọ xít bắt mồi Orius sauteri
Thời gian theo
dõi (ngày)
Số lượng con mồi do một cá thể bắt mồi tiêu
thụ trong ngày (con/ngày)
Bọ trĩ non
Nhện non
Ngày 1
23,45 ± 4,77
14,50 ± 1,47
Ngày 2
28,75 ± 2,94
16,00 ± 1,65
Ngày 3
32,90 ± 4,24
15,60 ± 1,74
Ngày 4
29,00 ± 2,31
15,65 ± 1,52
Ngày 5
31,85 ± 3,31
15,40 ± 1,79
Trung bình
29,19 ± 0,24

15,43 ± 0,46

3.5 Biện pháp phòng chống bọ trĩ hại lạc theo hướng quản lý
tổng hợp
Thực hiện nghiên cứu trên 02 mô hình chúng tôi thu được kết quả
như sau:
3.5.1 Luân canh cây trồng
Hình 3.25 cho thấy mật độ bọ trĩ F. intonsa trên ruộng lạc luân
canh theo 02 Mô hình và 2 nêu trên bắt đầu sai khác sau khi cây lạc

17
hình thành 6 lá thật cho đến cuối giai đoạn sinh trưởng của cây. Mô
hình luân canh Lạc Xuân - Dưa hấu Hè - Khoai lang Đông có mật độ
bọ trĩ F. intonsa luôn cao hơn công thức luân canh Lạc Xuân - Vừng
- Ngô Đông lần lượt là 0,87 con/lá và 0,7 con/lá.
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
22/3 1/4 11/4 21/4 1/5 11/5 21/5 31/5 10/6 20/6
Ngày điều tra
Mật độ bọ trĩ con/lá
Mô hình 1
Mô hình 2


Hình 3.25 Diễn biến mật độ F. intonsa trên giống lạc L14 có chế
độ luân canh khác ở 02 mô hình tại Nghi Lộc, Nghệ An, 2009
Trong cả 2 công thức luân canh thì diễn biến mật độ bọ trĩ
F. intonsa đều đạt cao nhất trong thời kỳ ra hoa của cây lạc: 1,45
con/lá trên công thức 1 và 1,4 con/lá ở công thức 2, sau đó mật độ bọ
trĩ giảm dần do cây lạc già là thức ăn không thích hợp cho bọ trĩ sinh
trưởng và phát triển.
3.5.2 Dùng nylon làm hàng rào quanh ruộng
Kết quả điều tra theo dõi mật độ bọ trĩ F. intonsa trên 2 mô hình,
mô hình 1 và mô hình 2 (ruộng có nylon làm hàng rào cao 1m tính từ
mặt đất) cho thấy, ngay từ ngày điều tra lần đầu đến ngày điều tra lần
cuối, mật độ bọ trĩ F. intonsa trên mô hình 1 (không có nylon làm
hàng rào) (5,46 con/lá) có lượng bọ trĩ cao hơn trên ruộng có nylon
làm hàng rào xung quanh ruộng (3,94 con/lá) .

0
2
4
6
8
10
12
22/3 1/4 11/4 21/4 1/5 11/5 21/5 31/5 10/6 20/6
Ngày điều tra
mật độ con/lá
Mô hình 1
Mô hình 2

Hình 3.26 Mật độ F. intonsa trên giống lạc L14 ở mô hình 1 và
mô hình 2 tại Nghi Lộc, Nghệ An, 2010


