Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Ðặng Dung Quốc sĩ, Anh hung ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.45 KB, 7 trang )

Ðặng Dung Quốc sĩ,
Anh hung





ND – Ðặng Tất, Ðặng Dung là hai cha con, người làng Tả Hạ, xã
Tả Thiên Lộc, huyện Thiên Lộc; nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc,
tỉnh Hà Tĩnh.


Nhân Trần Ngỗi, con vua Trần Nghệ Tông, xưng Giản Ðịnh Hoàng đế,
chiêu mộ binh mã nối nghiệp nhà Trần chống quân Minh (1-4-1407),
Ðặng Tất tập hợp quân sĩ đội ngũ chỉnh tề, làm lễ tế trời đất, đánh
trống, phất cờ xuất quân từ Ðại bản doanh (sông Thế Vinh) ra Nghệ
An phò vua Giản Ðịnh chống giặc Minh. Vua phong ông giữ chức Quốc
công, chỉ huy toàn bộ lực lượng nghĩa quân. Với sự phò tá của Ðặng
Tất và đội quân "nhân nghĩa" Hóa Châu mà vùng cai quản của Giản
Ðịnh nhanh chóng được mở rộng thành một dải liên hoàn từ Hải Vân
sơn đến Thanh Hóa. Thế và lực nhà Hậu Trần lúc này đã đủ mạnh,
vua sai Ðặng Quốc công tổng chỉ huy nghĩa quân tiến ra bắc giải
phóng Ðông Ðô.


Ðại Việt sử ký toàn thư ghi: "Khi quân đi qua các xứ Trường Yên, Phúc
Thanh các quân thứ cũ và các hào kiệt không ai không hưởng ứng đi
theo, Tất chọn người có tài bổ cho quan chức" (1).


Khi đã chiếm được Phúc Thanh (thị xã Ninh Bình ngày nay), Ðặng Tất


chủ trương tiến đánh sang tả ngạn sông Ðáy và ở đây đã đánh tan đội
quân 10 vạn người do Tổng binh Mộc Thạnh chỉ huy. Ðây là trận
thắng Bô Cô vang dội, được Ðại Việt sử ký toàn thư ghi: "Tháng 12
năm Mậu Tý, Quốc công Ðặng Tất phá được quân Minh ở kẻ Bô Cô.
Bấy giờ nhà Minh sai Tổng binh Mộc Thạnh lấy tước Kiếm quốc công
mang ấn Chinh di Tướng quân, đem năm vạn quân lại từ Vân Nam
đến Bô Cô. Vừa khi vua cũng từ Nghệ An đem quân đến, quân dung
nghiêm chỉnh, gặp buổi nước triều lên và gió mạnh, sai các quân
thủy, bộ cùng cầm cự. Vua cầm dùi đánh trống, khiến các quân thừa
cơ xông ra đánh từ giờ tỵ đến giờ thân, quân Minh thua chạy. Chém
được Thượng thư binh bộ là Lưu Tuấn, Ðô đốc Lữ Nghị và quân cũ,
quân mới hơn 10 vạn người, chỉ một mình Mộc Thạnh được thoát chạy
lên thành Cổ Lộng" (2).


Chiến thắng Bô Cô là chiến thắng oanh liệt của vua, tôi nhà Trần đánh
bại giặc Minh, gắn liền với tên tuổi vị tổng chỉ huy là Ðặng Tất, là một
mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Ðáng
tiếc là sau chiến thắng Bô Cô đã diễn ra sự phân hóa nội bộ. Trước uy
thế của Ðặng Tất, bọn nịnh thần đã xúc xiểm Giản Ðịnh ám hại Ðặng
Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Tháng 3-1409, đoàn thuyền của Giản Ðịnh
đóng ở Hoàng Giang, Giản Ðịnh cho triệu Ðặng Tất và Nguyễn Cảnh
Chân đến thuyền ngự và bất ngờ sai tay chân giết chết hai ông. Trước
hành động đó, các tướng lĩnh đã từ bỏ Giản Ðịnh, lực lượng nghĩa
quân đã mau chóng tan rã.


Trước sự kiện này, vào thế kỷ 18, nhà sử học Ngô Thời Sĩ bình luận:
"Tất cũng là trí tướng đấy chứ. Nếu được dùng hết mưu đồ của ông thì
giặc Minh cũng phải một phen khốn đốn, quyết không dám bảo nước

ta vô nhân. Tiếc thay vua Giản Ðịnh tự phá hoại bức tường thành của
mình đó" (3).


Về tấm gương yêu nước và khí phách anh hùng của Ðặng Tất đã được
ghi nhận trong cuốn Lịch sử Hà Tĩnh (quê hương ông): "Ðặng Tất bị
giết hại nhưng tấm lòng yêu nước và những cống hiến của ông đối với
sự nghiệp đánh giặc, cứu nước vẫn được nhân dân tôn kính và sử sách
ghi nhận"(4). Vua Lê Thái Tổ đã truy phong Ðặng Tất tước Ðại vương
và ban tám chữ vàng "Tiết liệt cương trung - Trung thần hiếu tử"
(1428).


