BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
__________________________________________
VŨ THỊ KIM DUNG
THIẾT KẾ GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ CHƯƠNG “DÒNG ĐIỆN
TRONG CÁC MÔI TRƯỜNG” VẬT LÝ 11 THPT BAN CƠ
BẢN NHẰM TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
CỦA HỌC SINH
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Vật lí
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS MAI VĂN TRINH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Khoa đào tạo Sau
đại học, Ban chủ nhiệm khoa Vật lý và tổ bộ môn Phương pháp
giảng dạy Vật lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh, các thầy cô giáo khoa Vật lý trường Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tác giả
trong suốt thời gian học tập ở trường Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh và trường THPT Trần Quang Khải huyện
Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS
Mai Văn Trinh, người đã tận tì
nh hướng dẫn, động viên và giúp
đỡ tác giả trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận
văn.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối
với gia đình, bạn bè và những người thân yêu đã động viên,
giúp đỡ để tác giả hoàn thành l
uận văn này.
TP. HCM, tháng 05 năm 2009
Tác giả
VŨ THỊ KIM DUNG
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BGĐT Bài giảng điện tử
CNTT Công nghệ thông tin
DH Dạy học
DHVL Dạy học vật lý
GAĐT Giáo án điện tử
GV Giáo viên
HS Học sinh
LLDH Lí luận dạy học
MVT Máy vi tính
PPDH Phương pháp dạy học
PPDHTC Phương pháp dạy học tích cực
PPGD Phương pháp giảng dạy
PTDH Phương tiện dạy học
QTDH Quá trình dạy học
SGK Sách giáo khoa
SGV Sách giáo viên
TCHHĐNT Tích cực hóa hoạt động nhận thức
TTC Tính tích cực
TN Thí nghiệm
TNSP Thực nghiệm sư phạm
THPT Trung học phổ thông
MỞ ĐẦU
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Đất nước ta đang trong quá trình xây dựng để hoàn thành cuộc cách mạng công
nghiệp hóa và hiện đại hóa. Để nhanh chóng phát triển kinh tế và hội nhập với thế
giới, chúng ta cần có đội ngũ những người lao động, những cán bộ khoa học kỹ
thuật có trình độ kỹ thuật cao, có năng lực tư duy sáng tạo và có khả năng độc lập
giải quyết vấn đề. Chính vì thế, vấn đề giáo dục và đào tạo đang rất được chú trọng
trong giai đoạn hiện nay. Trong đó việc đổi mới phương phá
p dạy học đóng vai trò
hết sức quan trọng.
Trong những năm gần đây, ngành giáo dục và đào tạo không ngừng đổi mới
chương trình, sách giáo khoa về nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học. Song thực tế phương pháp dạy học (PPDH) trong các bậc đào tạo hiện
nay chủ yếu m
ang tính chất thông báo – tái hiện. Đa số giáo viên vẫn còn sử dụng
phương pháp diễn giảng truyền thống theo lối truyền thụ một chiều, học sinh thụ
động ghi chép và thụ động trong việc tiếp thu tri thức. Kiểu dạy học truyền thống đã
làm cho khả năng tự học, tự chủ, tìm tòi, khả năng tư duy khoa học độc lập của học
sinh bị hạn chế.
Nghị quyết
Trung ương II khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Đổi mới
phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học, áp dụng những phương pháp
giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải
quyết vấn đề”. “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo khắc phục lối truyền t
hụ
một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học…”. Văn kiện đại hội
IX của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “…tiếp tục nâng cao chất lượng toàn diện, đổi
mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý
giáo dục…”. Chỉ thị 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục - Đào
tạo
đã nêu rõ: “Công nghệ thông tin có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung,
phương pháp, phương thức dạy và học”. Bộ GD - ĐT quyết định lấy chủ đề năm
học 2008 - 2009 là “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong GD - ĐT”.
Một trong những biện phá
p quan trọng để thực hiện đường lối trên là đưa học
sinh vào vị trí chủ thể hoạt động nhận thức, thông qua hoạt động tự lực của bản thân
mà ch
iếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực, trí tuệ.
Vật lý học là môn khoa học thực nghiệm, phương pháp nghiên cứu đặc thù của
Vật Lý là phương pháp thực nghiệm. Đổi mới phương pháp dạy học Vật Lý cần
phải hướng vào việc tổ chức cho học sinh hoạt động theo phương pháp thực
nghiệm. Chương “Dòng điện trong các môi trường” liên quan đến những hiện tượng
rất gần gũi với đời sống hàng ngày xung quanh chúng ta. Nội dung chủ yếu là
những m
ô hình lý thuyết giải thích đặc tính dẫn điện của các môi trường và các hiện
tượng điện có liên quan, đồng thời nêu lên một số ứng dụng thực tiễn của các hiện
tượng đó. Do đó những khái niệm này rất trừu tượng. Để học sinh có thể hiểu biết
kiến thức một cách sâu sắc, tránh được những sai lầm do nhận biết bằng những kinh
nghiệm cảm
tính và qua đó có thể vận dụng kiến thức đã học giải thích được các
hiện tượng thực tế, chúng ta cần phải tổ chức các tiến trình dạy học phù hợp sao cho
học sinh có khả năng nghiên cứu tự tìm tòi giải quyết các vấn đề nhằm đáp ứng
những đòi hỏi đa dạng của hoạt động thực tiễn và đảm bảo rằng những kiến t
hức đã
tiếp thu được là những kiến thức thực sự có chất lượng, sâu sắc và vững chắc.
Từ những lý do trên, cùng với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy
học Vật Lý ở trường phổ thông, tôi chọn đề tài: “Thiết kế giáo án điện tử chương
“Dòng điện trong các môi trường” vật lý 11 THPT ban cơ bản nhằm tích cực
hóa hoạt động nhận thức của học sinh”.
II. Mục đích nghiên cứu:
Thiết kế giáo án điện tử dạy học chương “Dòng điện trong các môi trường”
chương trình lớp 11 THPT ban cơ bản nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của
học sinh, lôi cuốn học sinh tham gia vào tiến trình tìm tòi, giải quyết vấn đề trong
quá trình chiếm lĩnh tri thức góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
III. Đối tượng và phạm vi nghiê
n cứu:
1. Đối tượng nghiên cứu:
- Công nghệ thông tin hỗ trợ dạy học.
- Các hoạt động dạy và học một số kiến thức chương “Dòng điện trong các môi
trường” chương trình lớp 11 THPT ban cơ bản.