18
Sở dĩ mật độ bọ trĩ F. intonsa trên mô hình sử dụng nylon làm hàng
rào bao quanh ruộng thấp hơn mô hình 1 là do hàng rào cao 1m có tác
dụng ngăn cản một lượng lớn các cá thể bọ trĩ di chuyển từ nơi khác
đến. Khi mà chúng bay đến sẽ đâm vào hàng rào rồi rơi xuống đất.
Một số lượng lớn không bò lên hàng rào để vào trong ruộng được.
Sự ngăn cản này có thể hạn chế được sự gây hại khoảng 27,9% so
với ruộng không có nylon làm hàng rào.
3.5.3 Dùng vòi phun nước lên lá
Chúng tôi tiến hành thí nghiệm tưới nước dạng phun mưa trên mô
hình 2; 5 ngày một lần sau đó tiến hành điều tra số lượng bọ trĩ trên
lạc kết quả cho thấy lượng bọ trĩ ở mô hình 2 (ruộng có tưới nước
dạng phun mưa) giảm khoảng 40% so với mô hình 1 (ruộng không
tưới nước) với mật độ bọ trĩ lần lượt là 3,28 con/ lá và 5,47 con/lá.
0
2
4
6
8
10
12
22/3 1/4 11/4 21/4 1/5 11/5 21/5 31/5 10/6 20/6
Ngày điều tra
mật độ bọ trĩ con/lá
Mô hình 1
Mô hình 2

Hình 3.27. Mật độ F. intonsa trên giống lạc L14 ở mô hình 1
và mô hình 2 tại Nghi Lộc, Nghệ An, 2010


3.5.4 Biện pháp sinh học
Trên mô hình 1 (không thả bọ xít nâu nhỏ bắt mồi O. sauteri)
thấy bọ trĩ F. intonsa, xuất hiện sớm còn bọ xít nâu nhỏ bắt mồi O.
sauteri xuất hiện muộn hơn khoảng nửa tháng, và giai đoạn trưởng
thành có mặt sớm hơn sâu non. Mật độ tăng chậm sau đó giảm xuống
do phun thuốc trừ sâu. Sau 15 ngày mật độ mới bắt đầu xuất hiện trở
lại và tăng lên khá nhanh. Đỉnh cao mật độ của O. sauteri khoảng 0,2
con/lá vào cuối giai đoạn thu hoạch. Rõ ràng với mật độ như vậy thì
chúng không có khả năng khống chế quần thể bọ trĩ F. intonsa ở mức
không làm giảm năng suất lạc. Để làm tăng số lượng đủ để khống
chế quần thể bọ trĩ F. intonsa không làm giảm năng suất nghiêm
trọng chỉ có một con đường là thả thêm bọ xít nâu nhỏ bắt mồi.

19

0.10
1.00
10.00
100.00
1/4 8/4 15/4 29/4 6/5 13/5 20/5 27/5 3/6 10/6 17/6
Ngày điều tra
Mật độ con/cây
Mô hình 1 F. intonsa
Mô hình 1 O. sauteri
Mô hình 2 F. intonsa
Mô hình 2 O. sauteri

Hình 3.28 Diễn biến mật độ F. intonsa và O. sauteri trên 2 mô
hình thí nghiệm trong vụ Xuân tại Nghi Lộc, Nghệ An, 2010


Trên mô hình 2 (thả bọ xít nâu nhỏ bắt mồi O.sauteri) mật độ bọ
trĩ F. intonsa xuất hiện sớm với mật độ trung bình 12 con/cây tiến
hành thả bọ xít nâu nhỏ bắt mồi giai đoạn sâu non tuổi II và III với
mật độ (tỷ lệ 1/200) ngày 15/4. Sau khi thả bọ xít nâu nhỏ bắt mồi O.
sauteri vào ruộng mật độ chúng tăng lên khá nhanh, điều này chứng
minh rằng bọ xít nâu nhỏ bắt mồi O. sauteri đã thiết lập được quần
thể của chúng trên ruộng. Mật độ tăng nhanh sau 3 lần thả và đạt cao
nhất là 0,7 con/cây (trưởng thành + bọ non). Đồng thời khi thả bọ xít
nâu nhỏ bắt mồi thì lượng bọ trĩ trên ruộng thí nghiệm cũng giảm
đáng kể thể hiện qua điều tra ngày 6/5 lượng bọ trĩ trên ruộng không
thả bọ xít nâu nhỏ là 23,4 con/cây, còn ruộng thả bọ xít nâu nhỏ bắt
mồi là 15,8 con/cây.
3.5 Bước đầu phòng chống loài bọ trĩ hại lạc F.intonsa bằng biện
pháp quản lý tổng hợp.
3.5.1 Diễ
n biến mật độ bọ trĩ F.intonsa trên các mô hình thí nghiệm

