Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ LIÊN HIỆP QUỐC VÀ QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM_2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.71 KB, 9 trang )

THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ LIÊN HIỆP
QUỐC VÀ QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM

* Khoá đặc biệt thường kỳ: Do Tổng thư ký Liên hợp quốc triệu tập,
theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an hoặc đa số các nước thành viên Liên
hợp quốc. Khoá họp đặc biệt thường kỳ sẽ được tổ chức trong vòng 15
ngày kể từ khi Tổng thư ký nhận được yêu cầu trừ khi Đại hội đồng đã
ấn định ngày tổ chức khoá họp đặc biệt từ trước. Sau đó, Tổng thư ký sẽ
thông báo cho các nước thành viên ít nhất 14 ngày trước khi khai mạc
khoá họp đặc biệt, nếu không thì phải trước 10 ngày. Cho tới nay, đã có
27 khoá họp đặc biệt thường kỳ trong đó chủ yếu là theo yêu cầu của
Đại hội đồng. Chủ đề của các khoá họp bao gồm các vấn đề chính trị,
kinh tế, môi trường, xã hội. Từ năm 1990 trở lại đây, các khoá họp đặc
biệt thường kỳ của Đại hội đồng chủ yếu xoay quanh các vấn đề như:
hợp tác kinh tế quốc tế, ma tuý, dân số, môi trường, bình đẳng giới,
HIV/AIDS. Điều này cho thấy rõ xu thế của của Liên hợp quốc sau
chiến tranh lạnh là tập trung bàn về vấn đề phát triển.

* Khoá họp đặc biệt khẩn cấp: Có thể được triệu tập trong vòng 24 giờ
kể từ khi Tổng thư ký nhận được yêu cầu của Hội đồng Bảo an, hoặc
yêu cầu hoặc thông báo của đa số các nước thành viên Liên hợp quốc.
Khoá họp này phải được thông báo cho các nước thành viên ít nhất trước
12 giờ. Cho tới nay đã có 10 khóa họp đặc biệt khẩn cấp được triệu tập,
trong đó đa số được triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an còn lại
là của các nước đặc biệt quan tâm đến tình hình xung đột. Vì mang tính
khẩn cấp nên chủ đề của các khoá họp này cũng có những nét khác so
với các khoá họp đặc biệt thường kỳ ở chỗ các khoá họp đặc biệt khẩn
cấp thường bàn về các vấn đề chính trị cụ thể như giải quyết xung đột
khu vực hoặc trong bản thân một nước (vấn đề Trung đông 1956,
Hungary 1956, Trung đông 1958, Congo 1960 ).
Khi muốn yêu cầu triệu tập một khoá họp đặc biệt, Hội đồng Bảo an


phải có một quyết định chính thức về vấn đề này được 9 thành viên Hội
đồng Bảo an bỏ phiếu ủng hộ. Mặc dù Hiến chương quy định các khoá
họp đặc biệt được triệu tập theo yêu cầu của đa số thành viên Liên hợp
quốc nhưng trên thực tế cho đến nay chưa có một yêu cầu nào được đưa
ra và có chữ ký của đa số nước thành viên. Thay vào đó, một nước thành
viên sẽ trình yêu cầu triệu tập khoá họp đặc biệt lên Tổng thư ký Liên
hợp quốc. Tổng thư ký sẽ ngay lập tức thông báo các nước thành viên
khác và hỏi ý kiến của họ về yêu cầu này. Nếu đa số các nước bỏ phiếu
thuận trong vòng 30 ngày thì một khoá họp đặc biệt sẽ được triệu tập.

* Kết quả của các khoá họp: thể hiện bằng các nghị quyết và quyết định
được thông qua (các hình thức thông qua văn kiện được đề cập ở phần
thủ tục hoạt động). Các nghị quyết và quyết định này không có giá trị
ràng buộc pháp lý mà chỉ có giá trị khuyến nghị và đạo lý phản ánh ý
chí, nguyện vọng chung của đông đảo các nước thành viên Liên hợp
quốc.