2. Phạm vi nghiên cứu:
- Thiết kế và sử dụng các giáo án điện tử để dạy học chương “Dòng điện trong các
môi trường” chương trình lớp 11 THPT ban cơ bản.
- Ứng dụng của đề tài vào giảng dạy Vật Lý ở trường THPT Trần Quang Khải,
thành phố Vũng Tàu.
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu các quan điểm hiện đại về dạy học, những định hướng cơ bản của
việc đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc xây dựng tiến trình dạy học, định hướng của
giáo viên trong hoạt động dạy học nhằm phát triển các hành động nhận thức tích
cực, chủ động của học sinh.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học của v
iệc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học, sử dụng phim, tranh ảnh, thí nghiệm ảo, thí nghiệm mô phỏng…hỗ trợ dạy
học.
- Nghiên cứu tư tưởng chỉ đạo về mục tiêu, chương trình sách giáo khoa Vật Lý
11 ban cơ bản nhằm xác định mức độ nội dung, những kiến thức cơ bản học sin
h
cần nắm vững.
- Nghiên cứu nội dung chương “Dòng điện trong các môi trường” và tìm hiểu
những khó khăn khi dạy chương này.
- Soạn thảo một số giáo án điện tử trong chương “Dòng điện trong các môi
trường” với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát huy hoạt
động nhận thức, tích cực, chủ động của học sinh.
- Tiến hành t
hực nghiệm sư phạm theo các tiến trình dạy học đã soạn để đánh giá
hiệu quả của nó đối với việc tiếp nhận kiến thức mới của học sinh qua đó bổ
sung, sửa đổi tiến trình dạy học đã soạn thảo.
V. Giả thuyết khoa học:
Nếu ứng dụng công nghệ thông tin vào thiết kế và sử dụng giáo án điện tử
chương “Dòng điện trong các môi trường” chương trình lớp 11 THPT ban cơ bản
một cách hợp lý thì sẽ phát huy được tính tích cực và chủ động của học sinh trong
quá trình dạy học góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
VI. Phương
pháp nghiên cứu:
1. Nghiên cứu lý luận:
- Nghiên cứu luật giáo dục, các chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương Đảng và
của Bộ giáo dục và đào tạo về những định hướng cơ bản của việc đổi mới
phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiên cứu các tài liệu về lý luận dạy học, các tài liệu về bồi dưỡng, đổi mới
phương pháp giảng dạy ở trường THPT trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiên cứu các tài liệu về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, các tài
liệu trên Internet.
- Nghiên cứu tài liệu Vật Lý học, chương trình và nội dung sách giáo khoa, sách
giáo viên Vật Lý 11 THPT ban cơ bản.
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến chương “Dòng điện trong các m
ôi
trường”.
2. Nghiên cứu thực nghiệm sư phạm:
- Thiết kế giáo án, sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ dạy học. Tiến hành thực
nghiệm sư phạm ở trường phổ thông chương “Dòng điện trong các môi trường”.
3. Phương pháp thống kê toán học:
- Dùng phương pháp thống kê mô tả và thống kê kiểm định để xử lý kết quả
TNSP. Qua đó khẳng định sự khác biệt giữa kết quả học tập của lớp đối chứng
và lớp t
hực nghiệm và khẳng định kết quả nghiên cứu của đề tài.
VII. Cấu t
rúc của luận văn:
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương I: Tổng quan và cơ sở lý luận của việc ứng dụng công nghệ thông tin
hỗ trợ dạy học.
Chương II: Thiết kế giáo án điện tử dạy học chương “Dòng điện trong các môi
trường”.
Chương III: Thực nghiệm sư phạm.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
VIII. Những đóng góp của luận văn:
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông.
- Làm rõ một số khái niệm và thế mạnh của images/pictures (hình ảnh), sound
(âm thanh), animation (ảnh động), bài giảng điện tử, simulation (mô phỏng),
virtual experiment (thí nghiệm ảo) trong việc giảng dạy Vật lý nói riêng và các
bộ môn khoa học tự nhiên nói chung.
- Đề xuất một số cách thức sử dụng và cách thiết kế bài giảng điện tử bằng phần
mềm Powerpoint.
- Cung cấp một số giáo án điện tử chương “Dòng điện trong các môi trường” làm
tư liệu tham khảo cho các giáo viên giảng dạy ở trường phổ thông.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cơ sở lý luận.
1.2. Tích cực hóa hoạt động nhận thức của
HS trong DHVL.
1.3. Vai trò của CNTT trong việc tích cực
hóa hoạt động nhận thức của HS.
1.4. Mô phỏng và thí nghiệm ảo trong dạy
học vật lý.
1.5. Giáo án điện tử.
1.6. Kết luận chương I.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN HỖ TRỢ DẠY HỌC
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 của chính phủ đã nhận định:
Sự đổi mới và phát triển giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội tốt để
giáo dục Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những cơ
sở lý luận, phương thức tổ chức, nội dung giảng dạy hiện đại và vận dụng các kinh
nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển [2]
. Chỉ thị số 58/CT/TW của Bộ Chính trị
(Khóa VIII) khẳng định: ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin (CNTT) là
nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là phương tiện chủ lực
để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước. Mọi lĩnh
vực hoạt động kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh quốc phòng đều phải ứng dụng
CNTT để phát triển.
CNTT và truyền thông là một phần tất yếu của cuộc sống chúng ta. Chỉ thị số
29/2001/CT-BGD&ĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong
ngành giáo dục nêu rõ: CNTT và đa phương tiện sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong
hệ thống quản l
ý giáo dục, trong chuyển tải nội dung chương trình đến người học,
thúc đẩy cuộc cách mạng về phương pháp dạy và học.
Với nhu cầu cấp thiết của thực tiễn giáo dục và đào tạo, những kết quả khả quan
của việc ứng dụng CNTT vào phát triển và hiện đại hóa các phương tiện dạy học
(PTDH) đã tác động sâu sắc đến sự phát triển của nền khoa học và giáo dục hiện đại
của mỗi quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới. Các nhà gi
áo dục tìm cách
nghiên cứu để phát huy một cách tốt nhất PTDH hiện đại (máy tính với môi trường
dạy học Multimedia), đồng thời mở ra những triển vọng mới trong việc ứng dụng nó
để cải tiến phương pháp dạy học (PPDH), nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo hiện
nay.