Qua kết quả nghiên cứu trên 02 mô hình phòng chống loài bọ trĩ
hại lạc F. intonsa ghi lại ở bảng 3.30 và hình 3.29.
Kết quả hình 3.29 cho thấy mật độ bọ trĩ F. intonsa trên mô hình 1
giảm tối thiểu vào ngày điều tra lần thứ 3 (11/4) do nông dân phun
thuốc trừ sâu và chỉ sau đó một thời gian ngắn mật độ bọ trĩ tăng
nhanh vào đỉnh điểm vào ngày điều tra lần thứ 5 đạt 24,72 con/cây.
Vào ngày điều tra lần thứ 7 mật độ bọ trĩ lại tiếp tục giảm do phun
thuốc lần thứ 2. Những ngày điều tra còn lại thấy mật độ bọ trĩ tăng

20
nhẹ và giảm vào cuối vụ do lúc này cây lạc đã già, thức ăn không còn
phù hợp với bọ trĩ nữa trưởng thành ngừng sinh sản và phần lớn di

chuyển sang ruộng khác hoặc cây trồng khác có thức phù hợp hơn.
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22/3 1/4 11/4 21/4 1/5 11/5 21/5 31/5 10/6 20/6
Ngày điều tra
Mật độ con/cây
Mô hình 1
Mô hình 2

Hình 3.29 Diễn biến mật độ F. intonsa trên 2 mô hình canh tác
khác nhau tại Nghi Lộc, Nghệ An, 2010
Trên mô hình 2 (IPM) thực hiện các biện pháp như cơ giới vật lý,
canh tác, hóa học và sinh học (như đã trình bày chi tiết ở trên). Mật độ
bọ trĩ F. intonsa sau lần đầu phun thuốc giảm nhẹ vì sử dụng thuốc
Tập kỳ 1,8 EC, sau đó mật độ tăng nhẹ do ngừng phun thuốc. Ngày
15/4 ngừng sử dụng thuốc và thả bọ xít bắng mồi O. sauteri với tỷ lệ
(1/200) mật độ F.intonsa tăng nhưng chậm đạt đỉnh đạt 14,24 con/
cây. Mật độ bọ trĩ giảm dần sau khi thả lần thứ 3.
3.5.2 Diễn biến mật độ bọ xít nâu nhỏ bắt mồi O. sauteri trên các
ruộng thí nghiệm
Tiếp tục tiến hành điều tra mật độ bọ xít nâu nhỏ bắt mồi

O. sauteri trên các ruộng thí nghiệm chúng tôi thu được kết quả thể
hiện qua hình 3.30.
0.00
0.20
0.40
0.60
0.80
1.00
1.20
1.40
1.60
1.80
2.00
22/3 1/4 11/4 21/4 1/5 11/5 21/5 31/5 10/6 20/6 Ave
Ngày điều tra
Mật độ co/lá
Mô hình 1
Mô hình 2

Hình 3.30 Diễn biến mật độ O. sauteri trên 2 mô hình canh tác
khác nhau tại Nghi Lộc, Nghệ An, 2010

21
3.6.3 Đánh giá hiệu quả kinh tế
Bảng 3.25. Hiệu quả kinh tế của mô hình quản lý tổng hợp lạc
Đơn vị tính: đồng
TT
Nội dung chi
Mô hình 1
Mô hình 2