Đặng Dung (1373 - 1414) là con trưởng của Ðặng Tất, ông giỏi võ
nghệ và văn chương, đã từng cùng cha xông pha trận mạc, là một
tướng tài chống giặc Minh trong thời Giản Ðịnh. Trước sự kiện Giản
Ðịnh giết hại Ðặng Tất cha mình, Ðặng Dung bỏ vua Giản Ðịnh đem
quân về Thanh Hóa rước Trần Quý Khoáng, là cháu của vua Trần
Nghệ Tông vào La Sơn (Hà Tĩnh) tôn lên làm vua, hiệu Trùng Quang
(1409 - 1413). Ðặng Dung được vua Trùng Quang phong chức Bình
chương quốc sự. Ông đã cùng vua và các tướng lĩnh Nguyễn Cảnh Dỵ,
Nguyễn Súy, Nguyễn Biểu dựng cờ tiếp tục đánh quân Minh. Trước
hết, Ðặng Dung đã tìm cách thống nhất được hai cuộc khởi nghĩa dưới
danh nghĩa vua Trùng Quang. Sau đó đã tiến ra bắc đánh tan bọn
xiểm nịnh, bất tài vây quanh Trần Ngỗi, đưa Trần Ngỗi về tôn làm
Thái Thượng hoàng. Như vậy, cuộc khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng
thực chất là bước phát triển của cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi. Hành dinh
của vua Trùng Quang đặt ở bờ sông Lam, thuộc xã Yên Hồ, huyện
Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.



Xuất phát từ căn cứ này, quân khởi nghĩa đánh chiếm Tân Bình,
Thuận Hóa, Hoan Diễn rồi tiến đánh Tây Ðô, Hàm Tử, Chương Dương,
bao vây Cổ Lộng, thành Ðông Quan. Lực lượng quân khởi nghĩa phát
triển nhanh chóng, thanh thế vang dội. Quân của Mộc Thạnh bại trận,
nhà Minh cử Trương Phụ đem đại binh sang cứu viện.


Với 47 nghìn quân, Trương Phụ đã tổ chức phản công, càn quét với
quy mô lớn. Ðặng Dung cùng vua, tôi, tướng lĩnh và nghĩa quân chiến
đấu rất dũng cảm, nhưng do không cân sức, nên nghĩa quân tạm rút
khỏi Hàm Tử, Hạ Hồng, về Nghệ An, Hà Tĩnh rồi vào Hóa Châu, dựa
vào thế núi sông hiểm trở để chặn giặc. Trương Phụ chia quân làm hai
đạo thủy, bộ đuổi theo đến Giả Cảng rơi vào ổ mai phục của nghĩa
quân. Ðêm đó thuyền của Trương Phụ vừa kéo đến thì Ðặng Dung
cùng nghĩa quân phục đánh. Bình chương quốc sự với thanh kiếm long
tuyền nhảy lên thuyền Trương Phụ định bắt sống y nhưng không rõ
mặt, lưỡi kiếm vung lên giết hết tướng tá hộ vệ, còn Trương Phụ nhảy
xuống sông Giả Cảng tẩu thoát. Sáng mai Trương Phụ hoàn hồn mới
nhận ra nghĩa quân ít, lực lượng mỏng, nên tổ chức phản công. Ðặng
Dung phải thu quân vào rừng Thuận Hóa. Trận đánh trên sông Ái Tử
là chiến công oanh liệt trong cuộc đời binh võ của Ðặng Dung. Trận Ái
Tử còn gọi là trận Thái Gia xảy ra với tương quan lực lượng không
ngang sức, bất lợi cho nghĩa quân, nhưng nghĩa quân đã tiêu diệt hơn
một nửa quân số của giặc, phá hủy nhiều thuyền bè, Trương Phụ suýt
bỏ mạng. Do lực lượng quá ít nên sau một cuộc đọ sức quyết liệt,
nghĩa quân phải rút lui. Nói về ý nghĩa của trận Ái Tử, Lịch sử Hà Tĩnh
ghi: "Trận Thái Gia không cứu vãn được nguy cơ thất bại của cuộc
khởi nghĩa, nhưng là một trận đánh gan góc, biểu thị tinh thần không
đội trời chung với quân thù của Ðặng Dung và quân khởi nghĩa"(5).



Do sự phản bội của cha con Phạm Quý Hữu đã tiết lộ cho giặc nội tình
và nơi ẩn náu của vua Trùng Quang, Trương Phụ, Mộc Thạnh tổ chức
vây hãm, càn quét khu rừng Sách Bố, Thuận Hóa, cuối năm 1413,
vua Trùng Quang, Ðặng Dung, Nguyễn Súy đều rơi vào tay giặc.
Vào mùa xuân 1414, Trương Phụ cho giải bằng thuyền vua Trùng
Quang và Ðặng Dung về Yên Kinh, Trung Quốc. Trên đường đi, Ðặng
Dung làm bài thơ "Cảm hoài" khắc lên mạn thuyền. Ðến gần biên giới,
Trùng Quang và Ðặng Dung nhảy xuống biển tuẫn tiết. Bài thơ "Cảm
hoài" do một sứ thần của vua Lê Thái Tổ khi đi sứ sang nhà Minh biết,
đã tìm đọc và thuộc lòng đưa về nước.


Cảm hoài


Thế sự du du, nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai: đồ điếu thành công dị
Vận khứ: anh hùng ẩm hận đa!
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.


Tấm gương trung liệt của Ðặng Tất, Ðặng Dung, hai vị anh hùng lỗi
lạc của đất Lam Hồng đã được vua Lê Thánh Tông ban tặng câu đối:



"Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ
Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng".


Ngày nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tôn vinh
hai danh tướng là "Danh nhân lịch sử dân tộc". Nhà thờ hai ông ở xã
Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh được xếp hạng "Di tích lịch sử
văn hóa quốc gia". Công lao và khí tiết Ðặng Tất, Ðặng Dung để lại
cho các thế hệ con cháu đời đời ghi nhớ và nêu gương.

×