Việc nghiên cứu ứng dụng C
NTT vào quá trình dạy học (QTDH) được triển
khai mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới. Ở các nước phát triển như Mỹ, Đức, Hàn
Quốc,… các công ty sản xuất thiết bị dạy học (DH) về ứng dụng CNTT đã sản xuất
nhiều sách điện tử, các PTDH hiện đại được điều khiển bởi MVT, hệ thống trường
học được trang bị phòng học đa chức năng với mạng máy tính, máy chiếu khuếch
đại,… đã đánh dấu một cuộc cách mạng mới trong công nghệ DH. Đưa QTDH từ
hình thức dạy học truyền thống thành DH trên mạng, biến Internet với các Website
thành môi trường học tập và thư viện tư liệu cho học sinh (HS) truy cập.
Theo báo cáo tổng kết của U
NESCO (2004), việc triển khai tích hợp CNTT vào
trường học thông qua các dự án thí điểm như trường học thông minh tại một số
nước Châu Á (Malaysia, Philipines, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan,...) đã đem lại
kết quả bước đầu rất khả quan, giúp phát triển tư duy HS.
Ở Việt Nam, thành công của sự nghiệp đổi mới trong hai thập niên qua đã tạo
tiền đề cho việc ứng dụng các thành tựu của CN
TT trong giáo dục - đào tạo. Môn
tin học đã được đưa vào giảng dạy dưới các hình thức và mức độ khác nhau, hầu hết
các trường THPT được trang bị phòng máy tính, phòng nghe nhìn đa chức năng với
máy chiếu khuếch đại,… Nhiều trường THPT, các trường đại học, viện nghiên cứu
đã sử dụng các thiết bị hiện đại phục vụ cho DH. Việc sử dụng Internet như một
công cụ học tập đang dần trở nê
n quen thuộc với HS, SV. Thông qua mạng tương
tác trong trường học, các em có khả năng tiếp cận thông tin nhanh hơn, tìm kiếm
thông tin phục vụ cho việc học tập của bản thân mình.
Xác định tầm quan trọng của việc ứng dụng CNTT và Internet đối với việc dạy
và học trong 5 năm gần đây, nền Giáo dục nước ta đã được Đảng và Nhà nước quan
tâm đặc biệt trong việc đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa phổ thông.
Bên cạnh nhiều dự án
thay sách giáo khoa, đổi mới nội dung chương trình và
phương pháp giảng dạy, đổi mới giáo dục phổ thông, đào tạo GV phổ thông, hàng
năm Nhà nước còn đầu tư một lượng ngân sách lớn cho việc trang bị cơ sở vật chất
sư phạm – thiết bị DH phục vụ DH. Trong các thiết bị DH hiện nay, ngoài các loại
hình thiết bị DH truyền thống như tranh ảnh giáo khoa,
bản đồ giáo khoa, mô hình
mẫu vật,... thì MVT là một loại phương tiện kỹ thuật DH hiện đại không thể thiếu ở
mỗi trường phổ thông. Rất nhiều trường phổ thông đã có phòng học với 20 – 25 bộ
máy vi tính với các thiết bị trợ giảng bằng hệ thống DH đa phương tiện đã kết nối
Internet và có trang Web về trường.
Theo tài liệu của các chuyê
n gia UNESCO Paris, chuyên gia UNESCO
Bangkok, GAĐT đã được thiết kế và sử dụng từ 10 năm trước đây ở các trường từ
bậc TH, THCS, THPT của một số nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
và trên thế giới. Ở Việt Nam GAĐT chỉ được bắt đầu thiết kế và sử dụng ở một vài
trường PT từ năm 2003 trở lại đây. Hiện nay, đối với một số trường TH, THCS,
THPT việc thiết kế và sử dụng GAĐT còn khá mới mẻ. Ở vùng núi, vùng đồng
bằng sông Cửu Long, vùng xa xôi, hẻo lánh... có nhiều GV, cán bộ quản lý các
trường TH, THCS, THPT vẫn c
òn không biết GAĐT là gì.
So với phương tiện DH chỉ có bảng đen, phấn trắng và tranh giáo khoa... thì việc
thiết kế nội dung bài giảng trên MVT với sự hỗ trợ của hệ thống DH đa phương tiện
là một bước đột phá lớn. GAĐT ngoài việc hỗ trợ cho GV, giải phóng bớt sức lao
động ở trên lớp của GV, còn đem đến cho HS phổ thông nhiều thông tin hơn, hấp
dẫn hơn qua các kênh thông tin đa dạng và phong phú: nội dung văn bản, âm thanh,
hình ảnh tĩnh,
động, các đoạn Video Clip sống động. Đặc biệt ở một số nội dung
kiến thức người ta còn có thể xây dựng các mô hình mô phỏng, thí nghiệm ảo, thí
nghiệm mô phỏng để minh họa hoặc chứng minh định luật, đã biến quá trình HS
nhận thức các kiến thức trừu tượng thành quá trình tự HS lĩnh hội kiến thức mới
một cách hào hứng, tích cực.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ GV để có thể sẵn sàng tiếp cận với các
PTDH hiện đại trong DH nói chung và DH
VL nói riêng đang được các trường đại
học, cao đẳng sư phạm dành một thời lượng đáng kể trong chương trình đào tạo.
Các học phần “Tin học ứng dụng trong vật lý”, “Phương tiện dạy học vật lý” đều
đư
ợc triển khai và cập nhật các ứng dụng cụ thể của CNTT trong việc xây dựng,
phát triển và hiện đại hóa PTDH vật lý.
Thực tế hiện nay vấn đề sử dụng máy tính trong DH ở nước ta đã có nhiều công
trình nghiên cứu của các tác giả: Lê Công Triêm, Nguyễn Quang Lạc, Phan Gia
Anh Vũ, Mai Văn Trinh, Phạm Xuân Quế, Nguyễn Xuân Thành,… đã công bố. Tuy
nhiên việc khai thác sử dụng máy tính trong DH ở các trường phổ thông thì rất khác
nhau tùy theo điều kiện cơ sở vật chất và trình độ GV.
The
o đánh giá ban đầu thì hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong DH là khá
khả quan, càng khẳng định vai trò quan trọng của CNTT trong việc đổi mới PP dạy
và học. Tuy nhiên, xét trên diện rộng, tình hình ứng dụng CNTT trong DH ở nước
ta còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế như:
- Nhận thức của GV và HS: Nhiều GV, HS chưa quan tâm tới việc ứng dụng
CNTT vào quá trình giáo dục do đã quen với các PPDH truyền thống. Đây là
khó khăn có tính tất yếu của quá trình phát triển.