1
Chi phí vật tư





- Giống
4.000.000

4.000.000


- Nylon


1.000.000


- Phân bón
5.000.000

5.000.000


- Thuốc Bảo vệ thực vật
800.000

400.000


2
Công lao động





- Làm đất
1.800.000

1.800.000


- Công gieo trồng và hàng rào
2.000.000

2.500.000


- Chăm sóc và tưới
700.000

1.000.000


- Phun thuốc
800.000

400.000



- Thu hoạch
6.000.000

6.000.000

3
Tổng chi phí
21.100.000

22.000.000

4
Năng suất (tạ/ha)
25

33

5
Tổng thu
30.000.000

39.600.000

6
Lãi (5-3)
8.900.000

17.500.000


Ghi chú: Giá lạc 12.000 đồng/kg thời điểm tháng 6 năm 2010
Theo kết quả bảng 3.25 cho thấy, so với mô hình 2 năng suất tăng
33% so với mô hình 1. Mặc dù chi phí cho mô hình 2 cao hơn so với
chi phí mô hình 1 nhưng năng suất mô hình 2 cao hơn mô hình 1,
đồng thời mô hình 1 có sử dụng số lần phun thuốc trừ sâu nhiều hơn
gấp 2 lần so với mô hình 2 gây tác động xấu đến môi trường và thành
phần thiên địch của bọ trĩ. Trong quá trình thực hiện mô hình khi thả
bọ xít nâu nhỏ bắt mồi ở mô hình 2 chúng tôi cũng thấy sô lượng của
chúng cũng tăng lên đáng kể do mô hình 2 phun thuốc bảo vệ thực vật
có nguồn gốc thực vật và có số lần phun ít hơn so với mô hình 1. Mô
hình 2 có hiệu quả kinh tế hơn so với mô hình 1 là 8.600.000 đồng/ha
3.6 Đề xuất quy trình quản lý tổng hợp bọ trĩ F. intonsa hại lạc
Cây lạc là cây công nghiệp ngắn ngày, cây lấy dầu có giá trị kinh
tế cao, đồng thời là cây cải tạo đất tốt. Chính vì vậy nhu cầu sản xuất
lạc trên thế giới và Việt nam ngày càng tăng
Việc sử dụng thuốc hóa học một cách không có khoa học để phòng
trừ Bọ trĩ nói chung và sâu hại nói riêng đã làm phát sinh nòi mới,
bùng phát số lượng bọ trĩ, giảm số lượng thiên địch trên đồng ruộng
chính vì vậy để đưa ra được quy trình quản lý tổng hợp bọ trĩ là một
vấn đề hết sức cần thiết. Trong quy trình dưới đây chúng tôi thực hiện

22
theo IPM chọn đất và cày bừa đất kỹ, chuẩn bị kỹ càng khâu chọn
giống và cách bón phân hợp lý để thúc đẩy cây trồng sinh trưởng và
phát triển tốt (Có nylon làm hàng rào, phun nước tưới dạng mưa rào,
phun thuốc hóa học và thả bọ xít nâu nhỏ bắt mồi O. sauteri).
Quy trình kỹ thuật gieo trồng và chăm sóc
1. Vệ sinh đồng ruộng và chuẩn bị đất trồng
Lạc có thể trồng trên đất ruông, đất bãi ven sông, đất cát ven biển
có cơ giới thích hợp là đất thịt nhẹ, đất cát pha chủ động tưới tiêu.

Cày bừa nhỏ, tơi xốp đất và nhặt sạch cỏ dại trước khi lên luống.
Lên luống 1.3 m cả rãnh, rãnh rộng 0.3 m, cao 15 - 20 cm. Mặt luống
rộng 1m được chia làm 4 hàng dọc theo chiều dài luống (hai hàng
bên cách mép luống 12 cm, hàng cách nhau 25 cm) để cây mọc đều
tiếp xúc được với ánh sáng và dinh dưỡng đồng thời dễ chăm sóc
trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
Làm hàng rào chắn bọ trĩ và một số cồn trùng khác, chôn cọc
cách nhau 1 m sau đó dùng dây thép 1 ly để căng và buộc nylon.
2. Hạt giống
Giống được chọn hạt đẹp, đều, nhẵn và có màu sắc sáng hồng
(giống xác nhận có lý lịch rõ ràng)
Là các giống gieo trồng phổ biến trong vùng được khuyến cáo sử
dụng có khả năng kháng đối với sâu bệnh chính trong vùng, không
sử dụng các giống có khả năng nhiễm bọ trĩ cao.
Lượng giống: 110 - 120 kg/ ha (đảm bảo mật độ 40 cây/m
2
)
3. Kỹ thuật chăm sóc
Lượng phân bón cho 1 ha và cách bón: Tối thiếu 10 tấn phân
chuồng N = 40; P
2
0
5
= 120; K
2
0 = 80; vôi bột 500 kg.
Bón 70 % lượng vôi vào lúc bừa lại ruộng lần cuối, rau đó lên
luống, rạch hàng bón toàn bộ phân chuồng và phân vô cơ vào rãnh đã
rạch để gieo lạc, dùng chân lấp một đất mỏng trên phân, trách để
phân tiếp xúc trực tiếp với hạt lạc khi gieo. Lượng vôi còn lại bón