1.3.2. Cơ cấu:

Có 6 Uỷ ban chính:
+ Uỷ ban 1: Giải trừ quân bị và An ninh quốc tế
+ Uỷ ban 2: Kinh tế - Tài chính
+ Uỷ ban 3: Văn hoá - Xã hội - Nhân đạo
+ Uỷ ban 4: Chính trị đặc biệt và Phi thực dân hoá
+ Uỷ ban 5: Hành chính - Ngân sách Liên hợp quốc
+ Uỷ ban 6: Luật pháp quốc tế

Ngoài ra còn có các Uỷ ban sau được thành lập theo các nguyên tắc thủ
tục của Đại hội đồng:


* Các Uỷ ban thủ tục;
* Các Uỷ ban thường trực;
* Các cơ quan đặc biệt và phụ trợ.
* Các Uỷ ban thủ tục

+ Uỷ ban chung
Uỷ ban này gồm Chủ tịch Đại hội đồng, 21 phó chủ tịch và 6 chủ tịch
các uỷ ban chính. Uỷ ban này xem xét chương trình nghị sự tạm thời và
danh sách các vấn đề bổ sung, xem xét các đề nghị về việc bổ sung các
đề mục vào chương trình nghị sự, bố trí sắp xếp các đề mục vào các uỷ
ban và trình báo cáo lên Đại hội đồng để được phê duyệt. Uỷ ban này
giúp Chủ tịch Đại hội đồng vạch ra chương trình nghị sự cho các cuộc
họp toàn thể, quyết định các đề mục trọng tâm, phối hợp công việc giữa
các Uỷ ban, và nói chung làm các việc của Đại hội đồng thuộc thẩm
quyền của Chủ tịch. Uỷ ban cũng có thể đưa khuyến nghị cho Đại hội
đồng về thời gian kết thúc của các khoá họp. Tuy nhiên, Uỷ ban không
thể quyết định bất cứ vấn đề gì có tính chất chính trị.

+ Uỷ ban kiểm tra tư cách đại biểu
Uỷ ban này gồm 9 thành viên được bầu ngay lúc bắt đầu mỗi khóa họp
theo đề nghị của Chủ tịch. Uỷ ban xem xét và báo cáo về các uỷ nhiệm
thư của các đại biểu. Nếu một đại diện bị một thành viên Uỷ ban phản
đối sẽ tạm thời ngồi trong Đại hội đồng với các quyền như các đại diện
khác cho tới khi Uỷ ban đã báo cáo và Đại hội đồng có quyết định về
vấn đề đó.

* Các Uỷ ban thường trực
Có 2 Uỷ ban thường trực được thành lập, theo qui định thủ tục của Đại
hội đồng, để giải quyết các vấn đề tiếp theo trong và giữa các khoá họp
thường kỳ.


+ Uỷ ban tư vấn về các vấn đề hành chính và ngân sách:
Uỷ ban này được thành lập tại phiên họp đầu tiên của Đại hội đồng theo
Nghị quyết 14A(I)(1946). Uỷ ban có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo về
ngân sách thường của Liên hợp quốc và ngân sách của việc gìn giữ hoà
bình và các tài khoản của Liên hợp quốc, và ngân sách hành chính của
các cơ quan chuyên môn. Uỷ ban này cũng tư vấn cho Đại hội đồng về
các vấn đề hành chính và tài chính khác. Số thành viên của Uỷ ban tăng
lên nhiều lần, hiện nay có 16 thành viên (theo Nghị quyết 32/103(1977)
của Đại hội đồng).

Các thành viên của Uỷ ban được Đại hội đồng bầu ra theo khuyến nghị
của Uỷ ban 5 trên cơ sở đại diện cho một khu vực địa lý rộng rãi, và có
quyền tái cử. Phải có ít nhất 3 thành viên là các chuyên gia tài chính
giỏi. Các chuyên gia tài chính này không được nghỉ hưu cùng một lúc.

+ Uỷ ban đóng góp
Uỷ ban này được thành lập theo Nghị quyết 14(I)(1946) của Đại hội
đồng nhằm tư vấn Đại hội đồng về mức đóng góp của các nước thành
viên vào chi tiêu của Liên hợp quốc, định số tiền đóng góp của các nước
thành viên mới, xem xét đề nghị của các nước thành viên về thay đổi
mức đóng, xem xét việc áp dụng Điều 19 Hiến chương Liên hợp quốc
trong các trường hợp chậm đóng niên liễm. Uỷ ban cũng được quyền
khuyến nghị hoặc tư vấn về mức đóng góp cho một tổ chức chuyên môn
nếu được tổ chức đó yêu cầu. Thành viên của Uỷ ban này được tăng lên
nhiều lần, hiện nay có 18 thành viên (theo Nghị quyết 31/96 (1976) của
Đại hội đồng).