- Cơ sở hạ tầng CNTT còn thấp: đây là vấn đề nan giải nhất. Ứng dụng CNTT
trong giáo dục đi liền với đầu tư hệ thống máy tính, mạng máy tính nội bộ, mạng
Internet phục vụ cho GV và HS, các thiết bị ngoại vi như máy ch
iếu, hệ thống
cung cấp điện, phòng máy đạt tiêu chuẩn,… là khó khăn lớn không dễ giải quyết
trên diện rộng.
- Trình độ tin học của GV và HS còn có những bất cập với các ứng dụng cụ thể
của các phần mềm, các thí nghiệm với máy tính…
- Hình thức tổ chức lớp - bài truyền thống sẽ có những điều chỉnh khi đưa CNTT
vào DH. Thay đổi hình thức tổ chức lớp học, phương thức dạy và học sẽ gây kh
ó
khăn cho cả GV, HS và cả các nhà quản lý giáo dục. Chẳng hạn muốn tổ chức
một giờ học bằng bài giảng điện tử, sử dụng projector trang bị cho toàn trường
(vì không có điều kiện trang bị đến từng lớp học) thì phải có sự di chuyển địa
điểm học tập, GV sẽ phải mất thời gian cho việc chuẩn bị PTD
H cho giờ học đó.
1.1.2. Những định hướng cơ bản về đổi mới phương pháp dạy học Vật Lý.
1.1.2.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học: Đổi mới PPDH không có
nghĩa là người thầy phải tìm ra và thực hiện một cách làm hoàn toàn mới, mà là biết
cách vận dụng một cách sáng tạo những cách thức tổ chức hoạt động nhận thức cho
HS, nhằm đạt đư
ợc mục tiêu DH. Cốt lõi của đổi mới PPDH là hướng tới hoạt động
học tập tích cực, chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động: đổi mới nội dung
và hình thức hoạt động của GV và HS, đổi mới hình thức tổ chức DH, đổi mới hình
thức tương tác xã hội trong DH.
- Đối với HS: học tập c
hủ động, tích cực, có năng lực phát hiện và giải quyết
vấn đề, phát triển tư duy linh hoạt tiến đến sáng tạo, hình thành và ổn định
phương pháp và thói quen tự học, khả năng làm việc tập thể.
- Đối với GV:
+ Hạn chế đến mức tối đa việc truyền thụ một chiều, phải làm cho HS tham
gia tối đa vào quá trình dạy học.
+ Phát triển ở HS các kỹ năng, kỹ xảo và năng lực cần thiết.
+ Phong phú hơn về hì
nh thức dạy học.
+ Tăng cường ứng dụng phương tiện dạy học.
+ Tăng cường dạy lý thuyết gắn với thực tiễn, vận dụng kiến thức đã học vào
đời sống.
+ Cải thiện việc kiểm tra và đánh giá kiến thức.
1.1.2.2. Giải pháp đổi mới phương pháp dạy học:
- Hình thành tình huống có vấn đề.
- Giúp HS sử dụng SGK. Ví dụ: cho HS tự đọc phần in nghiê
ng trong SGK, đọc
bài đọc thêm.
- Tăng cường hoạt động tìm tòi.
- Thay đổi hình thức tổ chức dạy học: dạy học trên lớp (học bài mới, ôn tập,
luyện tập, kiểm tra), trong phòng thí nghiệm, thảo luận, làm việc theo nhóm,
tự học, phụ đạo, tham quan,…
- Xây dựng và sử dụng phiếu học tập.
- Tăng cường ứng dụng phương tiện dạy học.
Tuy nhiên đổi mới phương pháp dạy và học không có nghĩa là gạt bỏ các
phương pháp DH truyền thống mà phải liên tục phát huy, kế thừa những ti
nh hoa
của giáo dục truyền thống và tiếp thu có chọn lọc các PPDH hiện đại theo quan
điểm DH tích cực kết hợp với các phương pháp hiện đại nhằm giúp HS phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học,
tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nha
u
trong học tập và trong thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập.
Làm cho “Học” là quá trình kiến tạo, HS tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập,
khai thác và xử lý thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. Tổ
chức hoạt động nhận thức cho HS, dạy HS cách tìm ra chân lý. Chú trọng hình
thành các năng lực (tự học, sáng tạo, hợp tác) dạy phương pháp và kỹ thuật lao
động khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống hiện tại
và tương lai. Những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân HS và cho sự phát
triển của xã hội. Như vậy việc đổi mới PPDH có thể xem như sự vận dụng sáng tạo
các PPDH truyền thống với các phương pháp, phương tiện, công nghệ phù hợp với
đối tượng, nội dung chương trình nhằm làm ch
o người học chủ động, sáng tạo trong
việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và áp dụng các kiến thức thu
được vào trong thực tiễn.
1.2. Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học vật lý
1.2.1. Tính tích cực (TTC): là một phẩm chất của con người trong đời sống xã hội.
Khác với động vật, con người không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên
mà còn chủ động tạo ra những của cải vật chất cần thiết cho sự sống, sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Từ đây con người bộc lộ năng lực sáng tạo, khả
năng khám phá, tạo ra các nền văn minh ở mỗi thời đại, chủ động cải biến m
ôi
trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội.
Tính tích cực trong học tập: TTC được biểu hiện trong hoạt động của mỗi
người, đặc biệt là những hoạt động mang tính chủ động của chủ thể. Trong giáo
dục, hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của chủ thể giá
o dục. TTC trong học
tập về bản chất là tích cực nhận thức, sự mong muốn hiểu biết và có khát vọng
chiếm lĩnh tri thức về thế giới khách quan.
Quá trình nhận thức của loài người là quá trình nghiên cứu, tìm kiếm khám phá
thế giới khách quan. Do đó, trong học tập, người học phải tích cực, chủ động khám
phá những điều c
hưa biết đối với bản thân. TTC nhận thức trong hoạt động học tập
có liên quan đến động cơ học tập. Động cơ học tập đúng đắn sẽ tạo ra hứng thú.
Hứng thú là cơ sở, tiền đề của tính tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý
tạo nên tính tích cực.