khí kết thúc thời kỳ ra hoa rộ.
Chăm sóc
Dùng các loại thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm để phun lên trên mặt
luống sau khi gieo hạt, trong trường hợp đất khô thì phải phun nước
lã rồi mới phun thuốc trừ cỏ sau.
Tưới nước đảm bảo đủ độ ẩm trên 75% vào các giai đoạn sinh
trưởng và phát triển quan trọng khi cây có 3 - 4 lá thật và khi ra hoa.

23
Đặc biệt khi cây cứng cáp 5 lá thật trở nên có thể tưới cây dưới dạng
phun mưa để rửa trôi bọ trĩ.
Thăm ruộng thường xuyên để theo dõi sự xuất hiện của bọ trĩ nói
riêng và sâu hại lạc nói chung. Khi phát hiện mật độ bọ trĩ cao 9 - 10
con/ cây có thể tiến hành phun thuốc bảo vệ thực vật như Admire
200OD hoặc Oshin 100 SL kết hợp với việc thả bọ xít nâu nhỏ bắt
mồi với tỉ lệ 1/200 (1m
2
thả 2 con) để hạn chế số lượng của chúng.
Chú ý cao điểm xuất hiện của bọ trĩ trong vụ lạc xuân, đỉnh cao
nhất là vào tháng 4, 5.
Ngoài ra có thể bổ sung vi lượng như: Mo, B, Zn, Mg cho cây lạc
vào các thời kỳ thích hợp theo hướng dẫn để cây trồng sinh trưởng
và phát triển khỏe mạnh.
Thu hoạch
Thu hoạch đúng độ chín (số quả già đạt từ 80 - 85%), khi thu
hoạch về cần phơi ngay để giảm tỷ lệ bệnh hại đặc biệt là bệnh mốc
vàng sản sinh độc tố Aflatocxin rất nguy hiểm cho người và gia súc
khi ăn phải.
Vệ sinh đồng ruộng sau khi thu hoạch.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1 Kết luận
1. Đã thu thập xác định được 9 loài bọ trĩ gây hại lạc và 11
loài cây chủ của chúng trên địa bàn nghiên cứu ở Nghệ An; trong đó
lần đầu tiên ghi nhận 02 loài bọ trĩ: Megalurothrips sjostedti
Trybom và Haplothrips gowdeyi Franklin là sâu hại lạc mới ở Việt
Nam. Đồng thời xây dựng được bảng định loại đến loài của bọ trĩ hại
lạc ở Nghệ An bằng đặc điểm hình thái.
2. Thành phần thiên địch của các loài bọ trĩ hại lạc xuân tại
Nghệ An đã xác định được 10 loài thuộc 03 bộ (Hemiptera,
Coleoptera, Hymenoptera) lớp côn trùng, 01 bộ (Acarina) lớp nhện.
Trong đó có tới 4 loài bọ xít bắt mồi thuộc họ Anthocoridae. Loài bọ
xít nâu nhỏ O. sauteri xuất hiện với mức độ cao nhất có ý nghĩa
trong điều hóa số lượng bọ trĩ Frankliniella intonsa ở vùng Nghệ An.
3. Trưởng thành loài bọ trĩ F. intonsa ngoài hại lạc còn gây
hại trên 11 loài ký chủ khác. Vòng đời của bọ trĩ F. intonsa kéo dài
16,62 ± 0,57 ngày ở điều kiện nhiệt độ trung bình 28,07
0
C, độ ẩm
77,7%; 20,08 ± 0,97 ngày ở điều kiện nhiệt độ trung bình là 26,75,
độ ẩm 78,48%.
4. Mật độ của loài bọ trĩ Frankliniella intonsa Trybom hại lạc