Các thành viên của Uỷ ban được Đại hội đồng chọn theo khuyến nghị
của Uỷ ban 5 trên cơ sở đại diện cho một khu vực địa lý rộng rãi và có

trình độ và kinh nghiệm. Nhiệm kỳ là 3 năm, và có quyền được bầu lại.
Thêm vào đó, các cơ quan Hiệp định được thành lập bởi các Công ước
quốc tế phải trình báo cáo lên Đại hội đồng về các hoạt động của họ.

* Các cơ quan đặc biệt và phụ trợ

+ Các cơ quan liên chính phủ:
Uỷ ban hoà giải cho Palestine (1948); Uỷ ban khoa học của Liên hợp
quốc về đánh giá ảnh hưởng của phóng xạ nguyên tử (UNSCEAR)
(1955); Uỷ ban về sử dụng hoà bình khoảng không vũ trụ (thành lập
năm 1959); Uỷ ban đặc biệt về thực hiện Tuyên bố về Phi thực dân hoá-
Uỷ ban 24 (1961); Uỷ ban đặc biệt về các hoạt động gìn giữ hoà bình
(1965); Uỷ ban đặc biệt điều tra các hành động của Israel làm tổn hại các
quyền con người của nhân dân Palestine và các nước Arập khác trên
những lãnh thổ bị họ chiếm đóng (1968); Nhóm làm việc về chi tiêu cho
các công việc cứu trợ của Liên hợp quốc và các cơ quan khác cho tị nạn
Palextin vùng Cận Đông (UNRWA) (1970); Uỷ ban quan hệ với nước
chủ nhà (1971); Uỷ ban đặc biệt về Ấn Độ Dương (1972); Uỷ ban thực
hiện các quyền bất khả xâm phạm của nhân dân Palestine (1975); Uỷ
ban đặc biệt về Hiến chương LHQ (1975); Uỷ ban thông tin (1978); Uỷ
ban giải trừ quân bị (1978); Hội nghị giải trừ quân bị (1978); Uỷ ban về
các hội nghị (1988); Tiến trình tham vấn mở không chính thức về đại
dương và luật biển (1999); Uỷ ban đặc biệt Công ước quốc tế về bảo vệ
và thúc đẩy các quyền và nhân phẩm của người tàn tật (2001), Nhóm
làm việc đặc biệt của Đại hội đồng về các hoạt động tiến hành sau các
hội nghị lớn của Liên hợp quốc và các cuộc họp thượng đỉnh trong lĩnh
vực kinh tế-xã hội (2002).

+ Các nhóm làm việc mở:


-Nhóm làm việc không chính thức về một chương trình nghị sự cho hoà
bình, được thành lập tại Đại hội đồng khoá 47 và ngừng họp từ năm
1996.

-Nhóm làm việc về đại diện bình đẳng và tăng thành viên Hội đồng Bảo
an, được thành lập theo Nghị quyết 48/26 (1993) của Đại hội đồng.

-Nhóm làm việc cấp cao về tình hình tài chính của Liên hợp quốc, được
thành lập theo Nghị quyết 49/143 (1994) của Đại hội đồng và ngừng họp
từ năm 1997.

-Nhóm làm việc cấp cao về tăng cường hệ thống Liên hợp quốc, được
thành lập theo Nghị quyết 49/252 (1994) của Đại hội đồng và hoàn
thành công việc năm 1997.

-Nhóm làm việc về nguyên nhân xung đột và thúc đẩy một nền hoà bình
và phát triển bền vững ở Châu Phi, được thành lập theo Nghị quyết
54/234 (1999) của Đại hội đồng và đình chỉ hoạt động năm 2001.

+ Các cơ quan tư vấn:

- Uỷ ban tư vấn về các chương trình viện trợ của Liên hợp quốc về giáo
dục, truyền bá kiến thức về luật quốc tế (1965).

- Ban tư vấn về các vấn đề về giải trừ quân bị (1982).

+ Các cơ quan chuyên gia:

- Ban kiểm toán (1946)


- Uỷ ban luật quốc tế (ILC) (1947)

- Uỷ ban đầu tư (1947)

- Quỹ hưu của nhân viên Liên hợp quốc (1948)

- Toà án hành chính Liên hợp quốc (1949)

- Ban các kiểm toán viên đối ngoại (1959)

- Đơn vị thanh tra chung (JIU) (1966)

- Uỷ ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL)
(1966)

- Uỷ ban quốc tế về dịch vụ dân sự (1972)

- Uỷ ban giải quyết vấn đề nhà ở cho con người (UN-HABITAT) (1977)

×