TTC trong học tập thể hiện ở các hoạt động khác nhau như hăng hái phát biểu ý
kiến xây dựng bài, tích cực trình bày các vấn đề được nêu, hay nêu thắc mắc, không
thỏa mãn với các câu trả lời của mọi người, kể cả câu trả lời của bản thân, chịu khó
tư duy trước các vấn đề khó, kiên trì giải quyết các bài tập theo các cách khác
nhau…
TTC học tập được phân chia thành các cấp độ từ thấp đến cao:
- Bắt chước: cố gắng hành động theo mẫu của giáo viên và bạn bè.
- Tìm tòi: độc lập trong tư duy khi giải quyết các vấn đề, tìm kiếm các cách giải
quyết khác nha
u về một vấn đề…
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo…
Phương pháp dạy học tích cực (PPDHTC): hướng tới tích cực hóa hoạt động
nhận thức của người học nhằm phát huy TTC, chủ động sáng tạo của người học.
Với PPDHTC, người dạy đóng vai trò chủ đạo, người học đóng vai trò chủ động
chiếm lĩnh tri thức.
Đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực:
- Dạy học tăng cường phát huy tính tự tin, tích cực, chủ động, sáng tạo thông qua
tổ chức thực hiện các hoạt động học tập của HS.
- DH chú trọng rèn luyện phương pháp và phát huy năng lực tự học của HS.
- DH phân hóa kết hợp với hợp tác.
1.2.2. Hoạt động nhận thức
Nhận thức là cơ sở của hành động, nhận thức đúng thì hành động mới đem lại
hiệu quả cao như mong muốn. N
hận thức có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính vì vậy, biện pháp tăng cường hoạt động
nhận thức là biện pháp có vị trí quan trọng, quyết định hướng đi và hiệu quả của
việc nâng cao chất lượng dạy học.
1.2.
3. Tích cực hóa hoạt động nhận thức (TCHHĐNT)
Tích cực hóa (TCH) là một hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người
học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm
kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập.
TCHHĐNT của HS là một trong những nhiệm vụ của thầy giáo trong nhà
trường nhằm
phát hiện những quan niệm sai lệch của HS qua đó thầy giáo có biện
pháp để khắc phục những quan niệm sai lầm đó và cũng là một trong những biện
pháp nâng cao chất lượng DH. Tuy không phải là vấn đề mới, nhưng trong xu
hướng đổi mới DH hiện nay thì việc TCHHĐNT của HS là một vấn đề được đặc
biệt quan tâm. Nhiều nhà vật lý học trên thế giới đang hướng tới việc tìm kiếm
con
đường tối ưu nhằm TCHHĐNT của HS, nhiều công trình luận án tiến sĩ cũng đã và
đang đề cập đến lĩnh vực này. Tất cả đều hướng tới việc thay đổi vai trò người dạy
và người học nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình DH nhằm đáp ứng được yêu
cầu DH trong giai đoạn phát triển mới. Trong đó HS chuyển từ vai trò là người th
u
nhận thông tin sang vai trò chủ động, tích cực tham gia tìm kiếm kiến thức. Còn
thầy giáo chuyển từ người truyền thông tin sang vai trò người tổ chức, hướng dẫn,
giúp đỡ để HS tự mình khám phá kiến thức mới.
Quá trình TCHHĐNT của HS sẽ góp phần làm cho mối quan hệ giữa dạy và
học, giữa thầy và trò ngày càng gắn bó và hiệu quả hơn. TCH vừa là biện pháp thực
hiện nhiệm vụ DH, đồng thời nó góp phần rèn luyện cho HS những phẩm chất của
người lao động mới: tự chủ, năng động, sáng tạo. Đó là một trong những mục tiêu
mà nhà trường phải hướng tới.
Những dấu hiệu quan trọng của sự tích cực trong hoạt động nhận thức:
- HS khát khao tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của GV. Bổ sung các câu
trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình trước một vấn đề nêu ra.
- HS hay nêu thắc mắc, đòi hỏi đư
ợc giải thích cặn kẽ những vấn đề GV trình bày
chưa đủ rõ.
- HS chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức
các vấn đề mới.
- HS mong muốn đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới lấy từ những
nguồn khác nhau, có khi vượt ta ngoài phạm vi bài học, môn học.
1.2.
4. Sự cần thiết của việc tích cực hóa hoạt động nhận thức
HS phổ thông của chúng ta đã quen với cách học truyền thống: thụ động ngồi
nghe GV giảng bài sau đó ngồi chờ GV đọc và chép như một cái máy. Do đó, HS
trở nên có tác phong chậm chạp, thụ động trong suy nghĩ và hành động. Vì vậy,
không thể tự lực giải quyết vấn đề một cách toàn diện được.
Đứng trước
tình hình đó, Bộ Giáo dục yêu cầu đổi mới phương pháp dạy và học
nhằm tạo ra những con người có năng lực, phẩm chất tốt đẹp: biết tư duy độc lập, tư
duy phê phán, tư duy sáng tạo, tự bộc lộ quan niệm riêng của mình và tích cực tham
gia vào hoạt động nhận thức.
Xuất phát từ yêu cầu chung của ngành, yêu cầu riêng của bộ môn, muốn thực
hiện đổi mới PPDH tr
ong QTDH cần thiết có sự tác động bên ngoài vào nhận thức,
tình cảm, ý chí của HS để tạo điều kiện kích thích tính tích cực hoạt động nhận thức
của HS. Sự tác động của các yếu tố bên ngoài phải kích thích vào tính tích cực bên
trong của HS, có như vậy HS mới có thể có thái độ tích cực đối với quá trình nhận
thức và làm cho kết quả được nâng cao. Phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức
của người học là vấn đề cần t
hiết của việc nâng cao hiệu quả học tập. Do vậy nhiệm
vụ quan trọng của người thầy là phải khơi dậy lòng ham học, nhu cầu học bằng các
tác động sư phạm tích cực dựa vào phương pháp sư phạm hợp lý trên cơ sở tâm lý
của HS để hình thành ở HS trạng thái tích cực trong học tập.
1.2.5. Các biện pháp để tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS
TCHHĐNT của HS có liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó các yếu tố như động
cơ, hứng thú học tập, năng lực, ý chí của cá nhân, không khí DH… đóng vai trò rất
quan trọng. Các yếu tố liên quan chặt chẽ với nhau và có ảnh hưởng tới việc
TCHHĐNT của HS trong học tập. Trong đó có nhiều yếu tố là kết quả của một quá
trình hình t
hành lâu dài và thường xuyên, không phải là kết quả của một giờ học mà
là kết quả của cả một giai đoạn, của sự phối hợp nhiều người, nhiều lĩnh vực và cả
xã hội. Do đó với vai trò của mình, thầy giáo phải là người góp phần quan trọng
trong việc tạo ra những điều kiện tốt nhất để HS học tập, rèn luyện và phát triển.