24
trên đất cát cao hơn lạc trồng trên đất thịt, ruộng trồng lạc có độ ẩm cao
không thích hợp cho bọ trĩ sinh trưởng, phát triển, ruộng trồng lạc tưới
nước kiểu phun mưa có tác dụng rửa trôi bọ trĩ, giống lạc L14 trồng vụ
muộn mật độ và tỷ lệ hại của F.intonsa cao hơn vụ sớm và chính vụ.
5. Vòng đời của bọ xít nâu nhỏ bắt mồi O. sauteri là 17,19 ±
0,57 ngày ở nhiệt độ 25
0

C, ẩm độ 70% với vật mồi trứng ngài gạo
(Corcyra cephalonica) 14,51 ± 0,59 ngày ở nhiệt độ 30
0
C, ẩm độ 70
với cùng vật nuôi là trứng ngài gạo. Trong khi nuôi bằng vật trứng
nuôi nhện đỏ vòng đời của O. sauteri là 23,03 ±0,66 ngày ở nhiệt độ
25
0
C, 20,93±0,57 ngày ở nhiệt độ 30
0
C. Nuôi bằng vật mồi bọ trĩ
non loài F.intonsa cho kết quả vòng đời là 15,32 ± 0,42 ngày ở nhiệt
độ 25
0
C và 11,45 ± 0,66 ngày ở nhiệt độ 30
0
C.
Sức đẻ trứng của O. sauteri là 2,36 ± 0,04 quả/ngày khi nuôi
bằng nhện đỏ non, 2,20 ± 0,50 quả/ngày khi nuôi bằng bọ trĩ non
F.intonsa.
- Sức tiêu thụ vật mồi của O.sauteri trung bình 15,43
con/ngày (vật nuôi là nhện đỏ) và 29,19 con/ngày (vật nuôi là bọ trĩ
non F.intonsa).
6. Trong 5 loại thuốc hóa học được thử nghiệm thì thuốc
Admire 200 OD có hiệu lực cao nhất trong phòng chống bọ trĩ
O. intonsa, thứ hai là Oshin 100 SL; trong 3 loại thuốc có nguồn gốc
sinh học được khảo nghiệm cho thấy Tập kỳ 1.8 EC có hiệu lực cao
nhất, tiếp theo là Alfapathrin 10 EC và thấp nhất là Acotrin 440 EC.
7. Bước đầu đề xuất quy trình quản lý tổng hợp IPM phòng
chống bọ trĩ F. intonsa hại lạc tại Nghệ An bằng cách phối hợp các biện

pháp: Kỹ thuật làm đất, chọn đất, bón phân theo quy trình, sử dụng
nylon làm hàng rào quanh ruộng, trong quá trình trồng lạc có thể dùng
biện pháp tưới phun mưa, phun thuốc Admire 200OD hoặc Oshin 100
SL kết hợp thả bọ xít nâu nhỏ bắt mồi O. sauteri với tỉ lệ 1/200 (1m
2
thả
2 con). Kết quả thực hiện mô hình quản lý tổng hợp trên cho năng suất
lạc giống L14 tăng năng suất lạc 800 kg/ha, giảm thiệt hại do bọ trĩ tới
40 %, giảm được 6 lần phun thuốc so với mô hình của nông dân.
2 Đề nghị
1. Sử dụng tài liệu đã nghiên cứu về đặc điểm hình thái, khóa
định loại các loài bọ trĩ, đặc biệt loài F.intonsa hại lạc tại Nghệ An
trong công tác đào tạo và tập huấn.
2. Tiếp tục thử nghiệm và mở rộng phạm vi áp dụng quy trình
IPM trên lạc tại các vùng trồng lạc tại Nghệ An và các vùng phụ cận.

×