Sau đây chúng ta đi và
o một số biện pháp cụ thể:
1.2.5.1. Đảm bảo cho HS có điều kiện tâm lý thuận lợi để tự lực hoạt động
Tạo mâu thuẫn nhận thức, gợi động cơ, hứng thú tìm cái mới: gây kích thích bên
trong bằng mâu thuẫn nhận thức, mâu thuẫn giữa nhiệm vụ mới phải giải quyết và
khả năng hiện có của HS còn hạn chế, chưa đủ, cần cố gắng vươn lên tìm
kiếm một
giải pháp mới, kiến thức mới. Việc thường xuyên tham gia vào giải quyết những
mâu thuẫn nhận thức này sẽ tạo ra thói quen, lòng ham thích hoạt động trí óc có
chiều sâu, tự giác, tích cực.
Ví dụ: Khi giảng dạy bài “Dòng điện trong kim loại” HS đã được học về mạng
tinh thể của kim loại nhưng khi đốt nóng thì các phân tử của kim loại chuyển động
như thế nào và khi đặt kim loại vào trong một điện trường thì hiện tượng gì xảy ra
thì HS hoàn toàn chưa biết. GV dựa và
o đó để đặt ra những câu hỏi dẫn dắt nhằm
đưa HS vào tình huống có vấn đề cần có nhu cầu giải quyết.
Tạo môi trường sư phạm thuận lợi: HS lâu nay quen học thụ động, ít tự lực suy
nghĩ, thường rụt rè, lúng túng, chậm chạp, phạm sai lầm
khi thực hiện các hành
động học tập. GV cần phải tạo điều kiện để HS mạnh dạn tham gia thảo luận, phát
biểu ý kiến của riêng mình, nêu thắc mắc, lật ngược vấn đề, dành nhiều thời gian
cho HS phát biểu, thảo luận dần dần tốc độ suy nghĩ và phát biểu của HS sẽ nhanh
lên.
Ví dụ: GV phải tổ chức, điều khiển lớp học sao cho không khí lớp sôi động, tích
cực, đặt câu hỏi từ dễ đến khó để những HS yếu, kém
cũng có thể trả lời được và
luôn giúp đỡ để HS hoàn thành nhiệm vụ của mình. Trước những câu trả lời của
HS, GV nên để các HS khác nhận xét, bổ sung cuối cùng GV mới đưa ra kết luận
của mình phân tích câu trả lời của HS chỗ nào đúng, chỗ nào chưa đúng, làm như
vậy thì HS mới trở nên mạnh dạn và tích cực tham gia vào công việc học tập.
1.2.5.2. Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của người học
Trong DH tích cực, người học là khách thể của hoạt động dạy nhưng là chủ thể
của hoạt động học – tích cực tham gia vào các hoạt động học tập do G
V tổ chức và
chỉ đạo. Người học được đặt vào trong các tình huống có vấn đề, tự mình khám phá
những tri thức, được trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề
theo suy nghĩ của bản thân, động não tư duy các phương án giải quyết khác nhau
trong một thời gian nhất định… thông qua đó tự lực khám phá những điều mình
chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã đư
ợc GV sắp đặt.
1.2.5.3. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học: là tạo cho người học
động cơ hứng thú học tập, rèn luyện kỹ năng, thói quen ý chí tự học để từ đó khơi
dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, tự bản thân người học tìm kiếm, khám phá
tri thức thông qua các kênh đa dạng khác nhau từ đó chất lượng và
hiệu quả của học
tập sẽ được nâng cao.
Ví dụ: GV tăng cường cho bài tập về nhà, phát phiếu học tập trước mỗi bài mới
để HS soạn trước khi đến lớp, tìm kiếm tư liệu cho bài học, khuyến khích HS tự
thiết kế những thí nghiệm đơn giản phục vụ cho việc học tập… Chẳng hạn để dạy
bài “Dòng điện trong chất khí” ngoài yêu cầu H
S chuẩn bị phiếu học tập, đọc trước
bài học, GV còn yêu cầu HS tìm hiểu thêm về hiện tượng sét: nguyên nhân gây ra
sét, cách phòng chống sét, tìm kiếm một vài hình ảnh về sét mà các em thấy trong
thực tế. Bugi của các xe có tác dụng gì? Tại sao khi bugi bị ướt thì xe không thể
khởi động được hoặc đột ngột tắt máy?...
1.2.5.4. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
Theo cách này, lớp học là môi trường giao tiếp giữa thầy – trò, trò – trò, tạo nên
mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đư
ờng chiếm lĩnh nội dung học tập.
Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ,
khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Trong
môi trường đó HS dễ dàng bộc lộ những hiểu biết của mình và sẵn sàng tham gia
tích cực vào quá trình DH, vì khi đó tâm lý các em rất th
oải mái.
Ví dụ: GV cho HS thảo luận nhóm để HS trả lời được câu hỏi nguyên nhân nào
gây ra điện trở của kim loại,…
1.2.5.5. Kết hợp đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học
Theo PPDHTC, người dạy tổ chức hướng dẫn cho người học phát triển các kỹ
năng tự đánh giá, tự điều chỉnh hoạt động học. Người dạy tạo điều kiện thuận lợi để
người học được tham gia tương tác, đánh giá lẫn nhau.
Ví dụ: GV đặt câu hỏi cho cả lớp thảo luận theo nhóm
và yêu cầu một thành
viên của một nhóm bất kỳ trả lời. Sau đó cho các nhóm khác tự nhận xét, đánh giá
câu trả lời của bạn từ đó mỗi nhóm tự bổ sung để câu trả lời được hoàn thiện hơn.
Trong quá trình các nhóm làm việc với nhau, GV đảm nhiệm làm trọng tài, đánh
giá, kết luận lại vấn đề cuối cùng và chốt lại kiến thức.
1.2.
5.6. Tạo điều kiện để học sinh có thể giải quyết thành công những nhiệm vụ
được giao
Vì chúng ta chủ trương thường xuyên đặt HS vào chủ thể hoạt động nhận thức
cho nên sự thành công của họ trong việc giải quyết vấn đề học tập có tác dụng rất
quan trọng làm cho họ tự tin, hứng thú, mạnh dạn suy nghĩ để giải quyết những vấn
đề ngà
y càng khó hơn. Thực tế, DH cho biết: nhiều HS tuy không kém thông minh
nhưng vì không có kỹ năng, kỹ xảo cần thiết nên thất bại nhiều lần, không được
giúp đỡ kịp thời trở thành tự ti, rụt rè, rối trí mỗi khi được giao nhiệm vụ. Để khắc
phục tình trạng trên, có thể thực hiện các biện pháp sau đây:
+ Lựa chọn một lôgic nội dung bài học thích hợp: hiện nay chương trình vật lý ở
trường phổ thông khá nặng, GV thuyết trình không đủ thời gian mà nếu để cho H
S
tự lực hoạt động để chiếm lĩnh tri thức thì còn tốn thời gian hơn. Do đó ngoài việc
giảm nhẹ chương trình của các cơ quan chủ đạo, làm chương trình của ngành giáo
dục thì GV phải biết lựa chọn kỹ lưỡng một số vấn đề vừa sức và xác định mức độ
mà HS có thể tham gia trong việc giải quyết từng vấn đề cụ thể.
Ví dụ: Đối với lớp khá
, giỏi thì GV có thể không giảng dạy cụm kiến thức A mà
yêu cầu HS tự thảo luận nhóm và trình bày kết quả, còn với những lớp trung bình,
yếu GV nên đặt câu hỏi dẫn dắt từ dễ đến khó và hướng dẫn từng bước để HS có thể
hoàn thành được nhiệm vụ của mình.
+ Rèn luyện cho HS kỹ năng thực hiện một số thao tác cơ bản bao gồm th
ao tác
chân tay và thao tác tư duy: GV hướng dẫn, gợi mở, đưa ra những câu hỏi từ đơn
giản đến phức tạp để HS có thể làm thường xuyên nhiều lần từ đó HS sẽ tích lũy
được kinh nghiệm, thực hiện đúng và nhanh những thao tác tương tự. Trước mỗi
tiết học tư duy của HS đang ở trạng thái nghỉ ngơi. Vì vậy, trước hết GV phải
TCHHĐNT của HS ngay từ khâu đề xuất vấn đề học tập nhằm vạch ra trước mắt
HS lý do của việc học và giúp các em xác định được nhiệm vụ học tập. Đây là bước
khởi động tư duy nhằm đưa HS vào trạng thái sẵn sàng học tập, lôi kéo HS vào
không khí DH. Khởi động tư duy chỉ là bước mở đầu,
điều quan trọng hơn là phải
tạo ra và duy trì không khí DH trong suốt giờ học. HS càng hứng thú học tập bao
nhiêu, thì việc thu nhận kiến thức của các em càng chủ động tích cực bấy nhiêu.
Muốn vậy cần phải chú ý đến việc tạo các tình huống có vấn đề nhằm gây sự xung
đột tâm lý của HS. Điều này rất cần thiết và cũng rất khó khăn, nó đòi hỏi sự cố
gắng, nỗ lực và năng lực sư phạm của GV. Ngoài ra cũng cần chú ý tới lôgic của bài
giảng. Một bài giảng gồm các mắt xích nối với nha
u chặt chẽ, phần trước là tiền đề
cho việc nghiên cứu phần sau, phần sau bổ sung làm rõ phần trước. Có như vậy thì
nhịp độ hoạt động, hứng thú học tập và quá trình nhận thức của HS mới tiến triển
theo một mạch liên tục không bị ngắt quã
ng.
+ Khai thác và phối hợp các PPDH một cách có hiệu quả, đặc biệt chú trọng tới
các PPDH tích cực. Việc TCHHĐNT của HS phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức
và điều khiển quá trình DH của GV. Bởi vậy, trong tiến trình DH, GV cần phải lựa
chọn và sử dụng các PPDH hiệu quả, đặc biệt là các PPDH tích cực như: Phương
pháp nêu vấn đề, phương phá
p phát triển hệ thống câu hỏi, phương pháp thực
nghiệm… có như vậy mới khuyến khích tính tích cực sáng tạo của HS trong học
tập. Cho HS làm quen với các phương pháp nhận thức vật lý được sử dụng phổ
biến: trong học tập vật lý, ngoài việc quan sát các hiện tượng thực tế HS còn phải
thực hiện các phép suy luận, để rút ra các đặc tính bản chất, các mối quan hệ phổ
biến khách quan của sự vật hiện tượng. Do đó cần phải trang bị cho HS những
phương pháp nhận thức phổ biến, tuy nhiên tùy theo trình độ của HS và các điều
kiện cụ thể của nhà trường m
à tổ chức cho HS tham gia trực tiếp một số giai đoạn
của các phương pháp nhận thức đó.
1.2.6. Sử dụng một số phương pháp đặc thù của bộ môn Vật lý nhằm tích cực
hóa hoạt động
nhận thức của HS
1.2.6.1. Sử dụng phương pháp trực quan và phương tiện trực quan
Phương pháp trực quan: là phương pháp GV nêu vấn đề kết hợp với việc sử
dụng các phương tiện trực quan để dẫn dắt HS giải thích các khái niệm, định luật,
hiện tượng vật lý mà HS quan sát được. Từ đó HS lĩnh hội kiến thức. PPTQ là một
PPDH rất quan trọng, góp phần quyết định cho chất lượng lĩnh hội môn vật lý.
Phương tiện trực quan: bao gồm các dụng cụ, đồ dùng, thiết bị kỹ thuật được
dùng trong quá trình DH làm cơ sở và tạo điều kiện thuận lợi cho HS lĩnh hội kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo. HS có t
hể tri giác trực tiếp nhờ các giác quan.
Vai trò của các phương tiện trực quan:
- Đẩy mạnh và hỗ trợ hoạt động nhận thức của HS: con người nhận thức được
thế giới bên ngoài là nhờ các giác quan. Khi HS bắt đầu học môn vật lý, các em đã
tích lũy được một số hiện tượng do quan sát thực tiễn hoặc do học tập, trao đổi mà
có. Vì vậy muốn cho HS hiểu bài một cách chính xác và sâu sắc thì phải xây dựng
các khái niệm, các thuyết, các định luật từ sự quan sát trực tiếp các hiện tượng.
Nhưng trong lớp học không phải lúc nào cũng có điều kiện để quan sát thực tiễn, do
đó GV phải tạo cho các em quan sát hình ảnh của các hiện tượng đó, tức là phải sử
dụng phương pháp trực quan. Dựa vào các phương tiện trực quan GV có thể cung
cấp cho HS những kiến thức bền vững, chí
nh xác, giúp HS kiểm tra lại tính đúng
đắn của lý thuyết từ đó sửa chữa, bổ sung chúng nếu không phù hợp với thực tiễn.
- Phát triển kỹ năng thực hành: thí nghiệm của GV với những thao tác chuẩn
mực sẽ giúp HS hình thành kỹ năng thí nghiệm một cách chính xác. Sau đó HS tự
tay thực hiện các thí nghiệm và trình độ thao tác được nâng dần lên. Thí nghiệm còn
giúp HS nắm vững kiến thức một cách độc lập để giải thích các hiện tượng và rút ra
những kiến thức trên
cơ sở quan sát được, giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề cho
HS. Trong tiết học, nhiều phương tiện trực quan được sử dụng để kích thích hứng
thú học tập của HS, tạo ra động cơ học tập, rèn luyện thái độ học tập tích cực.
- Phát triển trí tuệ: khi sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các phương tiện trực quan
với những phương pháp và lời dẫn dắt thích hợp của GV sẽ gi
úp HS phát triển óc
quan sát, khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh.
- Giáo dục nhân cách HS: thông qua việc sử dụng các phương tiện trực quan góp
phần hình thành ở HS một hệ thống các khái niệm và nhận thức về thế giới xung
quanh trên cơ sở đó giải thích một cách khoa học các sự vật hiện tượng đã và đang
xảy ra trong tự nhiên và xã hội. Điều đó củng cố niềm tin của H
S vào chân lý khách
quan và có tác dụng hướng dẫn hành động.
Một số phương tiện trực quan thường được sử dụng:
- Mô hình, hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, đồ thị.
- Thiết bị, dụng cụ thí nghiệm.
- Băng hình, đĩa mềm vi tính, máy chiếu đa năng, phần mềm DH.
1.2.6.2. Sử dụng thí nghiệm Vật lý để dạy học Vật lý tích cực
Trong DH Vật lý, thí nghiệm đóng vai trò hết sức quan trọng. Thí nghiệm có thể
đư
ợc sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của quá trình DH, góp phần đơn
giản hóa và trực quan hóa trong DH Vật lý, đặc biệt góp phần phát triển nhân cách
toàn diện HS: so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá…
Ví dụ: Dựa trên các dụng cụ thí nghiệm, GV giới thiệu dụng cụ, từ đó cho HS
thảo luận nhóm để xây dựng các phương án thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm theo
các phương án đã đưa ra từ đó HS phân tích, so sánh với thí nghiệm của các nhóm
khác xem phương án nào khả thi hơn và rút ra kết luận cuối cùng.
1.2.6.3. Sử dụng công nghệ thông tin góp phần đổi mới phương pháp dạy học vật
lý. Sử dụng CNTT cụ thể là sử dụng máy vi tính với những thí nghiệm ảo, thí
nghiệm mô phỏng, hình ảnh sinh động, sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc, âm thanh,
văn bản,… sẽ góp phần nâng cao tính trực quan, từ đó tác động tích cực vào các
giác quan của HS, tạo cơ sở cho việc phát triển các năng lực tư duy của HS
. Như
vậy, việc sử dụng máy vi tính trong DH, gây được sự chú ý của HS vào đối tượng
cần nghiên cứu, hình thành sự tò mò khám phá tri thức và thúc đẩy HS tham gia
một cách tích cực vào tiến trình DH. Đây là điều kiện cần thiết để quá trình lĩnh hội
kiến thức của HS đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, với một số thí nghiệm GV có thể tiến
hành đư
ợc hoặc HS thực hiện được thì nên tiến hành thí nghiệm thật, không nên sử
dụng thí nghiệm trên máy vi tính.
1.2.6.4. Sử dụng phương pháp học tập hợp tác theo nhóm nhỏ
Trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ được hình thành bằng
những hoạt động độc lập cá nhân. Do đó, cần kết hợp dạy học hợp tác theo nhóm
nhỏ để gắn kết sự phối hợp của cá nhân vào tập thể để cùng hoà
n thành nhiệm vụ
học tập và làm tăng hiệu quả học tập.
Dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ là hình thức DH trong đó quá trình nhận thức
được tiến hành thông qua hoạt động của các HS trong nhóm theo một kế hoạch
được GV giao sẵn. Cách DH này có thể tiến hành trong lớp hoặc ngoài lớp (nghiên
cứu ở nhà).
Trên cơ sở học tập theo nhóm, HS mạnh dạn hơn, tự tin hơn, để đưa ra ý kiến
riêng của cá nhân mình, từ đó HS tích cực hoạt động, tham gia xây dựng bài và kiến
thức lúc này mới thực sự là kiến thức của riêng bản thân HS.
Ưu điểm của dạy học theo nhóm nhỏ:
- Giờ học trở nên sôi nổi.
- Tăng cường tính tích cực, chủ động của người học.
- Tạo điều kiện để HS học hỏi lẫn nha
u.
- Tạo cơ hội tối đa cho mọi thành viên trong nhóm được bộc lộ hiểu biết và quan
điểm của mình. Điều này đặc biệt có ích đối với các HS nhút nhát, ít phát biểu trong
lớp.
- Tạo yếu tố kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm và giữa các
nhóm.
- Tạo nhiều cơ hội cho GV có nhiều thông tin phản hồi về người học.
Nhược điểm của dạy học theo nhóm nhỏ:
- Tốn nhiều thời gian.
- Có thể đi chệch hướng với chủ đề, các phát biểu thiếu tập trung, tản mạn.
- Hiệu quả học tập của
nhóm phụ thuộc rất nhiều vào tinh thần tham gia của các
thành viên trong nhóm. Nếu trong nhóm chỉ có một vài người tham gia tích cực thì
lúc này học theo nhóm trở thành sự độc diễn cá nhân, các thành viên khác trở th
ành
người ngoài cuộc, để mặc cho các thành viên khác dẫn dắt.
1.3. Vai trò của công nghệ thông tin trong việc tích cực hóa hoạt động nhận
thức của HS
CNTT bao gồm các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại – chủ yếu là kỹ
thuật máy vi tính và viễn thông nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả
nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt
động của con người và xã hội. Sử dụng CNTT (cụ thể là MVT) vào DH là một
trong những hướng nhằm đổi mới việc dạy và học hiện nay.
Chức năng, phương
tiện dạy học của máy vi tính:
- Tăng cường tính trực quan.
- Lưu trữ, truyền dẫn và xử lý thông tin.